Những ngày tháng
không quên sau 1975
Nguyễn Văn Tuấn - Diễn
Đàn Thế Kỷ
https://diendantheky.net/nguyen-van-tuan-nhung-ngay-thang-khong-quen-sau-1975/
Đó
là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết
dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là ‘Thời Bao Cấp’. Càng ít người nghe qua về
chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền
Nhân, v.v.
Tem phiếu
HÌNH
:
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/Phieu-mua-chat-dot.jpg
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/Phieu-mua-thit.jpg
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/Phieu-mua-vai.jpg
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/Hinh-bai-NVT-300x205.jpg
Tem
phiếu thời sau 1975. Ví dụ: Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi
tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của
người trưởng thành), nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500
gram mỗi tháng, tuỳ theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu,
và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Một
phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là ‘chế độ tem phiếu’. Mặc dù nó đã có từ
1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu
này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối
qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.
Nhà
nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân
được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt
trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành), nhưng các cán bộ nhà
nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tuỳ theo cấp bậc. Gạo cũng
được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Những
tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dâ bị đói. Nên nhớ rằng
miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa
bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở
thành thị đói hơn người ở nông thôn.
Danh
từ ‘ăn độn’ có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như
khoai mì, đôi khi lên đến 60-70% để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp,
vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quí hiếm đến mức người ta phải cất giữ
nó như sâm quí, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.
Đổi tiền
Ngày
22/9/1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1 đồng
tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối
đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Người
dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó,
xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng
ngu làm thầy.”
Đốt sách
HÌNH
: https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/Hinh-bai-NVT-2.jpg
SGGP
26-10-1975. Chụp lại từ microfilm. Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu,
nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với
báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền
nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách
và tranh ảnh ‘lạc hậu’ về ‘tình yêu ủy mị’ và ‘tìm kiếm niềm vui thể xác’ đã bị
đốt bỏ. Trớ trêu là sau này các sách này trở nên quí hiếm hoặc được in lại.
Sau
1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu huỷ. Nhà nước
huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục
soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê
sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các
em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.
Không
ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo.
Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700
tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế,
một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh ‘lạc hậu’ về ‘tình
yêu ủy mị’ và ‘tìm kiếm niềm vui thể xác’ đã bị đốt bỏ.
Linh
mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80,000 cuốn sách của
thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo
chánh sách tiêu diệt ‘văn hóa tư sản’.
Đánh tư sản
Có
đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư
sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.
Đợt
X1 khởi động sáng 9/9/1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục
tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các
vùng Kinh tế Mới.
Đợt
X2 bắt đầu từ tháng 3/1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập
trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng
kinh tế tự do được chính quyền VNCH hỗ trợ.
Song
song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy.
Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TP.HCM ra lệnh đóng cửa.
Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất
ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ
niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau,
bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.
Hậu
quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy
hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng
ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.
Nhà
báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc
phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy
giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một
cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện
một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát
cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện
là rất mạnh mẽ.”
“Ông
Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải
cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải
tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh
Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ
Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn
thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. “
Kinh tế mới
Ngày
nay, ít ai nhớ đến danh từ ‘Kinh tế mới’, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh
lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế
mới (theo lệnh ngày 19/5/1976):
•
Người thất nghiệp
•
Người cư ngụ bất hợp pháp
•
Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân VNCH
•
Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
•
Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.
Có
lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc VNCH tập trung ở những đô thị. Trong thời
gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn.
Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các
nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng
nông thôn.
Cư
dân thành thị bị di dời đi vùng Kinh Tế Mới. Trong thời gian 1975-80, đã có
832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm
cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em
nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.
Theo
tài liệu trong nước: “Chỉ trong vòng vài năm, chúng ta đã đưa được 1,300,000
người từ các nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới và đã khai hoang, phục
hóa được ngót một triệu hecta đất. Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn vạch kế hoạch
đưa trên trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng
vùng kinh tế mới. Hơn một năm sau, đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức cho gần
30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập thành 94 xã, trong đó 82 xã ổn định về
đất canh tác và thổ cư.” (Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch
sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 282.) Một thống kê khác
cho thấy từ năm 1976 đến năm 2000 (25 năm), có 5 triệu người bị cưỡng bách di
dân đi vùng kinh tế mới. (Lâm Văn Bé, bđd. tr. 134.)
Tù cải tạo
Tù
cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục
vụ trong chế độ VNCH tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong,
nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời
trong các trại tù cải tạo.
Chánh
quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng
Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ
VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20
triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500,000 được
thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất
5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại.
Theo
một bài báo: “Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc
nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các
trại tù cải tạo”.
‘Thuyền nhân’
Sau
1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương,
nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều
tìm đường vượt biên.
Chế
độ mới áp dụng ‘chủ nghĩa lí lịch’, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ
hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong qui chế chọn sinh viên đại học,
họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lí lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con
em của ‘gia đình cách mạng’ và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ
rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại
học vì được xem là con em của ‘những sĩ quan cao cấp, hay là sĩ quan công
giáo’.
Những
người không thấy tương lai đành phải ra đi: vượt biển.
Rất
khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưnh theo Cao Uỷ Tị Nạn
Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800,000 người Việt vượt
biên bằng đường biển và chừng 100,000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời
gian 1975-1985 vì đó là ‘cao trào’ của làn sóng vượt biển.
Theo
một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50%) thuyền
tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có
ít nhứt 10% người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, ‘vĩnh viễn không bao giờ tới miền
đất hứa’. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100,000 người Việt đã nằm
trong lòng Biển Đông.
***
Sau
năm 1975, miền Nam Việt Nam trải qua những biến đổi sâu sắc và đau thương dưới
các chánh sách mới. Chế độ tem phiếu đẩy người dân vào cảnh thiếu đói, đặc biệt
tại các đô thị, nơi gạo trở thành hàng hiếm ngay cả ở vùng lúa gạo như miền
Tây. Chiến dịch đốt sách phá hủy di sản văn hóa miền Nam, với hàng ngàn (?) tấn
sách bị nghiền nát, xóa bỏ dấu ấn của một nền văn hóa tự do. Các đợt “Đánh tư sản”
(X1, X2, X3) triệt tiêu nền kinh tế tư nhân, tịch thu tài sản, buộc hàng ngàn
người rời bỏ thành phố đến vùng Kinh tế Mới trong điều kiện khắc nghiệt.
Chánh
sách di dời dân, tù cải tạo, và chủ nghĩa lí lịch gây ra sự phân biệt đối xử nặng
nề, đẩy hơn một triệu người vào các trại giam, trong đó hàng chục ngàn người
thiệt mạng. Hậu quả là làn sóng vượt biên ồ ạt, với khoảng 1 triệu thuyền nhân,
nhưng ít nhứt 100.000 người đã bỏ mạng trên biển.
Những
tổn thất về vật chất này để lại một vết thương tinh thần và xã hội, khiến hàng
triệu người mất đi cơ hội xây dựng tương lai trên chính quê hương mình.
Cũng
may vì từ giữa thập niên 1980, Việt Nam bắt đầu quá trình Đổi Mới (thật ra là
quay về cách làm đúng, chứ chẳng ‘mới’), đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
việc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Chánh sách này
đã mở ra cơ hội phục hồi kinh tế và cải thiện đời sống người dân.
Các
hạn chế từ chế độ tem phiếu dần được gỡ bỏ, người dân được tự do kinh doanh, sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp nhẹ khởi sắc trở lại. Nông dân được giao quyền
sử dụng đất, sản lượng lương thực tăng, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu đói trở thành
một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Nhìn
vào quá trình phát triển sau ‘Đổi Mới’ ai cũng nghĩ rằng Việt Nam đã bỏ lỡ một
cơ hội phát triển hơn ngày nay. Đáng lí ra Việt Nam ta đã khá hơn nhiều.
Việc
tập trung vào tăng trưởng kinh tế ngắn hạn thay vì đầu tư dài hạn vào giáo dục,
công nghệ, và cơ sở hạ tầng chất lượng cao khiến Việt Nam chưa thể sánh ngang với
các ‘“con rồng’ châu Á như Nam Hàn hay Singapore. Ngoài ra, sự lệ thuộc vào Tàu
và xuất khẩu thô và gia công, đã hạn chế khả năng cạnh tranh toàn cầu. Dù vậy,
với dân số trẻ và hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam vẫn còn cơ hội vươn lên
nếu tập trung vào đổi mới sáng tạo, giáo dục, và quản trị hiệu quả trong tương
lai.
Nói thêm:
–
Chưa nói ở nông thôn thì nông dân cũng khốn khó với chánh sách hợp tác xã. Với
chủ trương “ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do nhà nước quản
lí”, tất cả ruộng đất tư nhân đều bị quốc hữu hóa và nông dân, điền chủ đều phải
vào hợp tác xã nông nghiệp. Gia đình tôi cũng mất cả 200 công đất và 3 chiếc
máy cày cho hợp tác xã.
–
Dạo đó (1978), Nhà nước lên một kế hoạch đưa người Hoa vượt biên theo cách thức
có tên là “Phương Án II”. Theo đó, Nhà nước thu vàng và tiền của dân để đóng
tàu cho họ vượt biên, với lời hứa là công an sẽ không ngăn cản hay bắn khi họ
còn trong vùng biển Việt Nam. Sự ra đời của Phương Án II (PA2) này được
ghi lại trên giấy trắng mực đen của Ban 69:
“Cay
cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất
tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá
ta từ phía Tây Nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật
đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn
kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp
với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền
nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn
kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị,
Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra
nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước
ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng
của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung
ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.
Chỉ
non 1 năm (từ 8/1978 đến 6/1979) có 15 tỉnh thành tổ chức vượt biên theo PA2. Số
người ra đi là khoảng 134000 người, và Nhà nước thu được 16181 kg vàng cùng
164505 USD, 538 xe hơi, 4154 căn nhà hay gian nhà. (Tuy nhiên, địa phương báo
cáo chỉ có 60,000 người đi, và Nhà nước đã thu về 5612 kg vàng cùng 57000 USD,
235 xe hơi, 1749 nhà và gian nhà). Báo cáo láo đã có từ thời đó.
Một
trong những sự kiện bi thảm nhứt trong những chuyến tàu vượt biên bán chánh thức
này là vụ Cát Lái. Giữa tháng 7/1979, dưới sự canh gác của công an, một nhóm
người chờ lên tàu vượt biên. Chiếc tàu vượt biên mới đóng có 3 tầng, dài 30 m
và rộng chỉ 10 m. Những người mua vé tầng dưới thì do diện tích quá nhỏ, nên cảm
thấy ngột ngạt, và họ phải trèo lên tầng trên. Số người ở tầng trên quá nhiều
làm cho con thuyền bị mất cân bằng, chao đảo, dẫn đến hỗn loạn trên thuyền, và
sau cùng là chìm. Đa số những người đi trên tàu là người Hoa làm nghề buôn bán,
nên họ không biết bơi lội. Thật ra, dù biết bơi lội thì họ vẫn khó sống sót, nhứt
là khi ở trong 2 tầng dưới của tàu.
Phải
đến 3 ngày sau, nhà chức trách mới kéo con tàu lên. Nhà chức trách đếm được 227
người chết, chỉ có chừng 40 người sống sót. Một viên sĩ quan cứu hộ kể về những
trường hợp mẹ con cùng chết:
“Chúng
tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường
hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì
không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử”.
Nhưng
Cát Lái không hẳn là sự kiện duy nhứt, vì trong thực tế có vài sự kiện Cát Lái
khác ở các tỉnh Bến Tre (1 tàu chìm, 54 người chết); Long An (1 tàu chìm, 38
người chết); Nghĩa Bình (1 tàu chìm, 78 người chết); và bi thảm nhứt là Tiền
Giang (3 tàu chìm, 504 người chết). Tính chung, Phương Án II đã trực tiếp hay
gián tiếp gây cho 902 cái chết.
Câu
chuyện trên được Huy Đức viết trong Bên Thắng Cuộc.
Nguyễn
Văn Tuấn
No comments:
Post a Comment