Monday, December 4, 2023

BỐN NGƯỜI THIỆT MẠNG TRONG VỤ NỔ TẠI THÁNH LỄ CÔNG GIÁO Ở PHILIPPINES (Joel Guinto & Virma Simonette / BBC News)

 



Bốn người thiệt mạng trong vụ nổ tại Thánh lễ Công giáo ở Philippines

Joel Guinto & Virma Simonette

BBC News, Singapore và Manila

3 tháng 12 2023, 17:52 +07

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c51ezp4g8xeo

 

Bốn người đã thiệt mạng trong vụ nổ tại một buổi Thánh lễ Công giáo ở miền nam Philippines vào sáng Chủ nhật.

Vụ việc xảy ra tại nhà thi đấu của Đại học Bang Mindanao ở Marawi, thành phố Hồi giáo lớn nhất đất nước.

 

https://ichef.bbci.co.uk/news/800/cpsprodpb/9bd9/live/b2bf3960-91c7-11ee-952c-5f8de97ee99b.jpg

Vụ nổ xảy ra khi quốc gia có đa số người theo đạo Công giáo bắt đầu dịp lễ cầu nguyện kéo dài 4 tuần mùa Giáng sinh

 

Giới chức cho biết 42 người khác thương, hầu hết đều chỉ bị thương nhẹ, và cho biết thêm tình hình "đã được kiểm soát".

 

Năm 2017, Marawi là nơi xảy ra trận chiến kéo dài 5 tháng giữa lực lượng chính phủ và các tay súng có liên hệ với nhóm Nhà nước Hồi giáo.

 

Chuẩn tướng Allan Nobleza, chỉ huy cảnh sát trong khu vực, cho biết Nhóm Daulah Islamiyah-Maute có thể đứng đằng sau vụ đánh bom hôm Chủ Nhật.

 

Tướng Nobleza cho biết 11 thành viên của nhóm này đã chết trong cuộc chạm trán với Quân đội Philippines vào thứ Sáu tuần trước tại thị trấn Datu Hoffer Ampatuan kế bên - gợi ý vụ nổ hôm Chủ nhật có thể là một hình thức trả thù.

 

Tổng thống Ferdinand Marcos Jr lên án vụ nổ là hành động "vô nghĩa và tàn ác nhất" do "những kẻ khủng bố nước ngoài gây ra". Ông không giải thích chi tiết.

 

Ông kêu gọi dân chúng bình tĩnh. “Hãy tin rằng chúng tôi sẽ đưa thủ phạm của hành động tàn nhẫn này ra trước công lý,” ông nói.

 

Các quan chức dẫn nguồn điều tra sơ bộ, cho biết một quả lựu đạn hoặc một quả bom tự chế có thể đã gây ra vụ nổ.

 

Những bức ảnh được quan chức địa phương chia sẻ trên mạng xã hội cho thấy những chiếc ghế nhựa ngổn ngang và những mảnh vỡ tối màu trên mặt đất của nhà thi đấu MSU sau vụ nổ. Ngoài phần sàn, tòa nhà dường như không bị hư hại gì nghiêm trọng lớn.

 

Những bức ảnh cho thấy những người được đưa đến bệnh viện gần đó chủ yếu được điều trị vết thương nhẹ và vết bầm tím. Thống đốc tỉnh Mamintal Adiong Jr cho biết nhiều người trong số khoảng ba chục người bị thương đã được đưa về nhà.

 

https://ichef.bbci.co.uk/news/800/cpsprodpb/88e4/live/4d815680-91c9-11ee-952c-5f8de97ee99b.jpg

Các quan chức cho rằng vụ nổ có thể là hành động trả đũa sau khi 11 tay súng có liên hệ với nhóm Nhà nước Hồi giáo thiệt mạng trong cuộc đụng độ với quân đội thứ Sáu tuần trước

 

Buổi lễ trọng hôm Chủ Nhật đã thu hút đám đông lớn hơn thường lệ trên khắp Philippines vì ​​đây là ngày bắt đầu Mùa Vọng, dịp lễ kéo dài bốn tuần của Giáo hội Công giáo trước Ngày Giáng sinh.

Gần 80% trong số 113 triệu dân của đất nước là người Công giáo và không có gì lạ khi các phòng tập thể dục của trường học và thậm chí các trung tâm mua sắm đều dành riêng khu vực để tiến hành Thánh lễ Chủ nhật, đặc biệt ở những nơi không có nhà thờ.

 

MSU, một trong những trường đại học lớn nhất đất nước, cho biết họ "vô cùng đau buồn và kinh hoàng" trước vụ bạo lực "vô nghĩa và khủng khiếp".

 

“Bạo lực không có chỗ trong một xã hội văn minh và nó đặc biệt đáng ghê tởm trong một tổ chức giáo dục đại học như MSU,” trường nói.

 

“Chúng tôi đoàn kết với cộng đồng Kitô hữu của chúng tôi và tất cả những người bị ảnh hưởng bởi thảm kịch này.”

 

Trường đại học nói thêm rằng nhân viên an ninh bổ sung đã được triển khai trong khuôn viên trường và mọi hoạt động học tập sẽ tạm dừng cho đến khi có thông báo mới.

 

Mindanao là nơi sinh sống của cộng đồng người Hồi giáo thiểu số nước này và đã phải hứng chịu gánh nặng của tình trạng nổi dậy và bạo lực cực đoan.

 

Năm 2012, Manila và nhóm nổi dậy Hồi giáo lớn nhất đất nước đã đồng ý thành lập một khu tự trị ở Mindanao, và cuộc bầu cử hội đồng khu vực đầu tiên được tổ chức vào năm 2022. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực thỉnh thoảng vẫn bùng phát lẻ tẻ.

 





NGA VẬT LỘN VỚI KHỦNG HOẢNG NHÂN KHẨU HỌC (Financial Times)

 



Nga vật lộn với khủng hoảng nhân khẩu học   

Financial Times

Cù Tuấn biên dịch

2-12-2023  18:39   

https://www.facebook.com/tuan.cu.5/posts/pfbid0mUorbtoUsStmbQdCj6FbGxVLymYxBA7zvVyJ1JNoAySmc3qcSbWFCqgswpcqEd3el

 

Tóm tắt: Những nỗ lực nhằm tăng tỷ lệ sinh và tăng dân số đang đạt được rất ít tiến triển.

 

Vào đầu tháng 10, tôi đã dành bản tin này để đề cập đến tỷ lệ sinh thấp ở châu Âu và nỗ lực của một số chính phủ quốc gia nhằm nâng cao tỷ lệ này. Một số độc giả yêu cầu tôi quay lại chủ đề bằng cách tập trung vào trường hợp nước Nga.

 

1. ‘Gia đình đông con phải trở thành chuẩn mực’

 

Đây là thời điểm thích hợp để xem xét các vấn đề nhân khẩu học của Nga. Hôm thứ Ba 28.11.2023, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã xuất hiện qua video tại một sự kiện mang tên “Hội đồng Người Nga Thế giới”.

 

Bài phát biểu của ông thu hút được sự chú ý vì một số lý do, đặc biệt là cuộc thảo luận của ông về bản chất bản sắc dân tộc Nga. Nhưng về chủ đề cụ thể về xu hướng dân số, ông đã nói như sau:

 

"Thật may mắn, nhiều dân tộc của chúng ta đã bảo tồn truyền thống có những gia đình nhiều thế hệ vững mạnh với bốn, năm người con hoặc thậm chí nhiều hơn. Chúng ta hãy nhớ rằng các gia đình Nga, nhiều bà và bà cố của chúng ta, có bảy, tám người con hoặc thậm chí nhiều hơn .

 

Chúng ta hãy bảo tồn và làm sống lại những truyền thống tốt đẹp này. Những gia đình đông con phải trở thành chuẩn mực, một lối sống cho tất cả người dân Nga."

 

1.   Vợ của lãnh chúa giành giải thưởng kiểu Xô viết dành cho các bà mẹ

 

Tăng tỷ lệ sinh ở Nga và đảo ngược tình trạng suy giảm dân số là những mục tiêu mà Putin quan tâm trong suốt 23 năm cầm quyền của ông, nhưng chưa bao giờ việc này được quan tâm nhiều hơn thế trong ba hoặc bốn năm qua. Trong giai đoạn này, đại dịch Covid và cuộc chiến chống Ukraine đã gây thiệt hại nặng nề cho dân số Nga, hiện tại khoảng 145 triệu người.

 

(Theo một nghiên cứu năm 2022 trên tạp chí y khoa The Lancet, số người chết vượt quá mức trung bình trong lịch sử ở Nga trong thời kỳ đại dịch lên tới khoảng 1,1 triệu người. Thương vong của quân đội Nga kể từ cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022 lên tới 120.000 người chết, theo ước tính của Mỹ công bố vào tháng 8. Ngoài ra, hàng trăm nghìn người Nga đã rời khỏi Nga.)

 

Ngay trước khi đại dịch bùng phát vào năm 2020, Putin đã tuyên bố: “Số phận nước Nga và triển vọng lịch sử của nước này phụ thuộc vào một điều: chúng ta đang có bao nhiêu người và chúng ta sẽ có bao nhiêu người”.

 

Sáu tháng sau cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào năm 2022, Putin đã ký sắc lệnh khôi phục danh hiệu “Mẹ anh hùng” thời Liên Xô, trao cho những phụ nữ sinh và nuôi 10 đứa con trở lên. Một trong những người đầu tiên nhận được giải thưởng này là Medni Kadyrova, vợ của Ramzan Kadyrov, lãnh chúa Chechnya và đồng minh của Putin.

Và cách đây chưa đầy hai tuần, Putin đã ký một sắc lệnh khác tuyên bố năm 2024 là “năm của gia đình”.

 

Như nhà nhân khẩu học người Pháp Laurent Chalard đã nói: “Putin bị ám ảnh bởi vấn đề nhân khẩu học này. Trong suy nghĩ của ông, sức mạnh của một quốc gia gắn liền với quy mô dân số của quốc gia đó. Dân số càng đông thì nhà nước càng mạnh”.

 

3. Những mất mát thảm khốc trong thế kỷ 20

 

Khi Putin thảo luận về những nguyên nhân lâu dài gây ra những vấn đề về nhân khẩu học ở Nga, ông đã chọn lựa thông tin khá kỹ từ lịch sử.

 

Với tư cách là chuyên gia người Kyrgyzstan, Aidana Baktybek Kyzy lưu ý, Putin cho biết trong một bài phát biểu vào năm 2021 rằng Nga đã trải qua hai đợt suy giảm dân số lớn trong thế kỷ 20 – trong chiến tranh thế giới thứ hai và sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.

 

Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ câu chuyện, như David Adamson và Julie DaVanzo đã viết trong một bài báo năm 1997 cho Tập đoàn Rand. Sự mất mát dân số thảm khốc trong thế kỷ 20 cũng xảy ra trong Thế chiến thứ nhất, cuộc nội chiến 1917-1922 và nạn đói do Joseph Stalin ép buộc toàn dân phải tập thể hóa nông thôn vào cuối những năm 1920 và 1930.

 

Putin thích bỏ qua những thảm họa như nạn đói, xuất phát từ những quyết định của nhà độc tài ở Điện Kremlin, mà tập trung vào Thế chiến thứ hai, thời điểm người dân nước Nga hy sinh anh dũng vì sự nghiệp tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

 

Tuy nhiên, sự thật là một trong những lý do chính khiến Nga gặp khó khăn trong việc tăng tỷ lệ sinh ngày nay là do sự suy giảm nhân khẩu học trong những năm ngay trước và sau khi Liên Xô tan rã.

 

Khi Adamson và DaVanzo công bố phân tích của họ vào năm 1997, họ ước tính tuổi thọ của nam giới ở Nga là 58 tuổi - mức thấp nhất đối với bất kỳ quốc gia phát triển nào vào thời điểm đó. Theo các tác giả, khoảng cách tuổi thọ giữa nam và nữ ở Nga là 13,5 năm - mức chênh lệch lớn nhất trên thế giới.

 

4. Thu hẹp nhân khẩu học vào đầu thế kỷ 21

 

Làm thế nào để giải thích điều này?

 

Trong một bài giảng năm 2001 tại Viện Kennan ở Washington, Nicholas Eberstadt tuyên bố rằng Nga đã phải hứng chịu sự suy giảm về mức độ y tế chưa từng có đối với bất kỳ xã hội đô thị hóa và văn minh nào trong thời bình.

 

Nguyên nhân tử vong chính là bệnh tim mạch, thường là kết quả (đối với nam nhiều hơn nữ) của việc uống rượu nhiều, hút thuốc và chế độ ăn uống không lành mạnh. Nguyên nhân lớn thứ hai là chấn thương và ngộ độc, nhiều trong số đó liên quan đến rượu.

 

Tất cả những vấn đề này đã dẫn đến tỷ lệ sinh giảm mạnh vào cuối những năm 1980 và 1990. Ngược lại, điều này cho thấy dân số sẽ bị siết chặt trong tương lai: sẽ có ít trẻ em sinh ra từ khoảng năm 2010 trở đi so với khi tỷ lệ sinh vẫn ổn định vào cuối thế kỷ 20.

Trong bài viết này cho tờ báo độc lập Nga Novaya Gazeta Europe, nhà nhân khẩu học Ilya Andreev viết: “Số lượng trẻ sơ sinh ở Nga đã giảm hàng năm kể từ năm 2016... Từ năm 2010 đến năm 2030, số phụ nữ Nga trong độ tuổi sinh sản sẽ giảm tổng cộng 40%."

 

5. Đo lường dân số Nga

 

Theo dữ liệu của Liên Hợp Quốc, được trích dẫn trong bài báo trên tờ The Economist, dân số Nga là 145 triệu vào năm 2021, giảm so với 149 triệu vào năm 1994. Con số năm 2021 không bao gồm khoảng 2,4 triệu người ở Crimea, được sáp nhập từ Ukraine vào năm 2014.

Ước tính của Liên Hợp Quốc cũng loại trừ 4 khu vực khác của Ukraine mà Putin tuyên bố vào tháng 9 năm 2022 là một phần của Nga và tổng dân số trước chiến tranh của khu vực này là khoảng 8,6 triệu người.

 

Trong khi đó, người ta nên nhớ rằng hàng nghìn trẻ em Ukraine đã bị bắt cóc sang Nga kể từ cuộc xâm lược, có thể nhằm mục đích xóa bỏ bản sắc Ukraine của các em và tăng dân số Nga khi các em lớn lên và lập gia đình.

 

6. Các biện pháp nâng cao tỷ lệ sinh

 

Ngoài các giải thưởng sinh sản kiểu Liên Xô, sáp nhập lãnh thổ và bắt cóc trẻ em, Putin đã đưa ra những biện pháp nào để khuyến khích gia đình đông con hơn và làm tăng dân số Nga?

 

Một sáng kiến là ngăn chặn nạn phá thai, được thực hiện với sự hợp tác chặt chẽ với hàng giáo phẩm của Giáo hội Chính thống Nga. “Dân số sẽ tăng lên... nếu chúng ta học cách khuyên can phụ nữ phá thai,” Thượng phụ Kirill, người đứng đầu Giáo hội, cho biết gần đây.

Các phóng viên FT Polina Ivanova và Anastasia Stognei báo cáo vào tháng trước, tỷ lệ phá thai ở Nga - cực kỳ cao vào cuối thời kỳ Xô viết - đã giảm kể từ những năm 1990. Hơn nữa, các nhà nhân khẩu học Nga nhận thấy rất ít mối tương quan thống kê trong lịch sử hiện đại của quốc gia giữa tỷ lệ phá thai và tỷ lệ sinh.

 

Putin cũng đã thử nghiệm phân bổ các khoản trợ cấp tiền mặt và tín dụng thế chấp cho các gia đình có nhiều con. Các khoản thanh toán này tạm thời nâng cao tỷ lệ sinh nhưng kể từ sau đại dịch và cuộc xâm lược Ukraine, tác dụng này đã mất đi.

 

Dưới thời Putin, Nga cũng đã tiếp nhận hàng triệu lao động nhập cư, chủ yếu là người Hồi giáo, các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ quen với ngôn ngữ và văn hóa Nga. Điều này có thể gây ra căng thẳng xã hội ở Nga, nhưng ở mức độ nào thì vẫn còn phải xem xét.

 

Đối với bản thân người Nga, sự ngờ vực giữa nhà nước và xã hội đã lớn đến mức có một tin đồn lan truyền rằng Điện Kremlin, với mong muốn nâng cao tỷ lệ sinh, đã lên kế hoạch thay thế bao cao su nước ngoài hoạt động tốt bằng loại bao cao su của Nga không hoạt động.

 

Tôi để lại cho bạn một số nhận xét sâu sắc của Andrei Kolesnikov, viết cho Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, về tác động của cuộc chiến ở Ukraine đối với nhân khẩu học ở Nga.

 

"Đại dịch Covid-19 và "chiến dịch quân sự đặc biệt" đã tạo ra bối cảnh vô cùng bất ổn về tương lai... Việc quân sự hóa cuộc sống ở Nga cũng không khuyến khích mọi người tăng thêm thành viên cho gia đình của mình, ngoại trừ những người coi đó là nghĩa vụ để cung cấp bia đỡ đạn cho Tổ quốc cho các cuộc chiến tranh trong tương lai...

 

Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mà nước Nga đã nhiều lần phải đối mặt: các làn sóng chiến tranh và đàn áp đã làm cạn kiệt nguồn nhân lực.”

 

Hình: https://www.facebook.com/photo?fbid=7181511105220841&set=a.124320747606614

 Tổng thống Nga Putin phát biểu tại “Hội đồng Người Nga Thế giới”: 'Gia đình đông con phải trở thành chuẩn mực'

 

.

9 BÌNH LUẬN  

 

.

Cù Tuấn

Bài gốc  :

https://www.ft.com/.../95082ead-ea72-4af3-9270-10019e626633

FT.COM

Russia struggles with a demographic crunch

Russia struggles with a demographic crunch






CĂN CỨ HẢI QUÂN REAM Ở CAMPUCHIA LÀ CON NGỰA (NẰM VÙNG) CỦA THÀNH TROY? (Nguyễn Khoa Thái Anh)

 



Căn cứ Hải quân Ream ở Campuchia là con ngựa (nằm vùng) của thành Troy?

Nguyễn Khoa Thái Anh

 03/12/2023

https://www.danchimviet.info/can-cu-hai-quan-ream-o-campuchia-la-con-ngua-nam-vung-cua-thanh-troy/12/2023/30204/

 

https://www.asiasentinel.com/p/cambodia-ream-naval-base-chinese-trojan-horse

Căn cứ Hải quân Ream

 

Bước đột phá mới nhất của Trung Quốc nhằm xây dựng sự hiện diện ở Biển Đông, mở rộng mức sử dụng hàng hai với Căn cứ Hải quân Ream ở Campuchia, một phần trong chiến lược “Chuỗi ngọc trai” nhằm khẳng định mình là một cường quốc hàng hải biển xanh có khả năng thách thức Mỹ, đang làm tăng thêm mối lo ngại về sự hung hăng ngày càng lấn chiếm của hải quân Bắc Kinh. Các ví dụ trước đây bao gồm các cảng Gwadar ở Pakistan và Hambantota ở Sri Lanka, cả hai đều nằm trên Ấn Độ Dương, phần lớn được tài trợ và/hoặc kiểm soát bởi các công ty nhà nước Trung Quốc.

 

Trên thực tế, người dân Campuchia bản địa đã nhận xét về sự hiện diện của Trung Quốc ngày càng gia tăng xung quanh căn cứ khi việc xây cất tăng cường trong năm qua. Các quan chức Việt Nam cũng mô tả sự gia tăng đột ngột trong hoạt động di chuyển nhân sự và thiết bị của Trung Quốc đến Ream kể từ tháng 4, cho thấy tổng thể ảnh hưởng của Trung Quốc tại Campuchia ngày càng gia tăng. Điều đó không chỉ khiến Mỹ mà cả các nước láng giềng của Campuchia như Thái Lan và Việt Nam chú ý. Đối với Thái Lan, sự hiện diện tiềm năng của Trung Quốc tại Ream có thể cho phép Trung Quốc triển khai sức mạnh cưỡng bức trực tiếp ngay cửa trước của nước này. Quan trọng hơn đối với Việt Nam, sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Ream trong tương lai có thể đe dọa vị trí phòng thủ của nước này từ phía nam trong một thế gọng kìm với lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc khởi sự từ đảo Hải Nam ở phía bắc.

 

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự và dân sự khác trên Biển Đông đã gióng lên hồi chuông cảnh báo ở các quốc gia ven biển, như việc Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. hồi đầu tháng này đã công khai kêu gọi Malaysia và Việt Nam thảo luận về một bộ quy tắc ứng xử riêng liên quan đến Biển Đông và trích dẫn hành vi “hung hãn” của Trung Quốc và căng thẳng leo thang đòi hỏi Philippines phải hợp tác với các đồng minh và láng giềng để duy trì hòa bình. Marcos cho biết tình hình hiện nay “nghiêm trọng hơn” trong một hội nghị ở Hawaii.

 

Trong khi trước đây, các yêu sách cạnh tranh giữa các quốc gia ven biển đã cản trở họ trong nỗ lực hợp tác với nhau, điều đó có thể thay đổi khi Trung Quốc tăng thêm số lượng đảo nhỏ mà nước này đang xây cất ở Biển Đông. Vào tháng 10, Bắc Kinh đã gia tăng mối lo ngại khi tung ra một bản đồ “đường 10 đoạn” tuyên bố chủ quyền lãnh hải nhiều hơn cả “đường chín đoạn” năm 1947, không chỉ kéo dài hơn vào Biển Đông mà còn cả vùng biển xung quanh khu vực Arunachal Pradesh của Ấn Độ.

 

“Trong những tháng gần đây, các cuộc xâm nhập của Trung Quốc đã gia tăng cả về quy mô và cường độ; nhiều sự cố như vậy được che đậy để không tạo thêm căng thẳng với Trung Quốc”, một cựu quan chức ngoại giao cấp cao trong khu vực yêu cầu giấu tên cho biết. “Kết quả là, Malaysia đang tìm kiếm mọi thỏa thuận khác với cả các nước láng giềng và với Mỹ, Nhật Bản, Australia, v.v. Trong chuyến thăm Nhật Bản gần đây, nhiều thời gian được dành để thảo luận về mối đe dọa của Trung Quốc. Cũng có ý kiến cho rằng ASEAN có thể không phải là phương tiện tốt nhất để thảo luận về các yêu sách hàng hải của Trung Quốc vì Campuchia và Lào đã trở thành ủy nhiệm của Trung Quốc. Ngoài ra, cả hai quốc gia này đều không có da thịt trong cuộc chơi này. Có lẽ đã đến lúc tất cả các quốc gia trong khu vực đang phải đối mặt với thách thức chung từ Trung Quốc phải liên kết với nhau ít nhất là trong một nhóm lỏng lẻo và không chính thức.”

 

Sự tham gia của Trung Quốc vào việc xây dựng Ream khiến nơi đây trở thành căn cứ quân sự nước ngoài thứ hai của Bắc Kinh, căn cứ đầu tiên được thành lập tại Djibouti ở vùng Sừng Phi châu vào năm 2017. Hình ảnh vệ tinh trong 18 tháng qua đã phát hiện ra rằng Ream đã chứng kiến việc bổ sung không chỉ một bến tàu đủ dài để neo bến một tàu sân bay, nhưng cũng đồng thời xây dựng một ụ tàu lớn trên vùng đất khai khẩn ở phần phía nam của căn cứ. Phân tích hình ảnh vệ tinh nguồn mở sâu hơn của Tom Shugart, một nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại Trung tâm An ninh Mới của Hoa kỳ, chỉ ra rằng việc rà phá và làm đường đáng kể đã được thực hiện trong khu vực dành riêng cho quân đội Trung Quốc sử dụng để cho phép triển khai Các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa dẫn đường bằng radar cũng được thấy tương tự trong các lưới phòng không phía trên các căn cứ hải quân của Trung Quốc như Yalong ở đảo Hải Nam.

 

Từ lâu ai cũng thấy được mặc cảm thiếu an ninh hàng hải của Trung Quốc, và đó chính là động lực phát triển quân đội của nước này trong hai thập kỷ qua. Với nền kinh tế chủ yếu dựa vào xuất khẩu và sự phụ thuộc nặng nề vào năng lượng nhập khẩu từ Trung Đông thông qua các tuyến đường biển xuyên qua Ấn Độ Dương và Biển Đông, Trung Quốc có nhu cầu an ninh cấp bách để bảo vệ và thể hiện sức mạnh hải quân trên biển cả. Để bù đắp cho việc thiếu năng lực hải quân biển xanh thực sự đòi hỏi phải triển khai liên tục các lực lượng hải quân ở xa đất liền Trung Quốc, Trung Quốc đã và đang dần tạo dấu ấn ảnh hưởng của mình ngày càng nhiều đối với nhiều hải cảng trên khắp thế giới mà về mặt lý thuyết có thể cho phép nước này cử các tàu hải quân của mình được triển khai về phía trước một cách hiệu quả mà không cần ràng buộc hậu cần buộc họ phải hoạt động ngoài các cảng ở Trung Quốc đại lục.

 

Có những quan điểm trái ngược nhau về thực lực quan trọng của Căn cứ Hải quân Ream mà Trung quốc đang can dự. Một số người tin rằng Ream có giá trị chiến lược hạn chế do vị trí địa lý của nó trên bờ biển Campuchia, khiến nó trở thành một ngõ cụt hàng hải ở Vịnh Thái Lan, khiến nó có giá trị gia tăng hạn chế đối với việc triển khai sức mạnh hải quân của Trung Quốc khi nước này đã có sẵn nhiều căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam không quá xa có khả năng tiếp cận trực tiếp tới Biển Đông, nơi Hải quân Nhân dân Trung quốc có nhiều tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng khác trong khu vực.

 

Hơn nữa, mặc dù sự thật là bến tàu mới được xây dựng tại Ream là loại chỉ thấy ở căn cứ nước ngoài khác của Trung Quốc tại Djibouti và về mặt lý thuyết đủ dài để neo bến bất kỳ tàu sân bay hoặc tàu tiếp tế hải quân nào của Trung Quốc, nhưng việc thiếu các cơ sở vật chất hiện đại và đáng kể. Các cơ sở neo bến và trên cạn cùng với vùng nước nông xung quanh Ream sẽ khiến tính thực tế của việc triển khai như vậy trở nên đáng nghi ngờ. Một số chuyên gia cũng chỉ ra vị trí gần của Ream với Căn cứ Hải quân Changi của Singapore, nơi Hải quân Mỹ có cả sự hiện diện về hoạt động hải quân cũng như hậu cần, có thể dễ dàng bóp nghẹt bất kỳ tàu hải quân Trung Quốc nào ở Ream nếu xung đột nổ ra.

 

Về phía người Trung Quốc và Campuchia, cả hai bên đã kịch liệt phủ nhận rằng căn cứ hải quân Ream là căn cứ quân sự bí mật ở nước ngoài của Trung Quốc bằng cách nhắc lại hiến pháp Campuchia cấm các căn cứ quân sự nước ngoài được xây dựng trên đất Campuchia.

 

Tuy nhiên, những diễn biến mới nhất xung quanh Ream dường như cho thấy hoàn cảnh đang thay đổi nhanh chóng, cho phép căn cứ hải quân ngày càng trở nên khả thi như một căn cứ hải quân ở nước ngoài của Trung Quốc trên thực tế. Đầu tiên, hình ảnh do vệ tinh mới nhất cho thấy việc xây dựng một ụ tàu lớn vượt xa bất kỳ tàu hải quân nào hiện đang được Hải quân Campuchia vận hành, đặt ra câu hỏi về người hưởng lợi thực sự từ tiện ích của cơ sở đó. Thứ hai, Sân bay Quốc tế Dara Sakor gần đó, hiện được cho là vẫn đang được xây dựng và do Trung Quốc tài trợ, có đường phi đạo bất thường dài hơn 3.000 mét dành cho khu vực xa xôi và dân cư thưa thớt, điều mà các nhà phân tích quân sự Mỹ nghi ngờ là có mức sử dụng hàng hai thuận tiện. – nhằm mục đích tiếpnhận máy bay quân sự Trung Quốc.

 

Cuối cùng, vào tháng 4, chính phủ Campuchia bất ngờ công bố kế hoạch phát triển các hệ thống radar phòng không và hải quân mới gần căn cứ hải quân trong Công viên Quốc gia Ream. Vào tháng 9, chính phủ cũng thuận tiện chấp nhận nhận hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa KS-1C đầu tiên do Trung Quốc sản xuất. Trong khi việc lắp đặt hệ thống phòng không mới do Campuchia đề xuất vẫn chưa thực sự thành hiện thực, hình ảnh vệ tinh mới nhất cho thấy việc dọn dẹp và làm đường trong khu vực nằm trong nửa căn cứ hải quân của Trung Quốc tương tự như việc lắp đặt hệ thống phòng không trên các căn cứ hải ngoại khác của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông cho thấy điều này. khả năng Lực lượng Không quân PLA sẽ có thể triển khai các tài sản phòng không của riêng mình thông qua ủy quyền của Campuchia, nếu không thực hiện điều đó một cách thẳng thừng bất cứ lúc nào.

 

Nguyễn Khoa Thái Anh (chuyển ngữ)

 





PHONG TRÀO XÉT LẠI và SỰ LỤI TÀN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO TRÊN THẾ GIỚI (Nguyễn Quốc Tấn Trung  -  Luật Khoa Tạp Chí)

 



Phong trào xét lại và sự lụi tàn của chủ nghĩa tự do trên thế giới

Nguyễn Quốc Tấn Trung  -  Luật Khoa Tạp Chí

November 30 2023 3:39 PM

https://www.luatkhoa.com/2023/11/chu-nghia-xet-lai-va-su-lui-tan-cua-chu-nghia-tu-do-the-gioi/

 

Và rồi không còn ai…

 

https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w2000/format/webp/2023/11/Ch--ngh-a-x-t-l-i.png

Đồ họa: Tùy Phong/ Luật Khoa.

 

Vào đầu thập niên 1990, khi Liên Xô sụp đổ, các quốc gia cộng sản Đông Á và Đông Nam Á vừa chấm dứt các cuộc xung đột triền miên với nhau, tương lai của mô hình nhà nước điển hình cho toàn thế giới dường như không còn một lựa chọn khả dĩ nào khác, đó chính là mô hình dân chủ tự do (liberal democracy), mà Hoa Kỳ là đại diện hoàn hảo nhất và là người dẫn đầu quyền năng nhất. 

 

“Lịch sử thế giới đã kết thúc tại đây”

 

Nhà nghiên cứu chính trị người Mỹ Francis Fukuyama tự tin khẳng định như vậy khi ông chứng kiến sự thoái trào của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, sự ngưỡng mộ của khắp thế giới đối với sức sáng tạo và văn hóa tiêu dùng tư bản mãnh liệt từ thập niên 1980 đến thập niên 1990. [1] Đối với ông, đây là bằng chứng cho thấy phương Tây và các giá trị của nó đã chiến thắng trong trận chiến quyết định với chủ nghĩa cộng sản để đi đến “chân trời cuối cùng” của lịch sử thế giới. 

 

https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/2023/11/ab7cbbe1-9415-4979-9998-27b836f444dd_d8fecd39.webp

Học giả Francis Fukuyama. Nguồn ảnh: AFP.

 

Áp dụng Thuyết mạt thế hay Tận thế học (Eschatology) vào các quan sát và tuyên bố chính trị, tôn giáo là một thực hành thường xuyên và phổ biến.

 

Thiên Chúa giáo dự đoán về sự tái lâm của Jesus và ngày phán xét dành cho tất cả. 

Thời kỳ Mạt Pháp được kinh Phật tiên đoán cũng có thể được xem là một dạng của Tận thế học, dù Phật giáo tập trung vào sự tuần hoàn lặp lại nhiều hơn. 

 

Hay như nhà triết học Immanuel Kant và triết gia Karl Marx cũng từng liên tưởng đến sự kết thúc của lịch sử. Kant nghĩ về sự giải phóng hoàn toàn dành cho loài người là mục tiêu cuối cùng của lịch sử, còn Marx thì nghĩ đến sự hình thành của một địa đàng cộng sản quốc tế như là đích đến cuối cùng của toàn bộ xã hội loài người.

 

Vì vậy, Francis Fukuyama không phải là người đầu tiên và cũng không phải là người cuối cùng dùng các lý thuyết mạt thế để làm nổi bật quan sát và tầm nhìn của mình cho đích đến cuối cùng lịch sử. Tuy nhiên, cũng như mọi lý thuyết nói về “sự cuối cùng”, “tận thế”, hay “mạt thế”, lý thuyết của Fukuyama có lỗ hổng rất lớn: tương lai vốn không thể biết trước. 

 

Hiển nhiên, một nhà nghiên cứu hay một người quan sát chính trị không bị giới hạn bởi định kiến chính trị đều có thể nhận ra sự tụt hậu của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô: Sự vận hành mệt mỏi của những cỗ máy quan liêu đã cũ kỹ lại quá đắt đỏ; bộ máy nhà nước ngày càng phình to và bị xem là đi ngược lại với lợi ích của quần chúng; vẻ bề ngoài kém hào nhoáng và kém hiệu quả so với tư bản phương Tây; kèm theo đó là xu thế bài trí thức; v.v. Đây là những sự thật có thể được dùng để chứng minh tính vượt trội của mô hình nhà nước dân chủ tự do tư bản chủ nghĩa so với các thiết chế mà Liên Xô “chào mời” đến thế giới. 

 

Song điều này không có nghĩa là chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản đã là điểm phải đến cuối cùng của lịch sử.

 

Chỉ gần 40 năm sau lời tuyên bố trịnh trọng cùng một niềm tin mãnh liệt của Fukuyama, thế giới thay đổi gần như hoàn toàn. Và tương lai không thể cản phá của chủ nghĩa tự do trở nên mờ nhạt hơn bao giờ hết.

 

Bài viết này hy vọng có thể giới thiệu đến bạn đọc một vài góc nhìn, cho thấy trở ngại, hay thậm chí là sự thoái trào của chủ nghĩa tự do, cũng như làn sóng dân chủ đi kèm. 

 

 

Thời phục hưng của các nhà nước chuyên quyền

 

Khó có thể xem sự trỗi dậy của các quốc gia chuyên quyền (autocracy) Đông Á, như Trung Quốc, là sự trở lại của chủ nghĩa xã hội phương Đông. 

 

Với nền tảng và triết lý quản lý kinh tế mang tính tân tự do (neo-liberalism) và bao hàm các giá trị tư bản trọng yếu (tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tinh thần tự cường, và chủ nghĩa khởi nghiệp, v.v.), những nền kinh tế này không thật sự thỏa mãn các yếu tố cơ bản của kinh tế chủ nghĩa xã hội. Tư duy kinh tế “giai cấp vô sản sở hữu tư liệu sản xuất và làm chủ phương thức sản xuất” của Marx không còn là xương sống cho sự phát triển của các quốc gia này.

 

Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa rằng họ có một mô hình phát triển thuần tự do theo chủ nghĩa tư bản phương Tây. 

 

https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/2023/11/Beckley-scaled.jpg

Khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Trung Quốc, vào năm 2022. Nguồn ảnh: AP.

 

Rất nhiều quốc gia bao gồm Trung Quốc, Singapore, hay Nga, v.v. xem tự do, dân chủ, và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa tự do phương Tây là kẻ thù không đội trời chung. Tự do hiệp hội, tự do ngôn luận, tự do đảng phái theo định nghĩa gốc của nó chắc chắn không phải là những nguyên liệu chính của quá trình xây dựng ở các quốc gia này.

 

Phong trào phục hưng của làn sóng nghiên cứu về chế độ chuyên quyền (renaissance in studies of autocracies) đã chỉ ra, những điều này không đồng nghĩa với sự chậm tiến hay trì trệ kinh tế như nhiều học giả theo chủ nghĩa tự do kỳ vọng. [2]

 

Một mặt, việc học tập các kỹ thuật quản lý kinh tế – xã hội phương Tây (bao gồm nhưng không giới hạn: kỹ thuật kế toán, trọng tài thương mại, ngân hàng, chứng khoán, giáo dục, quản lý thuế, quản lý đầu tư, v.v.) khiến cho việc hòa nhập, thu hút, và phát triển tiềm lực kinh tế trở nên dễ dàng, thuận tiện. 

 

Kinh tế phát triển không chỉ thúc đẩy tính chính danh của chính quyền đương nhiệm, nó còn tạo ra một không gian lý thuyết trò chơi (game-theory) mà nhà kinh tế học Daron Acemoglu và James Robinson gọi là mức độ kiểm soát và đàn áp tối ưu (optimal repression). [3] Nói cách khác, dân chủ hóa kinh tế không đồng nghĩa với dân chủ hóa chính trị, các nhà nước này kiểm soát chính trị ở mức triệt tiêu lãnh đạo các nhóm đối lập hoặc cảnh báo các nhóm này mà vẫn không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình dân chủ hóa kinh tế và hình ảnh quốc gia đối với các cộng đồng kinh tế. 

 

Không chỉ vậy, các công cụ và diễn đàn dân chủ (như các cuộc bầu cử chẳng hạn) cũng bắt đầu có các công năng riêng. [4] Thay vì chỉ được dùng để làm bình phong, hệ thống bầu cử và các biện pháp dân chủ giờ đây dần trở thành công cụ để giới chóp bu lãnh đạo có thể kiểm tra lòng trung thành, năng lực, hay sự yêu mến mà quần chúng dành cho lãnh đạo ở địa phương. 

 

Cùng với các cơ quan dân vận, hội đoàn do nhà nước quản lý tại địa phương, chúng ta dần có thứ gọi là co-opting institutions (tạm dịch: các định chế giám sát), kết nạp người dân vào các không gian do nhà nước quản lý. Tuy nhiên, như đề xuất của nhà nghiên cứu Bueno de Mesquita, co-optation khác rất nhiều với dân chủ. 

 

Nếu kết quả của các tiến trình dân chủ là bất định và tùy thuộc vào sự hài lòng của cử tri về một vấn đề nhất định, co-optation mang các yếu tố địa phương (nhóm trí thức, hội nhóm tôn giáo, nhóm vận động quyền, v.v.) vào quy trình đưa ra quyết định. Điều này không phải để trao quyền cho họ, mà là để kiểm soát, giới hạn sức mạnh của từng nhóm, từ đó thuyết phục họ rằng quyết định được giới lãnh đạo chóp bu đưa ra là chính xác và phù hợp tuyệt đối, không nên bị thách thức hay chỉ trích. [5] Các đối tượng đi ra ngoài lằn ranh mà co-optation cho phép sẽ bị xem là không có tính đóng góp, phá hoại, bị loại trừ, và bị xử lý tùy thuộc mức độ nặng nhẹ khác nhau.

 

Chỉ ra những điều trên không nhằm để chỉ trích, mà để chúng ta thấy rằng trình độ và kỹ thuật quản lý của các nhà nước chuyên quyền đã đạt đến mức độ không kém bất kỳ chính quyền dân chủ phương Tây nào. Lượng kiến thức và thông tin mà họ có để xử lý các vấn đề từ thường nhật đến khủng hoảng bằng các kỹ thuật kiểm soát dường như còn ổn định và thiết thực hơn cả việc đặt niềm tin vào dân chủ trực tiếp và các quyết định không phải bao giờ cũng lý tính của quần chúng. 

 

Tốt hay không tốt, đạo đức hay không đạo đức, sự hoàn thiện hóa của các thể chế chuyên quyền với nền chính trị đơn đảng, có kiểm soát, và kinh tế phát triển tốt sẽ dần được xem là mô hình thay thế phi phương Tây đáng học hỏi trong một tương lai. 

 

 

Quá trình xét lại của giới học thuật phương Tây

 

Quá trình xét lại của giới học thuật phương Tây là một quá trình mà bản thân người viết trải nghiệm và cảm nhận trong suốt 5 năm sinh sống, làm việc, giảng dạy tại Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, và Canada. 

 

Trong vòng mười năm trở lại đây, phong trào xét lại lịch sử, vai trò và thành tựu của hệ thống chính trị phương Tây đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhưng hiểu thế nào là xét lại trong bối cảnh này? 

 

Chúng ta cần biết rằng không gian tự do học thuật tại phương Tây, mà đặc biệt là Hoa Kỳ, tạo ra hằng hà sa số các học thuyết, quan điểm và cách tiếp cận liên quan đến kinh tế học, khoa học xã hội, lịch sử, pháp luật, v.v. Tuy nhiên, theo cảm nhận của người viết tại những không gian này, chưa bao giờ không gian học thuật phương Tây bị bao trùm bởi chủ nghĩa xét lại đến vậy. 

 

Chỉ cách đây khoảng 15 năm, cán cân giữa các nhóm theo chủ nghĩa tự do (liberalism), chủ nghĩa tự do cá nhân (libertarianism) và các nhóm theo chủ nghĩa Marx, các nhóm trường phái chỉ trích (critical schools) là tương đối cân bằng. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các nhóm theo chủ nghĩa Marx và trường phái chỉ trích gần như hoàn toàn áp đảo tại hầu hết các trường đại học. 

 

Người viết sẽ không bàn về câu chuyện đúng sai trong phạm vi bài viết này, vì một thảo luận như vậy chắc chắn không thể gói gọn trong công cụ trình bày mà chúng ta đang có. Song dù gì đi chăng nữa, tính xét lại, đánh giá lại, và thậm chí chỉ trích lại những giá trị, thành tựu của phương Tây trong suốt hàng trăm năm qua tại chính các trường đại học phương Tây đã và sẽ tiếp tục là vấn đề lớn. 

 

Vậy họ xét lại những điều gì? 

 

Ví dụ, thành tựu xây dựng nhà nước với quy chế liên bang - tiểu bang, thành tựu lập pháp với bản hiến pháp dân quyền đầu tiên và hàng loạt các tu chính án dân quyền của Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn bị phủ nhận. Thay vào đó, các lý thuyết gia hậu thực dân và các trường phái chỉ trích sẽ nhắm vào cái các điểm yếu về bối cảnh và lịch sử của quá trình hình thành Hoa Kỳ, như thực dân định cư (settler colonialism), việc tiếp tục duy trì chế độ sở hữu nô lệ tại thời điểm lập quốc, hay những yêu cầu bồi thường cho người bản địa Bắc Mỹ (reparation). Các tác phẩm gần đây được xuất bản như “The Battle over America’s Origin Story: Legends, Amateurs, and Professional Historiographers” của sử gia Brian Regal cho chúng ta một tổng hợp tương đối đầy đủ. [6] [7] 

 

Tương tự, hệ thống quân sự và hậu cần dày đặc của Hoa Kỳ trên toàn cầu cũng từng được xem là thành tựu về quân sự, kinh tế, và kỹ thuật hậu cần xuất sắc của quốc gia này. Tuy nhiên, qua lăng kính của giới học giả chỉ trích và phi thực dân (decolonisation), đây cũng không phải là thành tựu kinh tế hay thành công quân sự gì to lớn mà đơn giản chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa thực dân nợ (debt colonialism) và những nơi định cư của chủ nghĩa đế quốc (imperialist settler garrison). [8]

 

Nói cách khác, các phong trào học thuật đang thống trị nhiều đại học phương Tây gần như đi theo xu hướng chỉ trích, mà từng phổ biến ở các quốc gia cộng sản thời Chiến tranh Lạnh khi nói về Hoa Kỳ và Tây Âu. Điều khác biệt duy nhất là những diễn ngôn này đang diễn ra ngay trong lòng các quốc gia phương Tây, và trở thành một phần “sự thật” của đại chúng, đặc biệt là giới sinh viên trẻ. 

 

https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/2023/11/8123.webp

Biển cảnh báo nguy hiểm bên ngoài Điện Capitol Hoa Kỳ. Ảnh minh họa. Ảnh: Jim Lo Scalzo/EPA.

 

Liệu đây là một bước phát triển tốt hay xấu, tiến tới hòa hợp hay tạo ra thêm xung đột, là những thảo luận chỉ tương lai mới có thể trả lời. Tuy nhiên, điều rõ ràng nhất là các lý thuyết cấp tiến, tự do, chủ nghĩa cá nhân, và tinh thần tư bản, v.v. mà phương Tây luôn tự hào đang dần thất thế ngay trên sân nhà. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi của chính sách ngoại giao trong tương lai dài hạn, và tham vọng của chính quyền Hoa Kỳ trong việc ủng hộ các phong trào dân chủ, cấp tiến trên thế giới cũng sẽ giảm đi đáng kể.

 

                                                         *** 

 

Sẽ thật khó để nhận biết liệu tương lai của các phong trào dân chủ và chủ nghĩa tự do sẽ đi về đâu nếu đầu tàu duy nhất của toàn bộ lý thuyết này - Hoa Kỳ - vụn vỡ trước các phong trào xét lại nội địa. 

 

Mặt khác, sự trỗi dậy mạnh mẽ của các quốc gia chuyên quyền, cùng với đó là thành tựu to lớn về mặt kinh tế và kỹ năng kiểm soát xã hội, chính thức đặt chủ nghĩa tự do trước một thách thức dường như khó hơn cả chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô.


 

Vì sao chất lượng học thuật xuống thấp trong một nền chính trị toàn trị?

Yêu cầu “trung với đảng” biến hệ thống khoa học trở thành bộ máy quan liêu.

Luật Khoa tạp chí                               Võ Văn Quản

 

 

Quan điểm | Mạn đàm đầu năm: Nhà khoa học, tự do và lòng trung thành chính trị

Khoa học có cần tính đảng?

Luật Khoa tạp chí                    Huỳnh Công Đương

 

 





KISSINGER ĐÃ PHỦ BÓNG DÀI & KHÔNG ĐỒNG ĐỀU Ở ĐÔNG NAM Á (Nikkei Asia)

 



Kissinger đã phủ bóng dài và không đồng đều ở Đông Nam Á   

Nikkei Asia

Cù Tuấn biên dịch

2-12-2023  20:37    

https://www.facebook.com/tuan.cu.5/posts/pfbid0DQrL4FuoovXy6Co4g8txKfvxUbS97JL4AwPjL9MkhCpZhy2u9HicYgHBqLyqx2RBl

 

Tóm tắt: Người gây tranh cãi về chiến tranh và hòa bình để lại những thông điệp trái chiều trong khu vực này.

 

BANGKOK - Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh vào tháng 7 và tháng 10 năm 1971, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Henry Kissinger đã có chuyến thăm nổi tiếng đến Trung Quốc để hội đàm với Thủ tướng Chu Ân Lai . Mục đích của ông là khôi phục quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sau hơn 20 năm đóng băng. Đó là thời điểm then chốt đối với ngoại giao quốc tế, đặc biệt đối với Đông Nam Á, nơi Mỹ đang sa lầy vào cuộc chiến tranh Việt Nam tốn kém và không được lòng dân trong nước.

 

Chuyến hành trình đầu tiên này được thực hiện bí mật từ Pakistan. Kissinger đã cố gắng hết sức để khiến chuyến đi xuyên châu Á trở nên "cực kỳ nhàm chán" đối với đoàn báo chí của ông.

 

Ông nhớ lại: “Khi chúng tôi rời Ấn Độ, đoàn chúng tôi chỉ còn một phóng viên của Associated Press. Kissinger giả bệnh sau bữa tối ở Islamabad và biến khỏi tầm mắt báo chí để thực hiện chuyến bay bí mật dài 4.000 km lúc 4 giờ sáng tới Bắc Kinh trong chuyến thăm kéo dài hai ngày.

 

Pakistan là kẻ đồng lõa hoàn hảo. Quốc gia này hoạt động tích cực tại Liên hợp quốc và là người điều phối chính trong mối quan hệ nồng ấm giữa Mỹ, nền dân chủ hàng đầu thế giới và Trung Quốc cộng sản, quốc gia đông dân nhất thế giới. Ấn Độ, nền dân chủ lớn nhất thế giới và là kẻ thù thường xuyên của Pakistan, có mâu thuẫn với Trung Quốc và thân Liên Xô hơn.

 

Một phụ tá của Kissinger, Winston Lord, đã ngồi ở phía trước máy bay. Ông nhớ lại: “Khi máy bay bay qua biên giới, tôi là quan chức Mỹ đầu tiên tiến vào Trung Quốc trong 22 năm qua. Henry đã không bao giờ tha thứ cho tôi."

 

"Chuyến thăm đầu tiên của Kissinger bí mật đến mức ngay cả George Bush Sr., đại diện thường trực của Mỹ tại Liên Hợp Quốc ở New York, cũng không biết về cuộc gặp", Anand Panyarachun, quyền đại diện trẻ của Thái Lan tại Liên Hợp Quốc ở New York vào thời điểm đó, sau đó đã nhớ lại. “Tất cả chúng tôi vẫn đang giải quyết vấn đề đại diện của Trung Quốc, ủng hộ việc tiếp tục công nhận Đài Loan.”

 

Tej Bunnag, cựu ngoại trưởng Thái Lan và chuyên gia về Trung Quốc, nói về Kissinger: "Chuyến thăm đầu tiên của Kissinger tới Trung Quốc vào năm 1971 đã thay đổi cán cân quyền lực thế giới. Chuyến thăm cuối cùng của ông trong năm nay, ở tuổi 100, đã giúp ích cho quan hệ Trung-Mỹ: Chủ tịch Tập Cận Bình đã tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC ở San Francisco và thiết lập lại quan hệ Trung-Mỹ.”

 

Vào tháng 2 năm 1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã kế tục tốt nền tảng của Kissinger bằng chuyến thăm lịch sử tới Bắc Kinh và gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Sự xuất hiện của Nixon đã phá vỡ lớp băng một cách đáng kể, nhưng việc nối tiếp cho mối quan hệ đã bị tiêu tan do chiến dịch tái tranh cử của ông và vụ Watergate. Phải đến năm 1979, những năm đầu hậu Mao, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Mỹ Jimmy Carter cuối cùng mới trao đổi việc thiết lập đại sứ quán.

 

Kissinger lúc đó đang bận rộn ở nơi khác. Cuối năm 1972, cuộc đàm phán hòa bình Paris về Đông Dương bắt đầu. Một hiệp định hòa bình đã được ký kết vào cuối tháng 1 bởi đại diện của Mỹ, Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, nhưng chưa bao giờ được Thượng viện Mỹ phê chuẩn. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân của Mỹ và “hòa bình trong danh dự”, theo lời của Nixon.

 

Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia duy nhất của Mỹ đồng thời kiêm chức ngoại trưởng, đã được trao giải Nobel Hòa bình gây tranh cãi vì những nỗ lực của ông ở Paris. Đối tác của ông, Lê Đức Thọ của Bắc Việt Nam, cũng được đồng trao giải, nhưng đã từ chối để tránh bị nêu tên cùng với Kissinger khi hòa bình vẫn chưa đạt được. Lực lượng bộ binh Mỹ được rút khỏi miền Nam Việt Nam và các căn cứ không quân của Mỹ ở Thái Lan giảm bớt, nhưng giao tranh ở Việt Nam, Campuchia và Lào vẫn chưa kết thúc cho đến giữa năm 1975 với sự tiếp quản cuối cùng của phe cộng sản. Phnom Penh và Sài Gòn sụp đổ cách nhau chưa đầy hai tuần vào cuối tháng Tư.

 

Thái Lan đã noi gương Kissinger nhưng lại vạch ra lộ trình riêng cho mình trong quan hệ với Trung Quốc. Ngay từ năm 1971, Anand đã được Bộ trưởng Ngoại giao Thanat Khoman chỉ đạo để bắt đầu các cuộc đàm phán bí mật xây dựng lòng tin với Huang Hua, đại diện Liên Hợp Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao tương lai của Trung Quốc, tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York.

 

Trong vòng vài tuần sau khi Sài Gòn thất thủ và được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ tướng Thái Lan Kukrit Pramoj đang ở Bắc Kinh, đã làm lu mờ Kissinger cùng với một phái đoàn chính thức lớn nhằm chính thức hóa quan hệ ngoại giao Thái-Trung - cũng như các thành viên sáng lập khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm sáu thành viên. Như Kissinger đã phát hiện ra trong những chuyến thăm bí mật mang tính đột phá của mình nhiều năm trước đó, không có lịch trình chính xác cho bất cứ điều gì ở Bắc Kinh.

 

Trung Quốc lúc đó cũng đang tiếp đón những vị khách khác. Vào ngày 21 tháng 6, một Mao Trạch Đông rất yếu ớt đã gặp gỡ giới lãnh đạo cách mạng mới cuồng tín của Campuchia -- Pol Pot, Ieng Sary, Ney Sarann và Siet Chhe -- bên cạnh bể bơi riêng của Mao ở trong Tử Cấm Thành.

 

Mối quan hệ giữa Thái Lan và đồng minh lâu đời nhất của nước này là Mỹ vào thời điểm đó đang ở mức đáy, phần lớn là do thái độ hiếu chiến mạnh tay của Kissinger. Trong vòng hai tuần kể từ khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh, thủ đô của Campuchia, và đuổi công dân của nước này về vùng nông thôn một cách tàn nhẫn, một tàu chở hàng của Mỹ, SS Mayaguez, đã đi lạc vào vùng biển Campuchia và bị bắt. Mỹ sau đó đã thực hiện một nhiệm vụ giải cứu kém cỏi xuất phát từ căn cứ Mỹ ở Thái Lan mà không có sự cho phép của chính phủ Thái Lan.

 

Tổng thống Gerald Ford, tổng thống không được bầu chọn duy nhất trong lịch sử Mỹ, đã triệu tập bốn cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ trong suốt cuộc khủng hoảng Mayaguez kéo dài ba ngày, trong đó bao gồm trận chiến kéo dài 14 giờ trên đảo Koh Tang khốc liệt nhất từng thấy trong toàn bộ chiến tranh Đông Dương.

 

Với những thủy thủ vẫn chưa được tìm thấy và bộ binh đã tiến vào đảo này, người Mỹ đã thả quả bom cuối cùng và lớn nhất trong toàn bộ Chiến tranh Việt Nam, một quả bom BLU-82 nặng 6.800 kg gây ra một vụ nổ lớn ở giữa đảo Koh Tang -- dù không mang lại lợi ích quân sự nào. Nó gần như là một phép ẩn dụ cho toàn bộ chiến tranh Việt Nam.

 

Trên đất liền, cảng Kompong Som ( Sihanoukville ) và căn cứ hải quân Ream cũng bị ném bom, ngay cả sau khi có tin Khmer Đỏ thả thủy thủ đoàn Mayaguez. Sau đó nổi lên rằng việc cho phép ném bom B-52 từ đảo Guam vào đất liền Campuchia - chính loại mà Khmer Đỏ đã sử dụng một cách giả tạo để biện minh cho việc sơ tán dân khỏi Phnom Penh và các khu vực đông dân cư khác - đã được Ford và Kissinger đồng ý. Có thể điều đó đã không xảy ra vì Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger và một tướng không quân đã tìm cách ngăn chặn mệnh lệnh này. Ford sa thải Schlesinger sáu tháng sau đó, và việc tướng này cản trở lệnh ném bom hạng nặng được cho là một trong những lý do.

 

Khi Philip Habib, trợ lý Bộ trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, gợi ý một lời xin lỗi có thể là để giải quyết sự thất bại của Mayaguez vì chính phủ Thái Lan "yếu đuối" đã khó chịu đến mức nào, Kissinger đã vặn lại, "Đừng ngớ ngẩn... Chúng ta sẽ làm như vậy. Không có xin lỗi gì cả."

 

Ông luôn bác bỏ các vụ ném bom rải thảm B-52 vào Campuchia từ năm 1969 đến năm 1973 đã giết chết hàng trăm nghìn dân thường - chưa bao giờ có một thống kê chính xác.

Ngoài chính phủ, Kissinger Associates được thành lập vào năm 1982 với tư cách là công ty tư vấn địa chính trị quốc tế. Đó là một Kissinger có phần khác biệt được thể hiện vào năm 1998 sau cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát ở Thái Lan và tiếp tục phá tan tành khu vực này.

 

“Kissinger rất khó chịu với chính quyền Clinton vì đã không giúp đỡ Thái Lan nhiều hơn”. Asda Jayanama, đại diện của Thái Lan tại Liên hợp quốc vào thời điểm đó, nhớ lại. Trong chốn riêng tư, nhiều quan chức Mỹ cảm thấy chính Thái Lan phải chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc tự đánh sập hệ thống tài chính của nước này.

 

Đến năm 1997, USAID đã rút khỏi Thái Lan vì nền kinh tế Thái Lan quá phát triển và sôi động nên không cần viện trợ song phương thêm nữa.

 

“Chính phủ Mỹ đã để Viện Kenan Châu Á, một dự án do Viện Doanh nghiệp Tư nhân Kenan tại Đại học Bắc Carolina điều hành, trở thành tổ chức kế thừa chính cung cấp hỗ trợ phát triển cho Thái Lan”, Paul Wedel, cựu giám đốc điều hành của Viện Kenan Châu Á, nói với Nikkei Asia.

 

Chủ tịch Viện Kenan Châu Á là Anand, cựu đại sứ Thái Lan tại Washington, người vào đầu những năm 1990 đã phục vụ hai nhiệm kỳ ngắn ngủi với tư cách là một thủ tướng không qua bầu cử nhưng có quyền lực cao. Anand có công trong việc phát triển chương trình Các tập đoàn Mỹ ở Thái Lan (ACT) nhằm tranh thủ sự hỗ trợ từ các công ty lớn của Mỹ - như American Express, Chase Manhattan Bank, Dow Chemical, GE, Motorola và Raytheon - để giúp đào tạo lại khoảng 27.000 người Thái đã mất việclàm trong thời kỳ khủng hoảng.

 

Wedel nói: “ACT rất quan trọng, không chỉ trong việc hỗ trợ nền kinh tế và người thất nghiệp mà còn cho chính phủ Mỹ thấy rằng khu vực tư nhân Mỹ đang đến hỗ trợ Thái Lan trong khi nước này trì hoãn”.

 

Kissinger giúp tổ chức các cuộc gặp cho Thủ tướng Thái Chuan Leekpai với các nhà lãnh đạo chính sách và kinh doanh ở New York và Washington. Ông cũng kêu gọi ủng hộ bằng việc đừa địa chỉ cá nhân tới cộng đồng doanh nghiệp Mỹ ở Thái Lan, cho rằng các đồng minh cũ nên hỗ trợ lẫn nhau trong thời điểm khó khăn.

 

Tại một bữa ăn trưa của Phòng Thương mại Mỹ, Kissinger đã phát biểu trong hơn 20 phút hoàn toàn ngẫu nhiên khi đứng nói trên tấm thảm phòng ăn chứ không phải từ bục giảng, với lối nói trang trọng, accent đặc trưng của người Đức và sự hài hước có chừng mực.

 

Kissinger đã khiến khán giả thích thú khi mô tả việc ông từng bị một phụ nữ xinh đẹp làm ông phải câm nín tại một bữa tiệc cocktail. "Tôi được biết ông là một người đàn ông hấp dẫn - vì vậy hãy làm tôi say mê ông đi nào," ông nói, trích dẫn lời người phụ nữ.

 

Ảnh: https://www.facebook.com/photo?fbid=7181776251860993&set=a.124320747606614

Henry Kissinger và Lê Đức Thọ của Việt Nam nói chuyện với báo chí ở ngoại ô Paris vào ngày 13 tháng 6 năm 1973, năm mà họ cùng được trao giải Nobel Hòa bình – nhưng ông Thọ đã từ chối nhận giải.

 

.

3 BÌNH LUẬN   

 

Cù Tuấn

Bài gốc https://asia.nikkei.com/.../Kissinger-cast-a-long-and...

ASIA.NIKKEI.COM

Kissinger cast a long and uneven shadow in Southeast Asia

Kissinger cast a long and uneven shadow in Southeast Asia