Tuesday, May 31, 2016

PEACE CORPS ĐƯỢC VÀO VIỆT NAM (Bùi Văn Phú)





Posted on May 27, 2016

Trong chuyến công du Việt Nam tuần này, khi loan báo những hợp tác mới giữa hai nước Tổng thống Barack Obama cho biết chương trình Peace Corps (Đoàn Hòa bình) của Hoa Kỳ lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam trong công tác giảng dạy Anh ngữ.

Giám đốc Peace Corps Carolyn Hessler-Radelet nói chuyện với sinh viên vùng Vịnh San Francisco

Sau đó, trong một buổi lễ với sự hiện diện của Ngoại trưởng John Kerry và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, đại diện hai quốc gia là giám đốc Peace Corps, bà Carolyn Hessler-Radelet, và Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Phạm Quang Vinh đã ký các văn bản để khởi động chương trình đem tình nguyện viên đến Việt Nam.

Theo thỏa thuận, Việt Nam đồng ý tiếp nhận tình nguyện viên Peace Corps đến dạy Anh ngữ cũng tham gia vào việc huấn luyện đội ngũ giáo viên tiếng Anh, mở đầu tại Hà Nội, Sài Gòn và sau đó sẽ đến các tỉnh thành khác. Theo dự trù, vào năm tới sẽ có 20 tình nguyện viên đầu tiên đến Việt Nam.

Đây là kết quả của một tiến trình nhiều trở ngại kéo dài trong phát triển quan hệ Mỹ-Việt.

Từ năm 2008, Đại sứ Michael Michalak trong buổi gặp gỡ cộng đồng người Việt ở San Jose cho biết Hoa Kỳ đã đề xuất việc này. Đến năm 2012 một phái đoàn do ông Aaron Williams, giám đốc Peace Corps thời đó, đã đến Việt Nam để xem xét việc thiết lập chương trình, nhưng Hà Nội không tỏ vẻ nhiệt tình vì vẫn còn nghi ngờ hoạt động của Peace Corps.

Trong những thập niên 1960 và 1970 trên truyền thông tại các quốc gia không thân thiện với Hoa Kỳ có cáo buộc rằng tình nguyện viên Peace Corps là những người hoạt động tình báo.

Thời chiến tranh Việt Nam, nhiều thanh niên Mỹ đăng ký làm tình nguyện cho Peace Corps để khỏi phải gia nhập quân đội, tránh qua tham chiến ở Việt Nam.

Năm ngoái, trong chuyến đi Hoa Kỳ của Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, nay là chủ tịch nước, ông đã được giới chức Mỹ trình bày cho hiểu rõ mục tiêu hoạt động của chương trình Peace Corps và sau đó chính ông là người đã đồng ý cho gửi tình nguyện viên đến Việt Nam.

Tháng Bảy vừa qua, khi Đại sứ Hoa Kỳ Ted Osius đến San Jose tôi đặt câu hỏi về triển vọng đưa Peace Corps vào Việt Nam và ông nói chắc chắn sẽ xảy ra trong năm 2015. Khi đó, sau chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì hai bên đã có kế hoạch để Tổng thống Barack Obama thăm Việt Nam vào tháng 11, nhưng chuyến đi không thực hiện được vì Việt Nam bận đón tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Phải đợi đến tuần này, với chuyến đi của Tổng thống Obama thì chương trình đưa tình nguyện viên Peace Corps vào Việt Nam mới chính thức được đại diện hai quốc gia ký kết.

Peace Corps được Tổng thống John F. Kennedy khai sinh năm 1961 với mục đích gửi thanh niên Hoa Kỳ, vừa tốt nghiệp đại học, đến những nước kém phát triển để phục vụ hai năm trong những lãnh vực mà quốc gia đó cần, thường là về giáo dục, y tế, nông nghiệp, chăn nuôi trong những thập niên đầu của chương trình.

Khoảng ba thập niên trở lại đây, Peace Corps đã mở rộng chương trình gồm cả công nghệ thông tin, thương mại, môi trường, phát triển thanh thiếu niên, phát triển cộng đồng.

Đối với những chính phủ không thích Hoa Kỳ, họ nghi ngờ hoạt động của tình nguyện viên vì đó là những thanh niên, thiếu nữ từ bỏ cuộc sống tiện nghi và êm ấm ở Mỹ đến sống hòa nhập với môi trường của người dân địa phương, hiểu được ngôn ngữ và những phong tục tập quán của họ.

Với chính phủ và người dân Hoa Kỳ, những tình nguyện viên Peace Corps được coi như là “đại sứ nhân dân” đại diện cho các tầng lớp xã hội Mỹ ra trước thế giới.

Theo số liệu gần đây nhất của Peace Corps, trong gần 9 nghìn tình nguyện viên đang phục vụ trên 70 quốc gia, 37% là về giáo dục, 22% về y tế và phòng chống bệnh Sida, 14% về thương mại và công nghệ truyền thông, 13% về môi trường.

Con số tình nguyện viên phục vụ ở châu Phi đông nhất, chiếm 41%; Mỹ Latinh 23%; Đông Âu và Trung Á 18%. Con số ở Đông Á bao gồm Trung Quốc, Cambodia, Indonesia, Mongolia, Philippines và Thái Lan chỉ chiếm 8%.

Trong 55 năm hoạt động, Peace Corps đã gửi 220 nghìn công dân Mỹ làm tình nguyện viên đi phục vụ tại 144 quốc gia trên khắp thế giới.

Mỗi năm Peace Corps tuyển chừng 4 nghìn tình nguyện viên. Quá trình tuyển chọn từ lúc nạp đơn cho đến ngày chính thức rời Hoa Kỳ có thể lâu từ 9 tháng đến một năm vì phải qua các thủ tục an ninh và sức khoẻ.

Một tình nguyện viên khi được chọn phải cam kết phục vụ 27 tháng, trong đó có ba tháng học ngôn ngữ và hướng dẫn về văn hóa và phong tục, tập quán nơi sẽ đến làm việc.

Tình nguyện viên được trợ cấp tài chánh để trả tiền nhà, tiền ăn bằng mức sống của một người dân địa phương.

Tôi là một tình nguyện viên Peace Corps được gửi sang Togo dạy lý hóa bậc phổ thông từ 1983 đến 85. Trong hai năm đó tôi sống trong một căn nhà không có điện, không có nước, không ti-vi. Phương tiện giải trí chỉ là chiếc ra-đi-ô cát-sét mang theo để nghe nhạc. Liên lạc với gia đình và bạn bè là những lá thư gửi qua đường bưu điện.

Tác giả và một học sinh của ông

Bây giờ tình nguyện viên không còn cách biệt với bên ngoài như thế nữa vì hầu như khắp nơi trên thế giới đều có thể nối mạng Internet.

Cùng đón Giáng Sinh năm 1983 với học sinh Togo

Năm tôi sang Togo, trong đoàn có tất cả 45 người, làm việc trong nhiều lãnh vực khác nhau gồm dạy toán lý hoá, trồng cây, đào giếng, y tế, huấn luyện sư phạm Anh ngữ.

Việt Nam sẽ đón những tình nguyện viên từ Hoa Kỳ sang giảng dạy và huấn luyện cho các giáo viên tiếng Anh tại Việt Nam. Theo hiểu biết của tôi, để được chọn phục vụ trong ngành này một ứng viên cần có ít nhất bằng cử nhân, đã học những lớp TESL (Teaching English as Second Language) hay TEFL (Teaching English as Foreign Language) và có kinh nghiệm dạy Anh ngữ, càng nhiều năm càng có cơ hội được chọn.

Những tình nguyện viên Peace Corps sau khi hết hạn phục vụ hai năm nhiều người tiếp tục làm việc trong lãnh vực phát triển quốc tế, có người trở thành những nhà ngoại giao của Hoa Kỳ.

Sau hai năm ở Togo, tôi làm việc với Cao ủy Tị nạn tại Đông Nam Á thêm vài năm nữa rồi sau đó về lại Hoa Kỳ dạy học.

(ảnh trong bài của tác giả)
© 2016 Buivanphu

[Bài đã đăng trên BBCVietnamese.com 25.05.2016]

Peace Corps được vào Việt Nam * Với chính phủ và người dân Hoa Kỳ, những tình nguyện viên Peace Corps được coi như là “đại sứ nhân dân” đại diện cho các tầng lớp xã hội Mỹ ra trước thế giới.








"HẬU OBAMA" : VIỆT NAM SẼ THẤT LỢI GÌ NẾU GIA TĂNG ĐÀN ÁP NHÂN QUYỀN ? (Phạm Chí Dũng)





31.05.2016

Nốt trầm đột ngột

Thực tế phũ phàng khó có thể bỏ qua là sự hiện diện lịch sử của Tổng thống Obama tại Việt Nam vào tháng 5/2016 không những không tạo cú hích cho phong trào dân chủ nhân quyền ở đất nước này, mà còn khiến không khí tranh đấu từ sôi động trở nên trầm buồn đột ngột.

Nếu cả những tờ báo của Mỹ còn phải dằn vặt tổng thống về hành động “lùi bước nhân quyền”, về triển vọng “được” Cam Ranh của Mỹ để đổi lấy việc hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, cùng thái độ được mô tả là “nhịn nhục” thái quá của Obama khi không hề lên tiếng phản ứng một cách thích đáng về thực tế sống sượng có đến 60% khách mời của tổng thống Mỹ bị công an Việt Nam chặn không cho tham dự cuộc gặp giữa ông và Xã hội dân sự, giới dư luận viên Hà Nội lại reo mừng lộ liễu.

Trong lúc báo chí quốc tế thi nhau khai thác đề tài “tương lai Việt - Mỹ”, những dư luận viên hung hăng nhất bắt đầu công kích “tương lai của phong trào dân chủ”. Lý lẽ được hệ thống tuyên giáo tung hê nhiều nhất là “tương lai của Việt Nam sẽ do chính người Việt Nam quyết định” - như một đoạn diễn từ được coi là then chốt trong diễn văn của Obama trước 2000 đại diện thanh niên và các tổ chức hội đoàn nhà nước tại Hà Nội.

Nếu suy diễn theo một cách nào đó, Mỹ đã “buông” nhân quyền.

Vì lợi ích ở Biển Đông và đặc biệt là lợi ích Cam Ranh, dường như Washington đã tạm gác lại chủ đề nhân quyền ở Việt Nam - vốn được xem là “còn tồn tại những cách hiểu khác nhau” giữa hai nhà nước cựu thù. Hệ quả là một khi đã nhận được quy chế “bình thường hóa quan hệ hoàn toàn” và được “tôn trọng thể chế chính trị”, chính quyền Việt Nam có thể tự cho phép mình muốn làm gì thì làm. Đây là một kịch bản đã được hình dung trước đây. Chỉ có điều, kịch bản này xảy ra khá sớm so với dự đoán của nhiều người.

Kịch bản “thỏa thuận quân sự” giữa Mỹ và Việt Nam lại có thể dẫn đến một kịch bản khá xấu về nhân quyền trrong thời gian tới: công an Việt Nam sẽ gia tăng đàn áp phong trào đấu tranh dân chủ tại đất nước này. Những hằn học ức chế mà giới công an trị phải nuốt vào lòng từ khoảng thời gian cuối năm 2015, đầu năm 2016 đến nay có thể trào ngược ra miệng nhằm mục đích “hồi tố”: một số nhân vật dân chủ đã tham gia vào phong trào tự ứng cử đại biểu quốc hội, một số thành viên của Xã hội dân sự đã gián tiếp hoặc trực tiếp góp tay vào những cuộc biểu tình số đông về bảo vệ môi trường sẽ có thể bị tạo cớ nhằm sách nhiễu, bắt bớ và thậm chí có thể bị truy tố.

Tự do tôn giáo cũng bởi thế có thể tiếp tục bị siết bức. Ngược lại với đòi hỏi của giới lập pháp Mỹ, Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục không chấp nhận các hoạt động của tôn giáo ly khai, bao gồm Công giáo, Phật giáo Thống Nhất, Tin Lành, Cao Đài và Hòa Hảo Thuần Túy.
Ngay sau khi Obama rời Việt Nam, đã có những biểu hiện và dấu hiệu cho thấy một chiến dịch “hồi tố” như thế đang được chính quyền và công an thăm dò.

Tuy nhiên, kịch bản “hồi tố” sẽ không quá xấu, thậm chí sẽ không thành hình, nếu cân nhắc đến từng chi tiết về khả năng chính quyền Việt Nam sẽ thất lợi đến mức nào nếu gia tăng đàn áp nhân quyền.

TTP và tự do tôn giáo

Trong toàn bộ câu chuyện được Mỹ chính thức dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương, cái lợi lớn nhất và rõ ràng nhất của Việt Nam không phải là được mua vũ khí, chưa tính đến việc tìm đâu ra nguồn tài chính để mua, mà là sự vay mượn hình ảnh của cường quốc số một thế giới nhằm đối trọng quân sự với âm mưu thôn tính đang hiển hiện từng ngày của Trung Quốc.

Nếu được Việt Nam thỏa thuận để gia tăng sự hiện diện lực lượng hải quân tại Cam Ranh, Mỹ sẽ là một lá chắn chắc chắn để hạn chế đến mức tối thiểu một cuộc tấn công quy mô lớn của Trung Quốc trên Biển Đông và vào đải đất miền Trung Việt Nam. Chế độ cầm quyền ở Việt Nam cũng bởi thế sẽ tránh được một mối lo sầu thảm.

Nhưng khác với một thập niên trước, cái lợi lần này của Việt Nam mới chỉ mang tính tượng trưng. Vào những năm 2006 - 2007, Việt Nam đã được “bình thường hóa” hơn với Mỹ thông qua việc được Mỹ nhấc ra khỏi Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC). Sau đó, cái lợi trực tiếp và hữu hình đã đến với Việt Nam khi chính quyền quốc gia này được chấp nhận là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mang lại một nguồn lợi kinh tế lớn, mà bằng chứng hiển hiện là tình hình xuất siêu của Việt Nam vào Mỹ lên tới vài chục tỷ USD hàng năm, trong khi Việt Nam luôn phải nhập siêu ít nhất 30 tỷ USD mỗi năm từ Trung Quốc.

Còn giờ đây, TPP vẫn chưa thấy đâu. Triển vọng gần nhất là hiệp định thương mại này chỉ có thể được Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 2017. Nhưng nếu Việt Nam được chính thức tham gia vào TPP thì cũng phải mất ít nhất vài năm sau đó, các doanh nghiệp Việt Nam mới bắt đầu thu lợi để góp phần vực dậy nền kinh tế đình  đốn của quốc gia này.

Khác hẳn với thời điểm 2007 là lúc nền kinh tế việt Nam “lên đỉnh”, giờ đây tất cả đang lao xuống đáy. Không có TPP, tất cả sẽ tuyệt đối bế tắc. 

Nhưng muốn được tham dự vào bữa tiệc mang tên TPP, phía Việt Nam lại phải thỏa mãn một số điều kiện về nhân quyền và tự do tôn giáo. Hẳn chính quyền quốc gia này chưa quên vai trò của Quốc hội Mỹ đã trở nên quan trọng đến thế nào từ năm 2014. Khi đó, phần lớn giới lập pháp lưỡng viện Mỹ đã đồng thuận để cài điều kiện tự do tôn giáo vào cơ chế Quyền đàm phán nhanh (TPA) - một tiền đề không thể thiếu để dẫn đến việc biểu quyết TPP sau này.

Từ cuối năm 2015 khi quá trình đàm phán TPP giữa 12 quốc gia được hoàn tất, trách nhiệm chính đối với TPP đã không còn nằm trong phần hành của Chính phủ Mỹ, mà chuyển sang tay Quốc hội nước này. Như vậy, có thể hiểu là sau chuyến thăm Việt Nam của Obama và từ nay đến khi Quốc hội Mỹ họp để biểu quyết về TPP, toàn bộ vi phạm tự do tôn giáo của chính quyền và công an Việt Nam đều được “ghi sổ”. Nếu không cẩn thận, Việt Nam rất có thể sẽ bị loại thẳng thừng khỏi TPP, cho dù đã mon men gần đích.

Nợ công và những kịch bản nhân quyền khác

Không chỉ TPP, tương lai của chính thể Việt Nam vẫn còn nhiều hứa hẹn kèm thách thức. Thách thức tồn vong của chính quyền này không chỉ nằm ở tác nhân Trung Quốc, mà còn là gánh nặng nợ công, nợ xấu và kinh tế suy sụp - di sản của nạn tham nhũng quốc gia và “triều đại Nguyễn Tấn Dũng”.

Cho tới giờ, Việt Nam vẫn chưa thể trả món nợ nước ngoài đến hơn 20 tỷ USD cho riêng năm 2015, chưa tính năm 2016 và những năm sau đó. Có nhiều dấu hiệu cho thấy những chủ nợ lớn nhất của Việt Nam - Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế ((IMF) - bắt đầu tăng cường “siết nợ”. ODA không còn là món quà từ trên trời rơi xuống mà lãi suất sẽ theo giá thị trường. Nếu không thể trả nợ, nhà nước Việt Nam đương nhiên sẽ bị tuyên bố vỡ nợ. Khi đó sẽ là “khủng hoảng toàn diện và sâu sắc” - như lo lắng đến mất ăn mất ngủ của giới lãnh đạo nước này.

Trong bối cảnh đó, có thể hiểu Việt Nam mong đợi đến thế nào một kịch bản được giãn nợ, hoặc tốt nhất là được xóa nợ - điều đã từng đơm hoa kết trái ở Myanmar khi quốc gia này được Câu lạc bộ Paris, Đức, Nhật, Na Uy… xóa đến 6 tỷ USD nợ vay vào cuối năm 2012.
Nhưng làm thế nào để Việt Nam vừa được tham gia TPP vừa được giãn nợ hoặc được xóa nợ, nếu giới lãnh đạo chính thể này vẫn giữ nguyên thủ đoạn vừa trẻ con vừa tiểu nhân khi dùng Cam Ranh để trả treo với Mỹ và “việc nào ra việc nấy” khi vẫn tiếp tục đàn áp nhân quyền?

“Thực tiễn” hiện nay là quá khó để chính thể Việt Nam quay lại thời “đàn áp vàng” từ năm 2008 đến năm 2012, khi vừa nhận được lợi ích kinh tế vừa quay lại bắt bớ những người bất đồng chính kiến và dân oan đất đai.

Bây giờ thì mọi chuyện đã khác, khác hẳn, thậm chí khác về bản chất. Sau “nốt trầm” mà Obama để lại Việt Nam, một lần nữa xuất hiện những dấu hiệu vừa kín đáo vừa lộ liễu cho thấy Mỹ vẫn quan tâm đến nhân quyền, nhưng “để dành” chủ đề này cho những cuộc đàm phán song phương khác hơn là Cam Ranh. Trong bối cảnh đó, bất cứ một sự gia tăng đàn áp nhân quyền đáng kể nào của chính quyền Việt Nam sẽ càng khiến chế độ này tự siết chặt hơn dây thòng lọng vào cổ mình.

Bởi thế, ngoài kịch bản chính quyền gia tăng đàn áp, vẫn còn những kịch bản khác: duy trì đàn áp nhưng “kềm chế bắt bớ” như thời gian trước khi Obama đến Việt Nam; hoặc có thể nới hơn một chút cho Xã hội dân sự nói chung trong lúc đàn áp mạnh tay hơn đối với một số tổ chức dân sự nói riêng và chưa nói gì đến Công đoàn độc lập…

------------------------
* Blog của Phạm Chí Dũng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.