Hòa
giải dân tộc thế nào với một thế hệ trẻ hung hăng?
An Bình - Luật
Khoa tạp chí
https://luatkhoa.com/2025/04/hoa-giai-dan-toc-the-nao-voi-mot-the-he-tre-hung-hang/
HÌNH
: https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/04/hung-hang-1536x864.jpg
Đồ họa: Thanh Tường, Tùng Anh,
Thiên Tân / Luật Khoa.
Trước
thềm kỉ niệm 50 năm ngày cuộc chiến Bắc – Nam chấm dứt, Tổng bí thư Tô Lâm đã
có một bài viết với tựa đề “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Bài viết được đánh giá cao khi ở
phần nói về hoà giải, hoà hợp dân tộc, ông Tô Lâm viết “dù ở phía nào của lịch
sử, đều cùng mang một cội nguồn, một ngôn ngữ, một tình yêu dành cho quê hương,
đất nước.”
Việc
người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản dùng cụm từ “dù ở phía nào của lịch sử”,
“phía bên kia” để thay thế cho những cụm từ thường thấy trong tuyên truyền như
“Mỹ – Nguỵ”, “Nguỵ quân – Nguỵ quyền” cho thấy đã có một sự đổi mới trong nhận
thức về lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Với
cương vị của mình, ông Tô Lâm có thể đã gặp được nhiều người, nhiều thành phần
của cả phía bên này và cả bên kia của lịch sử. Những người đã gác lại hận thù,
nỗ lực hàn gắn vết thương Việt Nam để đóng góp, xây dựng đất nước cho dù có
khác biệt về quan điểm chính trị và trải nghiệm lịch sử.
Thế
nhưng cũng với cương vị của ông, tôi không biết ông Tô Lâm có từng chứng kiến
những cuộc khẩu chiến, mạt sát, đấu tố nhau trên một chiến trường mới là mạng
xã hội hay chưa? Liệu ông có chứng kiến những cuộc khẩu chiến đó, để thấy rằng
50 năm trôi qua, lửa hận thù vẫn còn bùng lên mỗi ngày. Không phải đến từ những
người từng trực tiếp trải qua chiến tranh, mà đau đớn thay, nó đến từ thế hệ trẻ
– những người chưa từng nghe tiếng bom rơi đạn nổ, chưa từng sống trong sự chia
cắt Bắc – Nam.
Ông
Tô Lâm viết: “Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam – cùng
chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước thống nhất,
phồn vinh – lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn
cách.”
Trong
bài viết của ông, đó là một thông điệp gửi đến tất cả người dân Việt Nam. Nó
không nên là một câu khẳng định, mà nên là một câu hỏi mà chính ông và những
người trong bộ máy cai trị, bộ máy tuyên truyền của ông phải trả lời.
Câu
hỏi đó tôi xin viết lại như sau: Vậy thì lý do gì để những người Việt
Nam – cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước
thống nhất, phồn vinh – lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và
ngăn cách?
Tại
sao khi những người từng chĩa súng vào nhau, từng ở hai bên chiến tuyến, những
người từng ôm nỗi hận thù đã sẵn sàng tha thứ và chia sẻ cho nhau để cùng hướng
đến tương lai, còn lớp trẻ hôm nay lại cứ ôm mãi sự hận thù ấy để chia rẽ, xúc
xiểm nhau bằng những ngôn từ độc hại bén ngót, sẵn sàng cứa đứt những nỗ lực
hòa giải đến từ những người trực tiếp tham gia cuộc chiến?
Điều
nghịch lý ấy bắt nguồn từ một nền giáo dục lịch sử thiên lệch – một thứ lịch sử
được viết nên bởi “bên thắng cuộc”. Cái lịch sử thiếu khách quan ấy không chỉ
được bộ máy tuyên truyền nhà nước ra rả trong suốt 50 năm mà nó còn được giảng
dạy trong nhà trường một cách rập khuôn. Chính cái cách đóng khung tư duy, dập
tắt những tiếng nói phản biện ngay từ trong tư tưởng đã tạo nên một lớp thanh
niên Việt Nam chỉ nhìn thấy một màu sắc hận thù của lịch sử.
Trong
tiến trình giáo dục dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, yêu nước được đánh đồng với
niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong khi những người
lãnh đạo cấp cao của đảng đôi khi vẫn chừa một tai để nghe một số nhân sĩ trí
thức trong và ngoài nước đối thoại, thì một thế hệ trẻ lại sẵn sàng vùi dập,
“đánh đến chết” những tiếng nói đi ngược với đường lối, chính sách của đảng, mặc
cho những tiếng nói đó là sự góp ý chân thành để xây dựng hay đơn thuần chỉ là
một cảm xúc cá nhân.
Đơn
cử như vụ một cô MC đăng tải trên mạng về việc cô “không
vui, không háo hức, không tự hào” về sự kiện 30/4 đang diễn ra tại Sài Gòn
và sau đó bị cộng đồng mạng vùi dập một cách không thương tiếc. Dù chỉ là một
dòng chia sẻ về cảm xúc cá nhân sau khi bị kẹt xe để phục vụ sự kiện kỷ niệm
30/4, cô MC sau đó phải đóng toàn bộ mạng xã hội trước làn sóng gạch đá của cộng
đồng mạng, cơ quan nơi cô đang làm việc tuyên bố cắt sóng, ngưng hợp tác sau
phát ngôn đi ngược số đông đó.
Hay
rộng hơn là khái niệm “giải phóng miền Nam” trong suốt 50 năm tuyên truyền và
giáo dục ở mái trường xã hội chủ nghĩa đã trở thành chân lý tuyệt đối của một
thế hệ. Nhưng khi những người từng sống ở miền Nam cũ hoặc con cháu của họ đặt
câu hỏi “giải phóng ai, giải phóng điều gì?” thì họ lập tức bị gán cho những
nhãn mác là kẻ không yêu nước, là phản động, thù địch hay là những kẻ quay lưng
với đất nước.
Tất
nhiên, Đảng Cộng sản có những lí lẽ của họ để gọi cuộc chiến tranh Nam – Bắc suốt
20 năm là một cuộc giải phóng. Tuy nhiên những người miền Nam họ cũng có quyền
được thắc mắc những người cộng sản đã “giải phóng ai khỏi điều gì” khi chứng kiến
hàng triệu người Việt phải bỏ đất nước ra đi, hàng chục ngàn người phải đi “học
tập cải tạo” không biết ngày về hay phải trải qua chục năm sống nghèo khổ trong
nền kinh tế bao cấp xã hội chủ nghĩa.
Ông
Võ Văn Kiệt đã từng nói về sự kiện 30/4 rằng “có
triệu người vui và cũng có triệu người buồn”. Triệu người vui có quyền tự
hào đã chiến thắng, đã giải phóng triệu người buồn, thì triệu người buồn ấy
cũng có quyền thắc mắc các ông giải phóng chúng tôi khỏi điều gì và mang lại điều
gì cho chúng tôi.
“Giải
phóng ai, giải phóng điều gì?” – câu hỏi đó thực ra không đáng để sợ hãi hay
lên án. Nó cần được lắng nghe như một phần quan trọng trong hành trình đi đến
hòa giải dân tộc. Sự hòa giải không thể được thiết lập chỉ bằng các nghi lễ tưởng
niệm, các khẩu hiệu sáo rỗng hay kể cả ý chí của những người lãnh đạo cao nhất.
Nó chỉ có thể bắt đầu khi người dân được quyền đối thoại, được quyền đặt câu hỏi
và được quyền nghi ngờ những gì từng được coi là chân lý.
Thế
hệ trẻ ngày nay, thay vì kế thừa tinh thần bao dung và hòa hợp, lại bị nuôi dưỡng
trong một dòng lịch sử chỉ có một màu và mang nặng tính thù hằn bởi một bộ máy
tuyên truyền say men chiến thắng suốt hàng nửa thế kỷ. Trong thế giới phẳng và
kết nối của mạng xã hội, họ dễ dàng tiếp cận những thông tin trái chiều, nhưng
lại thiếu khả năng phân tích và đối thoại, dẫn đến sự cực đoan và cãi vã không
hồi kết. Tệ hơn nữa, thay vì tranh luận để đi tìm lời giải, họ sẵn sàng ném vào
nhau những ngôn từ thù hằn, độc địa và sẵn sàng chụp mũ bất kỳ ý kiến trái chiều
nào là phản động.
Để
đi đến hòa giải, điều cấp thiết là phải khơi thông dòng chảy sự thật lịch sử,
chấp nhận nó như một tổng thể phức tạp, đa chiều, khách quan, thay vì tiếp tục
tô hồng hay tô đen. Khi những thuật ngữ như “giải phóng” hay “nội chiến” còn
gây tranh cãi, thì chính sự tranh cãi ấy cần được tồn tại như một phần của tiến
trình hàn gắn. Không thể có hòa giải thật sự nếu một bên được nói còn bên kia bị
buộc phải im lặng.
Một
đất nước không còn tiếng nói phản biện, không còn không gian để người dân cất
lên những câu hỏi trái chiều, đất nước đó đang tự giới hạn chính mình không chỉ
về tư tưởng mà còn về cơ hội mở ra tương lai. Trong sự câm lặng ấy, người trẻ dễ
bị dẫn dắt bởi cảm xúc thay vì lý trí, dễ bị cuốn vào những vòng lặp thù hằn bởi
không có ai dạy họ cách tha thứ, cách tôn trọng khác biệt và cách học hỏi từ lịch
sử khách quan.
Hoà
giải dân tộc không phải là sự tha thứ từ một phía, cũng không phải là việc xóa
bỏ quá khứ, mà là cùng nhau đối diện với nó, không che giấu, không bóp méo,
không độc quyền. Khi sự thật được đối thoại một cách công khai và bình đẳng,
khi tiếng nói phản biện được tôn trọng như một biểu hiện lành mạnh của dân chủ,
thì đó mới là lúc hành trình hòa giải bắt đầu thật sự.
No comments:
Post a Comment