Quên
sao được, ngày 30 Tháng Tư, 1975
Phan Đức Minh –
Saigon Nhỏ
26
tháng 4, 2025
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/quen-sao-duoc-ngay-30-thang-tu-1975/
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2025/04/30-Thang-Tu-1.jpg
Hình
ảnh Ngã tư Trần Hưng Đạo – Cộng Hòa, bên phải là chợ Nancy, thủ đô Sài Gòn.
(Hình minh họa: facebook “Sài Gòn 1975”)
“Nhìn lai quá
khứ gian lao để biết yêu quý hiện tại và tin tưởng ở tương lai.” (Một
triết gia Tây Phương)
Ngày
Quốc Hận 30 Tháng Tư lại đến. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại, dù chỉ là thoáng
qua, những diễn tiến đưa đến biến cố lịch sử đau thương, một mất mát lớn lao ở
mức độ kinh hoàng cho Nam Việt Nam, mà tất nhiên, không thể nào nói lên hết bằng
vài ba trang giấy….
-Ngày
6-1-1975: Tỉnh Phước Long và Thị Xã Phước Bình, cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc,
rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau “Mùa Hè đỏ lửa” từ vùng địa đầu giới
tuyến Quảng Trị, năm 1972, Phước Bình là thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị
quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân VNCH thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc
bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Xô.
Sự
thiếu vắng phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản làm tới vì các
chiến lược gia của cộng sản biết rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời bỏ Việt Nam. Bộ
Chính Trị của Đảng CSVN và Tổng Bí Thư Lê Duẩn lúc bấy giờ, quyết định tăng cường
các cuộc tấn công trên tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó
xẩy ra vào năm 1976 mà thôi.
-Ngày
28-1-1975: Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford yêu cầu Quốc Hội tăng thêm quân
viện cho Nam Việt Nam và Campuchia với ngân khoản 522 triệu Mỹ Kim vì lúc này Tổng
Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc Việt đã có mặt tại Nam Việt Nam tới mức
289,000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực phòng không, do Liên Xô và Trung Quốc
chi viện rất hùng hậu. Để giữ vững “một tiền đồn chống cộng” ở Đông Nam Á Châu
thì ngân khoản 522 triệu đôla có là bao so với những năm trước đó là vài tỉ
đôla 1 năm. Thế nhưng cũng không xong. Người ta đã phải bỏ cuộc mà ra đi
cho rồi…
-Ngày
5-2-1975: Đại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để chỉ huy quân đội cộng
sản.
-Ngày
10-3-1975: Quân Bắc Việt, với những Sư Đoàn thiện chiến, với phương tiện chiến
tranh hiện đại của Liên Xô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê Thuột từ ngày
10-3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này, trong khi những trận
đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung Phần.
-Ngày
14 -3 -1975: Sau khi họp bàn với một số Tướng Lãnh và nhân vật thân cận (?), Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao nguyên Trung Phần và các Tỉnh
phía Bắc của Nam Việt Nam. Các Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân
Đoàn I, Ngô Quang Trưởng, ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những
vùng đất quan trọng, cửa ngõ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc
này, chưa đánh nhau chi cả, trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Đoàn
(Army Corps) Việt Nam Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng
sản. Mất Ban Mê Thuột đâu có nghĩa là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu
2! Ông Thiệu làm như thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường
viện trợ mọi mặt cho Nam Việt Nam, nếu không thì ” Tiền đồn chống cộng ở Đông
Nam Á Châu của Mỹ” là Nam Việt Nam sẽ sụp đổ.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2025/04/30-Thang-Tu-2.jpg
Một
chiến sĩ VNCH đang ôm những đứa trẻ trên trong di tản hồi Tháng Tư 1975 tại
Xuân Lộc. (Hình: TikTok)
Ông
Thiệu không hiểu rõ về người bạn đồng minh khổng lồ của mình! Tại sao?
-Bởi
vì người Mỹ đã tìm cách tháo lui khỏi cái “Vũng lầy Việt Nam” để ra đi một cách
ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó, sau khi ông Cố Vấn An Ninh Quốc
Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger, đã cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống
Richard Nixon sang Trung Cộng nói khéo với Mao Trạch Đông vào năm 1972, qua sự
dàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Đông với sức mạnh đàn
anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đã ép cộng sản Hà Nội
bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại
Salle de Conférence Kléber.
Trong
vụ này, Mỹ được chút lợi lộc là ký được cái “Hiệp Định Ngưng Bắn – Agreement of
Cease-Fire” để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi như mớ giấy
lộn, chẳng có giá trị gì cả, để tránh cái cảnh quân Mỹ tháo lui bỏ chạy vô tổ
chức, nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ, không được nói năng chi tới cái
chuyện quân Bắc Việt đã vào Nam cả mấy chục Sư Đoàn (Divisions) rồi.
Tội
vạ đổ lên đầu người bạn đồng minh VNCH hết cả. Phái đoàn VNCH phản đối mấy cũng
hoài hơi mà thôi vì “Xếp” đã chơi đòn “tháu cáy” rồi thì ráng mà chịu cho quen.
Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là vậy!
Việc
Mỹ làm cú đi đêm (Furtive Conspiracy) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Xô
thì kể như 2 bên cùng có lợi, nhưng riêng phần Trung Cộng thì lời to: Trung Cộng
nhẩy vào ngồi cái ghế “Hội viên thường trực – Permanent Member” của Hội Đồng Bảo
An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (Veto) đáng giá cả… tỷ tỷ Mỹ kim, đánh
văng ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa ra Đài Loan mà chơi, mặc dầu Trung Cộng đánh
thắng và đã kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm 1949.
Thêm
cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu diếm bán vũ khí tối tân cho
Trung Cộng để chống Liên Xô mà không được cho ai biết hết, nhất là Liên Xô, kể
cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa.
Đó!
Mỹ đã tìm cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi thì ông Thiệu bỏ
2 Quân Khu 1 và 2, chớ ông ó bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và Biệt Khu Thủ
Đô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nữa, Mỹ cũng chẳng bao giờ dại dột quay đầu
trở lại để cứu Nam Việt Nam. Nếu nói là cứu thì cứu hết sức từ 1965 đến 1973, với
58 ngàn quân nhân Mỹ hy sinh, mấy ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn bị
thương, hàng triệu người đau khổ, tiền bạc tốn kém biết bao nhiêu tỉ, mà đâu có
cứu nổi! Nay trong lúc đã tan hàng, bỏ chạy thì còn cứu cái nỗi gì nữa đây? Rút
mau chừng nào hay chừng đó!
Đại
quân cộng sản đã từng chiếm đóng thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đã
từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn toàn Thị Trấn An Lộc trong “Mùa Hè
đỏ lửa” 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải bỏ chạy đâu? Trái lại, Quân Lực
VNCH đã phản công một cách vô cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến
lược đã rơi vào tay giặc. Thế thì tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải
bỏ Quân Khu I, trong khi Danh Tướng Ngô Quang Trưởng của “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972,
từng được thế giới biết đến và kính phục, luôn luôn nắm vững tình hình Quân Khu
của ông, trong khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại
Tổng Thống Thiệu trong hệ thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù ông biết rằng
làm như thế là có thể mất lon, phải ra trước Toà Án Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú
đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh Pleiku, vì ông biết rằng, đánh thì chưa chắc
đã chết, nhưng tự dưng bỏ chạy thì chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi
thảm trong cảnh hỗn loạn, dưới những làn mưa bão pháo binh, hoả tiễn của cộng sản,
tự do hoành hành mà không gặp sức chống trả.
Năm
ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo chạy một cách thê thảm, hỗn loạn
thì ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng là phải “Tử thủ thành phố
Huế”. Tướng Ngô Quang Trưởng trả lời không thể nào làm được vì trước đó 5 ngày,
ông Thiệu đã hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I, quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn
rút chạy suốt 5 ngày rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực
lượng để mà “tử thủ Huế!”
-Ngày
24-3-1975: Thấy tình thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định chính thức mở
màn “Chiến dịch Hồ Chí Minh,” giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một “thời khoá biểu”
phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu vào
Tháng Năm. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài Gòn chậm nhất là tuần lễ
cuối cùng của Tháng Tư, trước khi quân đội miền Nam có thể tái phối trí lực lượng
hầu bảo vệ Sài Gòn và Quân Khu 4 ở miền Tây.
-Ngày
25-3-1975: Vào lúc này, dân chúng đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh
cộng sản tàn sát tập thể dân chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Đảng
Phái vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, nên kéo nhau tràn xuống thành phố Đà Nẵng,
lúc đó đang bị quân cộng sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly của Trung Cộng
và đại bác 130 ly của Liên Xô.
Ông
Thiệu còn ra lệnh: Không giữ được Huế thì cũng phải cố mà giữ lấy vùng duyên hải
Đà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ đổ bộ lên, một
khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt VNCH, đương đầu với cuộc xâm lăng
đại quy mô của cộng sản. Tới lúc này mà còn hy vọng Mỹ trở lại cứu VNCH thì làm
sao cho Tướng Ngô Quang Trưởng tuân lệnh được đây!
Hạ
Viện Hoa Kỳ biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa kỳ trên toàn
lãnh thổ Đông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua
ngày 21-9-1973. Kế theo đó, ngày 12-10-1973, Lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn
chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc (sau
bài học cay đắng tại Việt Nam).
-Ngày
29-4-1975: Cộng sản chiếm thành phố Đà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn một
viên đạn nào. Dân chúng tìm mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận
chết chóc, đau đớn chia lìa trong máu và nước mắt…
Kẻ
viết bài này kẹt lại Đà Nẵng, rồi cùng bạn bè đi tù cải tạo, vì trước đó phi đạo
Đà Nẵng bị hoả tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử dụng được nữa, trực thăng
không có, tầu Hải Quân VNCH từ trong Nam kéo ra bãi biển Mỹ Khê, Quận 3 Đà Nẵng
cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành nhau leo lên tầu bằng
đủ mọi cách đã gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ con rơi xuống biển như
những chiếc lá mùa thu.
Kẻ
này phải vỗ vai Đại Úy Từ Khánh Sinh, Quản Đốc Quân Lao Đà Nẵng, cựu Đại Đội
Trưởng nhẩy dù: “Không đi bằng cách này được! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết!“ Đại
Úy Sinh kiếm được tay Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu dìm dưới
nước lên và tính chuyện ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng
AK của du kích địa phương đã chĩa vào cái thuyền: thuyền ra là bắn hết! Cả 2
chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng sâu, núi thẳm ghê người!
Riêng
phần mình, tôi làm luôn một lèo đi tù cải tạo 12 năm, 4 tháng 16 ngày, qua năm
cái trại tù, trong khi bạn bè cùng cảnh ngộ thường chỉ bị giam giữ 5, 7, 9 năm
là ra về…Thật là kinh khủng! Tôi đã từng sống trong nhà tù của Pháp, từng đi
thanh tra trại tù của VNCH, coi trại tù của Mỹ qua truyền hình, báo in, báo điện
tử, nhưng chưa thấy có thứ trại tù nào ghê gớm, kinh khủng, ác ôn, tàn bạo như
nhà tù của cộng sản…
Điều
an ủi cho tôi là trước đó chỉ non một ngày, nhân danh sĩ quan cấp chức cao nhất
của 2 Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I và Toà án Quân Sự Thường Trực Đà Nẵng
còn có mặt, tôi ra lệnh mở cửa nhà tù, phóng thích vô điều kiện tất cả mọi
quân phạm, bất kể sĩ quan hay hạ sĩ quan, binh sĩ, tiểu hay đại hình, xếp
hàng, cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đình trước họa cộng
sản đang tràn đến… Ai cũng có thân nhân, gia đình, ai cũng là người cả!
-Ngày
6 đến 15-4-1975: Hai Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh VNCH cùng với Lữ Đoàn
nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hy vọng đánh trận phản
công. Cộng sản thấy hơi khó ăn vì ngán quân nhẩy dù nên để cho tình hình yên
tĩnh ba ngày. Thế là Lữ Đoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận
đánh lớn giữa Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo
với hai Sư Đoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Đoàn nhẩy dù thiện chiến, người
ta đưa tới đó một đơn vị Biệt Động Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng T-54
của Liên Xô ào ạt tiến vào, chọc thủng phòng tuyến Phan Rang và chiếm đóng vùng
này không khó khăn.
-Ngày
7-4-1975: Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị Cộng Sản, tới tổng hành dinh quân cộng
sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để xem xét tình hình và quyết định kế hoạch
cho giai đoạn chót của cuộc đánh chiếm miền Nam. Lúc này, cộng sản đã kiểm soát
được 2/3 lãnh thổ Nam Việt Nam.
-Ngày
8 đến 21-4-1975: Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, chống giữ
oanh liệt trước sức tấn công vũ bão của hai Sư Đoàn cộng sản nhằm tiến chiếm
Sài Gòn bằng cách phá vỡ phòng tuyến cuối cùng này.
Một
Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Lữ Đoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào
tăng viện. Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này hai Sư Đoàn
nữa là bốn Sư Đoàn tất cả để hòng dứt điểm càng sớm càng tốt. Đánh chiếm miền
Nam mùa xuân năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu
dũng mãnh, oanh liệt của quân đội VNCH. Cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1.
-Tướng
Lê Minh Đảo chỉ huy trận đánh Xuân Lộc – trong lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phía
chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13, đã gửi
1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown, tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa
Kỳ ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu can đảm, dũng mãnh tuyệt vời của Quân Đội
VNCH, dù những bất lợi đang đè nặng lên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dõi
cuộc chiến đấu tại Xuân Lộc, đã nói: “Sự dũng cảm và chiến đấu anh hùng của
quân chính phủ Miền Nam, kể cả địa phương quân tỉnh Long Khánh đã chứng tỏ họ
chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều…” Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu
không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa đánh nhau chi cả thì quân đội
miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh oanh liệt như thế này, và nếu
chính quyền Mỹ không cố ý bỏ chạy khỏi Việt Nam thì làm sao cộng sản chiếm nổi
Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đã xẩy ra để cho quân đội và dân chúng miền
Nam phải lâm cảnh khốn cùng như đã thấy trên khắp mọi ngả đường đất nước.
Cuối
cùng phòng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông đảo và hỏa lực mạnh
gấp 4 lần, vào ngày 21-4-1975, khi Tướng Tư Lệnh Quân Khu 3 VNCH không muốn hy
sinh trong thế tuyệt vọng, cả 1 Sư Đoàn 18 Bộ Binh anh dũng, thiện chiến
trong hoàn cảnh bất lợi về tất cả mọi mặt nên đã ra lệnh cho Sư Đoàn này rút khỏi
phòng tuyến đang trấn giữ.
-Ngày
21 đến 25-4-1975: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ nhiều phía phải
tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Hương để
ra ngoại quốc, bỏ lại đằng sau: quê hương, chiến hữu và đồng bào của ông, là những
gì thiêng liêng mà ông đã từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm chức tổng
thống, cũng như trong các dịp quốc lễ là sẽ sống chết bảo vệ đến hơi thở
cuối cùng.
-Ngày
23-4-1975: Tại Hoa kỳ, Gerald Rudolph Ford – tổng thống thứ 38, người duy nhất
không hề được dân chúng, cử tri bầu, dù là chỉ một phiếu) nói “Chiến tranh Việt
Nam kể như chấm dứt.” Dư luận hiểu rằng chính quyền Mỹ lúc đó đã buông tay và…
tháo chạy bằng mọi giá, trong khi Liên Xô và Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đã
hoàn thành nhiệm vụ “Dứt điểm tiền đồn chống cộng cuả Mỹ tại Á Châu.”
-Ngày
28-4-1975: Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phía, Tổng Thống Trần Văn Hương phải
trao quyền hành cho tướng 4 sao Dương Văn Minh, người đã đóng vai chính trong vụ
đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm Tháng Mười Một năm 1963, để cho
chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam và lãnh đạo cuộc chiến tranh ở
đây theo kiểu “chiến tranh nhà giầu của Mỹ” nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với kiểu
“chiến tranh nhân dân – People’s War” không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn
lộn với nhân dân của cộng sản.
Cộng
sản không mạnh bằng Mỹ về vũ khí chiến tranh nhưng với tinh thần cuồng tín, liều
mạng và hầu như luôn giữ thế tấn công trên các mặt trận, trong khi Mỹ quá mạnh
nhưng luôn ở trong thế thụ động với các mục tiêu, đồn bót, nên thế thuận lợi lại
luôn nghiêng về phía cộng sản.
Có
những chiến lược gia danh tiếng của thế giới đã nêu câu hỏi: Mỹ có muốn và
dám thắng trong cuộc chiến tranh này không?
-Nếu
muốn và dám thắng, không e sợ Liên Xô và Trung Cộng, thì tại sao không giành lấy
thế tấn công từ tay cộng sản? Tại sao không vừa phòng thủ ở miền Nam và đồng thời
dư sức tấn công ồ ạt ra vùng hậu phương Bắc Việt của cộng sản?
Sức
mạnh không quân, hải quân vô địch của Mỹ, cùng các loại hỏa tiễn tối tân yểm trợ
cho một lực lượng lục quân , gồm bộ binh, nhẩy dù, thủy quân lục chiến,
biệt động quân, thiết giáp, pháo binh chọn lọc của Mỹ và VNCH là dư sức
đánh phá tan hoang các căn cứ quân sự, cơ sở chính quyền, kho tàng… không phải
toàn bộ thì cũng là khắp vùng phía Nam Bắc Việt, cái hậu phương đang nuôi sống
lực lượng cộng sản đã tràn vào miền Nam, tiếp tế nguồn sức mạnh tinh thần cho đạo
quân xâm lược này. Miền Bắc bị bỏ trống gần như hoàn toàn, giao cho bộ đội
“chủ lực miền – regional forces” trấn giữ. Mất hậu phương miền Bắc, cơ quan
lãnh đạo cộng sản cùng với dân chúng miền Bắc không ngờ, lâm cảnh rối loạn hơn
cả miền Nam thì lúc đó Liên Xô, là chính yếu và Trung Quốc liệu có cứu nổi miền
Bắc hay không?
Thêm
nữa, sau này, nhiều cựu phi công Mỹ từng lái phản lực cơ chiến đấu, viết
sách, viết trên báo chí để chia sẻ nỗi đau buồn là: họ như đã bị trói tay sau
lưng khi chiến đấu tại Việt Nam, không được phép thắng trận: họ thấy rõ xe cộ của
cộng sản từng đoàn trên đường mòn Hồ Chí Minh, chuyển chở quân lính, vũ khí nặng,
tiếp tế quân nhu thiết yếu cho chiến trường miền Nam, mà không được phép tấn
công tiêu diệt, để cho cộng sản dễ dàng tiếp tế sức mạnh vào miền Nam, tiêu diệt
chính quân đội Hoa Kỳ và bạn đồng minh VNCH.
Năm
2000, trở về thăm quê hương, phố phường, làng xóm cũ ở miền Bắc một lần duy nhất,
kể từ khi bắt đầu xa cách Tháng Mười Một, 1946, tôi có nhiều dịp trò chuyện tâm
tình với người thân ruột thịt đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong Đảng, về
chính trị, quân sự cộng sản thì được hiểu một sự thật là: sự đánh phá của không
quân Hoa Kỳ và Nam Việt Nam chỉ mới xẩy ra trong thời gian ngắn, và ở mức độ
như vậy, để làm áp lực bắt cộng sản Hà Nội giữ thái độ đàng hoàng, nghiêm chỉnh
trong cuộc “Hòa đàm ở Paris” mà hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cấp Trung ương,
thành thị đã rối tinh, rối mù, chưa có định hướng rõ ràng để bảo vệ an toàn
lãnh thổ cũng như dân chúng hoảng loạn, bất ngờ, rất nguy hại cho cuộc chiến đấu
trường kỳ đã tăng tới điểm cao nhất, có thể nổ tung lên bất cứ lúc nào. Nếu
việc tấn công bằng không lực Mỹ và Nam Việt Nam chỉ ở cường độ đó nhưng kéo dài
liên tục 1 tháng nữa thì không ai biết được cục diện của miền Bắc sẽ đi đến
đâu.
Trở
lại vấn đề, Tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống theo đúng với sự sắp xếp của
Hà Nội, qua trung gian của người em ruột Dương Văn Nhựt, sĩ quan cao cấp của cộng
sản, đã có liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho
thăng trung tướng sau khi Tướng Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở
miền Tây. Chuyện đó bại lộ. Tướng Minh, vì có công trạng, và Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con, cùng quê quán xin cho, nên được hai ông Diệm,
Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng
vô thực.
Tổng
Thống “đầu hàng” Dương Văn Minh luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông
Thích Trí Quang, một nhân vật trong hàng lãnh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt,
đã được cộng sản sử dụng vào vị trí “chuyên viên tôn giáo vận tử năm 1946,” hai
lần bị Tây bắt từ hồi chiến tranh Việt-Pháp vì tình nghi hoạt động cho Việt
Minh cộng sản, người đã lãnh đạo dân chúng đấu tranh tôn giáo lật đổ Ông Ngô
Đình Diệm, đấu tranh tôn giáo chống chính quyền Thiệu – Kỳ – Có hồi
1966 ở Miền Trung Việt Nam.
Cuối
cùng ông bị Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vị thủ tướng, cho quân đội
và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt ông Thích Trí Quang cùng nhóm thân cận,
nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm nát bét xã hội miền
Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản.
Tướng
Dương Văn Minh, một tướng đánh giặc giỏi nhưng hoàn toàn không biết gì về chính
trị, lại nhẩy ra làm tổng thống trong giai đoạn nước sắp mất, với một cổ hai
tròng, nhận lệnh từ hai nơi (cả ông Thích Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội
đều hứa hẹn với ông những điều tốt đẹp) thì làm được cái gì đây? Ông Minh làm tổng
thống chỉ làm được có mỗi một việc: theo lệnh của cộng sản, đã chiếm xong dinh
Độc Lập, lên tiếng tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” mà thôi.
Ôi!
Giây phút xót xa, đau đớn cho biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc
gia đã bao năm quyết tâm chống cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt
Nam. Tôi cùng nhiều sĩ quan thân thiết xung quanh, hai tay ôm lấy mặt, nén
chặt trong lòng, trong tim cho tiếng khóc đau xót khỏi bật ra, trong lúc đang bị
tạm giam tại trại tập trung Vĩnh-Điện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người
trong hoàn cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục.
Năm
1951, với tuổi 20, đang đi kháng chiến chống Pháp, tôi bị Tây bắt ở Huyện Tiên
Hưng, Thái Bình lần thứ hai, đem về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái Bình, rồi
đưa về giam ở Nhà Máy Rượu, thành phố Nam – Định mà có sao đâu, coi là chuyện
thường vì đấu tranh cho đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng
hơn 20 năm chống cộng sản, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, rồi phải theo lệnh
bộ đội cộng sản, dí súng vào sau lưng, bắt vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng… Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận vì… mất hết!
mất hết! mất cả thể xác lẫn tâm hồn.
Xin
trở lại: Rạng sáng Ngày 30 Tháng Tư, quân cộng sản tiến vào Sài Gòn, vẫn còn gặp
vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Dương Văn Minh cứ yên trí theo bài bản đã nhận được từ “cấp
trên” qua điện thoại, ra đón tiếp quân “giải phóng” và sau đó “xin bàn giao
chính quyền.” Viên đại tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn
Minh: “Các anh còn cái gì nữa vào lúc này mà đòi bàn giao? Chỉ có chấp nhận đầu
hàng vô điều kiện mà thôi!” Đại Tá cộng sản Bùi Tín (sau bỏ đi Pháp) lúc đó giữ
vai chính ủy bên cạnh viên đại tá chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Độc Lập.
Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ hơn nên nói: ” húng tôi chấp nhận việc đầu hàng của
các ông. Các ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm lăng đã bị đánh bại.
Nếu các ông là những người yêu nước thì hãy coi giờ phút này là niềm vui chung
của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh đã chấm dứt.”
Buổi
sáng hôm đó, Dương Văn Minh bị dẫn giải đến đài phát thanh để tuyên bố đầu
hàng.
Chiến
tranhchấm dứt, đất nước thống nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng,
sung sướng, hạnh phúc mà lại xô nhau chạy đi mọi ngả, tìm cách thoát chạy khỏi
chính quê hương, đất nước của mình để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy,
bị giết chóc, cướp bóc, hải tặc hãm hiếp, quăng xác xuống biển.
Chính
quyền mới truy lùng, tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đã phục vụ cho chế độ cũ, nhân
vật đảng phái chính trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng
núi âm u, hiểm hóc, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng
người quá đông đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại
cải tạo, vừa an toàn lại tiện cho việc khai thác có lợi nhiều cho nên cộng sản
mới phải đưa số đông “kẻ thù” của họ ra Bắc, tống lên các trại cải tạo vùng Thượng
Du Bắc Việt.
Cán
bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo nhìn Sài Gòn và Nam Việt Nam trong cảnh
xác xơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, không che dấu được sự phồn thịnh,
phát triển quá cao so với thiên đàng hay địa ngục Bắc Bộ.
Cộng
sản lớn nhỏ thi nhau vơ vét tài sản của kẻ bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam “tay
sai Mỹ Ngụy” đem về Bắc như những chiến lợi phẩm của một cuộc chiến thắng oai
hùng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân ở Bắc Việt Nam, từng giữ chức
vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng sản thời gian này, tôi được biết mật
lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng: bắt nhốt hết mọi
kẻ có khả năng chống cự, nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát
hại tập thể hay cá nhân, khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động thì tất cả những
kẻ ít nguy hiểm nhất cũng phải tập trung cải tạo.
Vì
thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam ngày 27 Tháng
Hai, 1979 để “dạy cho cộng sản Hà Nội một bài học” thì ngay ngày hôm sau, tất cả
mọi sĩ quan giải ngũ lâu hay mau, không đi cải tạo sau 30-4-1975, cũng phải nhốt
đầu lại hết. Cán bộ, nhất là công an phải tìm cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để
phá tan các gia đình sĩ quan đã đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực
lượng sĩ quan khi trở về, còn có thể làm chi được nữa, chỉ còn lo miếng cơm ăn
cũng không nổi.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2025/04/30-Thang-Tu-3.jpg
10h30
sáng ngày 30-4-1975, những người lính VNCH cởi áo lính nhưng còn đeo thẻ bài
trên cổ đang di chuyển về hướng trung tâm Sài Gòn. Tất cả đều là con của những
người Mẹ Việt Nam sinh ra. Bây giờ các anh ở đâu? Làm gì? Cuộc sống ra sao?
(Hình: Facebook “Nguyễn Đạt”
Thân
phận của một đất nước nhỏ bé đã có “ngàn năm nô lệ giặc Tầu – Trăm năm nô lệ giặc
Tây” nhưng cũng có 900 năm độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của
Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ của nhà Nam
Hán, lúc này lại như thế đó!
Đất
nước Việt Nam cuối cùng chỉ là bãi chiến trường để hai phe đối nghịch ý thức hệ
quốc tế tiêu thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách: chính sách ngăn
chặn (containment policy) của Mỹ chống lại chủ nghĩa bành trướng (expansionism)
của phong trào cộng sản quốc tế. Có bao giờ những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dám
nghĩ rằng: Một ngày nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên trong lịch sử,
với cái giá quá cao, thê thảm như vậy không? Thê thảm đến nỗi Đại Sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn, Graham Martin, suýt nữa thì không kịp ôm lá cờ “Bách chiến bách thắng”
chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không?
Thật
là đau đớn! Tuy nhiên, ở đây tôi cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Đại Sứ Martin
đã cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn lúc đó muốn di
tản 6 – 7 ngàn người Mỹ, bị kẹt lại ở Sài Gòn vào lúc quân cộng sản chuẩn bị
vào làm chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài
Gòn giữ vòng đai an ninh quanh khu vực Tòa Đại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Đội
Thái Bình Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Tòa Đại
Sứ và các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài Gòn, Nam Việt
Nam dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này.
Ông
Đại Sứ Martin khôn ngoan và ít nhiều nhân đạo, chống lại quyết định của Hoa thịnh
Đốn với lý luận: sĩ quan, quân lính Nam Việt Nam còn đông đảo tại Sài Gòn và
vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ còn đủ các loại vũ
khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và tàn nhẫn đó thì
những chiếc trực thăng cất cánh bay lên lập tức sẽ bị bắn hạ như trái cây chín
rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh Nam Việt Nam còn lại
và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài Gòn và dân chúng vô tội sẽ
lãnh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.
Giới
truyền thông của Mỹ, trước và sau ngày Miền Nam sụp đổ, đa số sa vào mê hồn trận
của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do Đảng Cộng
Sản cò con ở Mỹ chủ trương và lãnh đạo, đánh giá Quân Đội VNCH qua hình ảnh những
ngày rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Báo
chí và nhiều nhân vật chính quyền Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, mặc dầu
là quân đội hùng mạnh, vượt trội về mọi mặt hỏa lực, phương tiện chiến tranh,
nhưng lâm vào cái thế khó khăn, rối loạn khi phải đối đầu với cái thứ chiến
tranh không trận tuyến rõ ràng, quân địch lẫn lộn với dân chúng, mục tiêu tìm
chẳng ra, cho nên đã không tiếc lời đổ hết mọi tội lên đầu Quân Đội VNCH là thiếu
tinh thần chiến đấu.
Họ
đâu có biết Quân Đội VNCH chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao, chiến đấu
không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu trong hoàn cảnh
“nhà giầu” như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đó, được bảo vệ, yểm trợ một cách gần
như tuyệt đối.
Họ
đâu có biết chính quyền của ông Johnson ở Hoa Thịnh Đốn đổ quân vào Việt Nam,
hòng tiêu diệt cộng sản ở đây trong vòng ba năm, nhưng lại làm cái việc kỳ
quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ mới hiểu được. Đó! Bán hoặc cho cộng sản Liên
Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy điện toán, dụng cụ, hoá chất, động
cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế tạo xe cộ, súng đạn, để rồi tất cả
những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Phòng, đem vào chiến trường Miền Nam để
giết lính Mỹ và VNCH! Chỉ có Trời mới hiểu nổi!
Quân
Đội VNCH nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại,
khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam sụp đổ, nhiều Tướng Lãnh: Nguyễn Khoa Nam, Phạm
Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng… và nhiều sĩ quan cao cấp khác
đã tự sát trong khung cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội một
quốc gia nào trên thế giới.
Họ
không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh. Hàng triệu quân nhân, viên chức
chính phủ, nhân vật đảng phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổng lồ
nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết tài sản, không
kể sống chết, thảm họa kinh hoàng trên biển cả… là những vấn đề vượt quá khả
năng và tầm tay của người Việt Miền Nam chúng ta. Chỉ có các Đấng thiêng
liêng, chỉ có lịch sử mới hiểu được mà thôi!
***
Điều
đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế giới loài
người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam (mà có những nhà chính
trị, giáo sư đại học lẩm cẩm kêu là cuộc nội chiến, tức là người Việt Nam đánh
lộn với nhau) một bài học đắt giá, quý báu cho người Việt Nam, cho siêu cường
quốc Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới. Nước nhỏ yếu
mà chỉ biết trông cậy, giao tất cả vận mệnh dân tộc mình vào tay một nước lớn mạnh
khác lo hộ hoàn toàn thì nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến.
Cho
đến ít lâu sau, Tháng Ba, 2006, một số các nhân vật chính trị, các giáo sư sử học,
chính trị học mới tụ họp nhau lại ở Boston để tìm ra phần nào những sai lầm,
thiếu sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đã nói sơ lược ở
trên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là một cuốn sách, hầu
cải thiện tình trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq
giữa một siêu cường quốc (superpower) hàng đầu của thế giới loài người với một
quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đã bị thương nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc
(lighting-speed expedition) của lực lượng đồng minh, dân chủ, tự do mà chính yếu
là Hoa Kỳ, vào năm 1991 trong vụ trừng phạt Iraq xâm lăng Kuwait, cái mỏ dầu hỏa
béo bở của vùng Trung Đông.
Chúng
ta có quyền hy vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu nước
trong cũng như ngoài nước, với trình độ kiến thức, hiểu biết rộng rãi về “Tiến
trình của nhân loại – Process of Human Society,” hiểu biết về khoa học, kỹ thuật,
nhất là với niềm tự hào của một dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời
khác, luôn luôn bị xâm lăng, thống trị dã man, tàn bạo, nhưng không bao giờ
đánh mất niềm tin vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt của Ngô Quyền,
Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ… sẽ mãi mãi muôn
đời có mặt trong cộng đồng thế giới tự do, tiến bộ và thật sự văn minh.
-----------------------
Tài
liệu tham khảo:
*The
Death of a Nation. – John A. Stormer. – Liberty Bell Press. – Missouri –
1978.
*The
World Almanac of The Vietnam War -John S. Bowman (General Editor). – Bison
Books Corp, New York. 1985.
*Vietnam
– The History & The Tactics. Ashley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis
Publishing Limited, London –1982.
*Kennedy.
– Theodore Sorensen. – Harper & Row. New York – 1965.
*Henry
Kissinger’s Diplomacy. – Simon & Schuster. New York, 1994.
*A
Book of U.S. Presidents – George Sullivan – Scholastic Incorporation, New York
– 1984.
(San
Diego, California)
No comments:
Post a Comment