Sunday, July 31, 2016

VIỆT NAM CÓ DỨT KHOÁT ĐOẠN TUYỆT VỚI CHẾ ĐỘ HỘ KHẨU ? (Phạm Chí Dũng)





Phạm Chí Dũng
July 31, 2016

“Ngũ gia liên bảo”
Chế độ toàn trị có một năng lực hiếm có: rất nhiều quy định pháp quy làm tổn thương đến quyền con người nhưng vẫn được gần hết xã hội đương nhiên chấp nhận sau một thời gian tồn tại đủ dài.

Hộ khẩu là một trong những hệ lụy tổn thương và đang gây ra tổn hại cho nhiều triệu người không có được cuốn sổ “xác minh lý lịch” ấy.

Vào giữa năm 2016, một báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới (WB) cho biết có đến 5.6 triệu người dân không có hộ khẩu mà do đó đã phải chịu tình cảnh bất tương xứng trong việc tiếp cận các dịch vụ công như trường học, bệnh viện, đăng bộ xe… Đây cũng là những vấn đề mà các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã thừa nhận từ lâu nay, tuy chưa chịu tiến hành các biện pháp để cải thiện.

Hộ khẩu cũng là một trong những “con tin” mà giới công an trị của chế độ ưa dùng để khống chế hoạt động của nhiều người trong giới đấu tranh dân chủ và nhân quyền. Trong vô số trường hợp, công an phường xã đã tổ chức chiến dịch “kiểm tra hộ khẩu” vào đêm khuya đối với những người sắp đi biểu tình phản đối Trung Quốc hoặc bảo vệ môi trường vào sáng hôm sau. Những nhà hoạt động công đoàn độc lập như Trương Minh Đức đã từ lâu trở thành đối tượng bị công an kiểm tra hộ khẩu gay gắt nhất.

Nhìn từ góc độ chính trị, chế độ hộ khẩu ở Việt Nam rất gần gũi với “người anh em” Trung Quốc. Trong lịch sử phương Bắc từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, chế độ “Ngũ gia liên bảo” đã bắt vạ những nhà còn lại trong tổ năm nhà, nếu có một nhà làm phản triều đình. Chế độ hộ khẩu ở Việt Nam cũng khá tương đồng với cơ chế “Propiska” về quản lý nhân khẩu của Liên Xô trước đây. Nhìn chung, đây là một thói quen và cũng là một não trạng rất khó bỏ của các chính quyền quen độc trị.

Riêng ở Việt Nam, chế độ hộ khẩu đã tồn tại đến nửa thế kỷ qua. “Để lâu cứt trâu hóa bùn” – tục ngữ dân gian qua bao nhiêu triều đại ấy hóa ra vẫn đúng cho triều đại sậm bóng hoàng hôn sau này. Nếu gần 500 đại biểu Quốc Hội Việt Nam vẫn chưa thể trở thành nghị sĩ theo đúng nghĩa do thói quen “ngủ ngày,” điều quái lạ là chẳng có mấy người dân Việt dám công hai mở miệng phản đối một chế độ hộ khẩu đã khiến phân hóa bất công đối với gần 6% dân số nước này.

Và cũng như nhiều vấn đề nhân quyền khác, những đòi hỏi về xóa bất công quyền làm người trong chế độ hộ khẩu lại đến từ cộng đồng quốc tế.

Hiện tượng “lạ”

Vào Tháng Sáu năm nay, một hiện tượng có vẻ “lạ” là Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, trên cơ sở phối hợp với WB, đã công bố một bản khảo sát về tình trạng không có hộ khẩu của nhiều người dân. Cùng lúc, một số tờ báo nhà nước cũng đề cập đến tình trạng này theo quan điểm có vẻ đồng thuận với khuyến nghị của WB về sự cần thiết phải bỏ chế độ hộ khẩu ở Việt Nam.

Vì sao lại xuất hiện hiện tượng đặc biệt trên, trong khi hộ khẩu được coi là một công cụ hành chính không chỉ quản lý xã hội mà còn quản lý chính trị của chế độ Việt Nam?

Nếu có thể nhắc lại thì có thể từ năm 2013, việc bỏ chế độ hộ khẩu mới lần đầu tiên được đặt ra một cách rõ nét hơn. Khuyến nghị này đến từ WB và một số tổ chức nhân quyền quốc tế. Tuy vậy, quyền hành xử và quyết định về hộ khẩu lại thuộc Bộ Công An – một cơ quan bị coi là cực kỳ bảo thủ và rất thường bị thế giới lên án về đàn áp nhân quyền trong nước.

Nếu nhà nước Việt Nam đã thường “quên” cả những quyền rất căn bản của người dân – tự do biểu tình, tự do lập hội – được Hiến Pháp quy định từ một phần tư thế kỷ trước, thì việc Bộ Công An cố ý duy trì chế độ hộ khẩu như một loại giấy phép con để có “ba lợi ích” là hoàn toàn dễ hiểu. Chế độ bao giờ cũng tồn tại song trùng trên căn bản lợi ích kinh tế của “lực lượng chuyên chính.”

Cho đến đầu năm 2014, sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, trong cuộc kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) tại Geneva, Thụy Sĩ, đã xuất hiện khuyến nghị bỏ cơ chế hộ khẩu đối với Việt Nam. Khi đó, chính thể Hà Nội không trả lời.

Tháng Mười Hai, 2015, bà Victoria Kwa Kwa, giám đốc WB tại Việt Nam, trao cho chính phủ nước này một bản khuyến nghị bảy điểm, với khuyến nghị đầu tiên là đặc biệt chưa từng có: Việt Nam cần sớm ban hành Luật Lập Hội.

Nửa năm sau đó, có hy vọng khuyến nghị của WB về việc bỏ chế độ hộ khẩu sẽ được chính quyền Việt Nam “xem xét.”

Bài học Cambodia

Trong thực tế, WB cùng với Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và chính phủ Nhật là ba chủ nợ lớn nhất của chính thể Việt Nam. Nhưng từ năm 2015, WB và IMF tuyên bố chấm dứt các khoản cho vay với lãi suất ưu đãi, tức đến giữa năm 2017, Việt Nam sẽ phải vay với lãi suất thị trường.

Không những khó vay, chính phủ Việt Nam đã thực sự chạm vào “thời điểm Minsky” về nhiều món nợ quốc tế đến hạn phải trả. Dù kế hoạch trả nợ nước ngoài của chính phủ Việt Nam trong năm 2016 là $12 tỷ, nhiều người hồ nghi rằng đây chỉ là một con số “cho có,” còn thực chất con số trả nợ có thể cao hơn nhiều, thậm chí tương đương với số tiền $20 tỷ phải trả nợ cho năm 2015.

Bối cảnh cực kỳ khó khăn của ngân sách Việt Nam đang khiến chế độ này “bơi” và có nguy “chìm” nếu không vay mượn được tín dụng quốc tế. Cũng bởi thế, đây là cơ hội để những khuyến nghị về nhân quyền của các tổ chức quốc tế có điều kiện “đưa ánh sáng nghị quyết vào thực tiễn” nhiều hơn.

Gần đây, nguồn tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) vừa cho biết Hoa Kỳ đã theo dõi những chỉ trích của cuộc đàn áp gần đây của chính phủ Cambodia đối với giới đối lập và xã hội dân sự và hành động bằng cách liên kết gói viện trợ hàng triệu đô la của mình cho quốc gia này trong năm 2017 với việc cải thiện nhân quyền.

Gói hỗ trợ của Hoa Kỳ cho Cambodia trong năm tài chính tiếp theo sẽ lên đến khoảng $77.8 triệu, theo một dự luật đã được phê duyệt trong tháng trước. Khoản viện trợ này sẽ dành cho các dự án nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe, dỡ bỏ bom mìn và tòa án xét xử Khmer Đỏ, và một số lĩnh vực khác.

Nhưng dự luật của Hoa Kỳ đã quy định rằng viện trợ cho Cambodia sẽ được giải ngân chỉ khi nào Phnom Penh ngừng “bạo lực và quấy rối đối với xã hội dân sự tại Cambodia, trong đó có đối lập chính trị.”

Vào Tháng Sáu năm nay, sáu tổ chức xã hội dân sự độc lập, với sự khởi xướng của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, đã ra một tuyên bố chung khẩn thiết khuyến nghị các tổ chức tín dụng quốc tế và các chính phủ nước ngoài rằng đã đến lúc cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc đưa nhân quyền như một trong những điều kiện tiên quyết vào các chương trình cung cấp tín dụng, đặc biệt là vốn ODA và IDA, kể cả vay vốn ODA với lãi suất thị trường (không ưu đãi) cho Việt Nam.

Động thái Hoa Kỳ đặt điều kiện nhân quyền về cung cấp viện trợ cho Cambodia có thể là một tín hiệu sẽ gắn chặt viện trợ với cải thiện nhân quyền ở Việt Nam, trong đó đặc biệt là cải cách thể chế về luật pháp. Những quyền tự do lập hội, tự do thành lập công đoàn độc lập cho công nhân, và cả việc xóa bỏ chế độ hộ khẩu mà trong thực tế chính thể Việt Nam dường như đã “chán” chế độ này, đều có thể được ràng buộc mật thiết với viện trợ cùng các nguồn tài chính khác từ phương Tây.




ĐƯỢC "DẠY THÊM MỘT BÀI" NHƯNG CHƯA CHẮC VIÊT NAM HỌC ĐƯỢC GÌ (Người Việt Online) )





Người Việt
July 31, 2016

HÀ NỘI (NV) – Chính quyền Việt Nam chưa có ý kiến chính thức về sự kiện tin tặc xâm nhập, chiếm quyền kiểm soát mạng máy tính hai phi trường Nội Bài và Tân Sơn Nhất.

Chiều 29 Tháng Bảy, thay vì hiển thị thông tin về các chuyến bay, các yêu cầu và hướng dẫn về an toàn hàng không thì toàn bộ màn hình ở hai phi trường lớn nhất Việt Nam là Nội Bài (Hà Nội) và Sài Gòn xuất hiện “những thông tin kích động, xúc phạm Việt Nam và Philippines, xuyên tạc các nội dung về Biển Đông.”

Thậm chí quyền kiểm soát hệ thống phát thanh cũng bị cưỡng đoạt. Trên loa phóng thanh chỉ còn những lời chỉ trích Philippines, Việt Nam và tuyên bố Biển Đông là… của Trung Quốc.

Giới hữu trách tại Việt Nam chỉ còn một lựa chọn: Tắt cả mạng máy tính lẫn hệ thống phát thanh ở Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Việc tiếp nhận khách – kiểm tra giấy tờ tùy thân – phát thẻ lên phi cơ,… được thực hiện trên giấy và bằng tay! Chuyển các thông tin cần thiết đến hành khách bằng loa cầm tay. Tất nhiên, theo sau đó là hàng trăm chuyến bay và hành khách bị trễ chuyến bay. Có một điểm đáng chú ý là thay vì trở thành hỗn loạn, Nội Bài và Tân Sơn Nhất lại rất trật tự. Mọi người nhẫn nại chờ đợi, chịu đựng những bất tiện, không oán thán, chê trách.

Ngoài mạng máy tính điều hành hoạt động và hệ thống phát thanh của phi trường, tin tặc cưỡng đoạt luôn cả quyền kiểm soát trang web của Vietnam Airlines trên Internet. Thông tin cá nhân của khoảng 400,000 hành khách sử dụng các dịch vụ do Vietnam Airlines cung cấp được tin tặc thu thập, đóng thành “gói” để tặng không qua Internet. Đến cuối tuần, một số trang web khác của Việt Nam cũng bắt đầu mất quyền kiểm soát.

Giới hữu trách ở Việt Nam chỉ có vài thông báo liên quan đến sự kiện vừa kể: (1) Đang điều tra và (2) Tin tặc không kiểm soát được mạng máy tính liên quan tới điều hành phi cơ để thiết lập và duy trì an toàn bay.

Tuy nhiên thông báo loại (2) có mâu thuẫn: Trong khi một viên chức Cục Hàng Không Việt Nam khẳng định, mạng máy tính liên quan tới điều hành phi cơ để thiết lập và duy trì an toàn bay là hệ thống riêng biệt, được bảo vệ nghiêm ngặt, tin tặc không thể xâm nhập, cưỡng đoạt quyền kiểm soát thì một viên chức của Vietnam Airlines nói với báo giới là trước đó vài ngày, hãng này đã “chủ động đánh sập hệ thống điều hành liên quan đến an toàn bay để không bị hacker tấn công.”

1937CN, nhóm tin tặc Trung Quốc trước nay vẫn thực hiện nhiều cuộc tấn công trên Internet và được nhiều người tin là thủ phạm vụ tấn công hôm 29 Tháng Bảy, đã lên tiếng phủ nhận những cáo buộc gần đây nhắm vào mình vì cáo buộc đó “không hợp lý, thiếu tính khoa học.” Thông báo viết, đại ý là vào thời điểm nóng bức này, dân chúng Việt Nam nên uống trà, mở quạt, đưa thân nhân ra biển chơi bằng xe hai bánh gắn máy và hãy hô to: “Biển Đông là của Trung Quốc!”

Trong bối cảnh như vậy, VnExpress chọn sự kiện, Nội Bài và Tân Sơn Nhất không những không hỗn loạn mà còn rất trật tự, mọi người nhẫn nại chờ đợi, chịu đựng những bất tiện, không oán thán, chê trách như một bằng chứng cho thấy, cuộc tấn công đã thất bại vì sự đoàn kết và tinh thần dân tộc của người Việt, sẽ là sự bất hạnh cho bất kỳ kẻ nào lăm le tấn công dân tộc này. Tuy nhiên, cảm xúc và nhận định đó bị nhiều người chỉ trích kịch liệt. Tờ Một Thế Giới nhận định, trước những biến cố như vừa kể, phải xem xem nên lựa chọn việc xoa dịu đám đông bằng lập luận “nhờ có cuộc tấn công nên dân chúng Việt Nam đoàn kết với nhau” hay phải truy vấn trách nhiệm của những cá nhân, những giới được trả lương để bảo vệ cộng đồng? Không nên ru ngủ đám đông bằng tinh thần dân tộc viển vông.

Một facebooker tên là Vũ Kim Hạnh, từng là tổng biên tập tờ Tuổi Trẻ, viết rằng, tin tặc của “các bạn bốn tốt” đã “dạy cho Việt Nam một bài học” rằng chúng đã “cắm sâu và bền” trong lòng mạng máy tính điểu khiển hệ thống phi trường Việt Nam nên có thể mắng chửi, khẳng định việc làm chủ Biển Đông, có thể cười ngạo mạn trên hệ thống phát thanh phi trường. Bà Hạnh không xác định “Đó là đòn dằn mặt hay phủ đầu? Đánh lén hay tuyên chiến?” nhưng chúng đã ra tay, trịch thượng và thô lỗ!

Thật ra tin tặc đã tấn công Việt Nam nhiều đợt. Các đợt tấn công thường xảy ra sau khi Việt Nam tỏ thái độ bất phục tùng, không tuân thủ “16 chữ vàng” và “tinh thần bốn tốt” mà Trung Quốc đề ra như kim chỉ nam cho quan hệ Trung – Việt.

Tin tặc cho thấy một cách rất rõ ràng ràng, đánh sập, kiểm soát các trang web tại Việt Nam là chuyện rất dễ dàng. Tháng Tám năm ngoái, Trung Tâm Ứng Cứu Khẩn Cấp Máy Tính Việt Nam (Vncert), thuộc Bộ Thông Tin-Truyền Thông Việt Nam, thú nhận, trong Tháng Bảy, 2015, có 1,007 máy chủ và 2,198 trang web của Việt Nam bị tấn công. Sang tuần đầu tiên của Tháng Tám, con số trang web bị tấn công là 357, trong đó có 18 trang web của hệ thống công quyền.

Hồi giữa năm ngoái, FireEye – một công ty chuyên về an ninh Internet của Hoa Kỳ – công bố một nghiên cứu, theo đó, hacker Trung Quốc đã “bám” Việt Nam suốt 10 năm
Những thông tin vừa kể chỉ minh họa thêm cho một vấn nạn vốn đã được một số chuyên gia về an ninh thông tin cho hệ thống máy tính và mạng viễn thông của Việt Nam cảnh báo trước đó hàng chục năm.

Thậm chí hồi giữa năm 2013, Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam đã lập lại cảnh báo về vấn nạn nan giải này đối với an ninh thông tin tại Việt Nam, bởi gần như toàn bộ thiết bị mà các công ty viễn thông Việt Nam đang sử dụng là sản phẩm do hai công ty Huawei và ZTE của Trung Quốc sản xuất.

Lúc đó, theo Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam, có 6/7 công ty viễn thông ở Việt Nam đang sử dụng thiết bị và công nghệ do Huawei và ZTE cung cấp. Trên toàn Việt Nam, hiện có khoảng 30,000 trạm thu phát sóng (BTS) đang sử dụng thiết bị của Huawei và ZTE. Trước nữa, chỉ tính riêng năm 2009, đã có hơn 5 triệu thiết bị như: modem, router, USB do Huawei và ZTE sản xuất đã được bán trên thị trường Việt Nam. Hiệp hội này xác nhận là chưa thống kê được số thiết bị do Huawei và ZTE sản xuất, đã được bán tại Việt Nam.

Huawei và ZTE là hai công ty hàng đầu của Trung Quốc, chuyên cung cấp thiết bị, công nghệ trong lĩnh vực viễn thông và theo Ủy Ban Tình Báo Hạ Viện Hoa Kỳ, thiết bị, công nghệ của Huawei và ZTE có thể đã được cấy những tác nhân độc hại trước khi bán cho khách hàng, gây ra mối de dọa an ninh đối với Hoa Kỳ.

Tiếc rằng tất cả những cảnh báo đó không được chính quyền Việt Nam quan tâm dẫu cho theo ước đoán của Hiệp Hội An Toàn Thông Tin Việt Nam, rất nhiều máy chủ của các cơ quan thuộc chính quyền Việt Nam đã bị hacker tấn công và kiểm soát, trong đó có khoảng 400 máy chủ bị nối với các mạng máy tính bên ngoài Việt Nam để ăn cắp những thông tin vốn phải được bảo mật.

Cho dù an ninh thông tin ở Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng, chính quyền Việt Nam chỉ bận tâm đến chuyện kiểm duyệt thông tin, ngăn ngừa đối lập chứ chưa làm gì để phòng chống tin tặc. (G.Đ.)