.
TRƯỜNG
SA NGÀY 14.4.1975
KÍ SỰ
PHẠM
ĐÌNH TRỌNG
LỜI DẪN. Phần
lớn người dân Việt Nam ở trong nước chìm đắm trong tuyên truyền áp đặt đều nhận
thức rằng cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc ngày 30.4.1975 là cuộc kháng chiến
cứu nước hào hùng chống Mỹ xâm lược. Người dân đều nhìn nhận cuộc chiến tranh
đó với cảm hứng tự hào của người chiến thắng. Người viết sử, viết báo, viết văn
và làm nghệ thuật đều thể hiện cuộc chiến tranh thảm khốc tương tàn đó bằng cảm
hứng anh hùng ca.
Nhưng có ba bằng chứng lịch sử chân thực khẳng định rằng
cuộc chiến tranh đó là cuộc nội chiến tương tàn. Cuộc chiến người Việt xả súng
giết người Việt. Người Việt thôn tính lãnh thổ, tước đoạt không gian sống của
người Việt. Người Việt tước đoạt lòng yêu nước, tước đoạt danh dự, trách nhiệm
công dân của người Việt. Ba bằng chứng tiêu biểu khẳng định cuộc nội chiến là.
Một.
Cuộc chiến mở đầu bằng tiếng súng đồng khởi ở Bến Tre
ngày 17.1.1960. Kí hiệp định Genève, nhưng nhà nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà không thực tâm thi hành hiệp định, không rút hết lực lượng ở miền Nam ra miền
Bắc mà gài lại khắp miền Nam những cốt cán cộng sản, những hạt nhân lãnh đạo,
duy trì các tổ chức cộng sản ngoài pháp luật ở miền Nam. Đi đầu nổi dậy chống
nhà nước Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh uỷ Bến Tre do người cộng sản nằm vùng Nguyễn
Thị Định, đảng viên cộng sản từ năm 1938 khi mới 18 tuổi là bí thư đã ráo riết
tổ chức các đơn vị du kích ở nhiều làng xã. Đầu năm 1960 tỉnh uỷ Bến Tre phát động
chiến dịch “Toàn dân đồng khởi diệt ác ôn, phá kìm kẹp, giải phóng nông thôn,
làm chủ ruộng vườn". Ngày 17.1.1960 tiếng súng đồng khởi đã cướp được
chính quyền của nhà nước Việt Nam Cộng Hoà ở ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình
Khánh, huyện Mỏ Cày. Dù lực lượng đồng khởi chỉ làm chủ ba xã trong hai ngày
nhưng tiếng súng đồng khởi đã trở thành pháo lệnh mở ra một cuộc chiến tranh
kéo dài mười lăm năm, 1960 – 1975. Khởi đầu từ Bến Tre. những người cộng sản nằm
vùng đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh du kích khắp miền Nam Việt Nam dẫn đến
ngày 20.12.1960 ra đời Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam như một
chính quyền nhà nước đối lập với nhà nước Việt Nam Cộng Hoà, hình thành hai lực
lượng, hai chiến tuyến của cuộc nội chiến.
Hai.
Chiến dịch cuối cùng kết thúc chiến tranh ngày 30.4.1975
là tổng lực sức mạnh bạo lực của nhà nước người Việt ở miền Bắc, nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà tiêu diệt sức mạnh tự vệ của nhà nước người Việt ở miền
Nam, nhà nước Việt Nam Cộng Hoà.
Ba.
Hình ảnh rõ nhất, sự kiện lịch sử tiêu biểu nhất về cuộc
nội chiến người Việt xả súng bắn giết người Việt là những dòng máu người Việt ở
cả hai chiến tuyến đổ ra trên núm cát san hô Song Tử Tây của tổ tiên để lại
trong quần đảo Trường Sa ngoài biển Đông rạng sáng ngày 14.4.1975.
Mười lăm năm người Việt xả súng quyết liệt giết người Việt,
cả dải đất Nam Việt Nam đẫm máu người Việt là trang bi thảm nhất trong lịch sử
Việt Nam, là nỗi đau muôn đời của dân tộc tồn tại bằng thương yêu đùm bọc. Người
Việt giết người Việt không phải chiến công để tự hào phô trương, để viết sử
thi, anh hùng ca. Tưng bừng, bền bỉ phô trương chiến công cuộc chiến tranh người
Việt giết người Việt là con người Việt Nam của giai cấp vô sản thế giới, không
phải con người Việt Nam của dân tộc Việt Nam.
*********
KÝ MỘT
Hai đêm, một ngày ở đảo Song Tử Tây trong chuyến ra Trường
Sa tháng năm, năm 1978, tôi may mắn có được một buổi chiều ngồi dưới bóng dừa
trên đảo Song Tử Tây với trung sĩ Nguyễn Hữu Cách, người lính đặc công nước đã
có mặt ở đảo Song Tử Tây đêm lịch sử 14.4.1975.
Trong cơn lốc của những cánh quân tiến về Sài Gòn tháng
tư năm 1975, người lính Nguyễn Hữu Cách trong đội hình trung đoàn 126 đặc công
nước từ cửa sông Bạch Đằng ở Quảng Yên, Quảng Ninh cũng thần tốc cuốn theo đường
số Một ào ạt đổ về phía Nam. Đến Đà Nẵng lính đặc công nước tách ra khỏi dòng
chảy lớn, bỏ đường bộ, xuống những con tàu thuộc đoàn tàu không số của trung
đoàn vận tải 125, âm thầm vượt biển dóng hướng Đông, ra Trường Sa.
Khi tôi cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa thuộc tạp chí Văn Nghệ
Quân Đội theo đoàn bộ tư lệnh Hải quân do hai thiếu tướng Hải quân dẫn dắt, tướng
tư lệnh Giáp Văn Cương và tướng chính uỷ Hoàng Trà đến đảo Song Tử Tây thì trên
đảo đang có đoàn làm phim quân đội làm phim về Trường Sa. Đoàn làm phim đã đưa
Nguyễn Hữu Cách từ Cam Ranh ra Song Tử Tây ghi hình con người lịch sử, không
gian lịch sử, sự kiện lịch sử đêm rạng sáng 14.4.1975 ở Song Tử Tây.
Kí sự dưới đây tái hiện lại câu chuyện người lính đặc
công nước Nguyễn Hữu Cách kể trong buổi chiều ngồi với tôi ở đảo Song Tử Tây.
1. NỖI BỒN
CHỒN BẤT THƯỜNG
Năm mươi tư cây dừa gày guộc, cao lênh khênh trên đảo
Song Tử Tây, hòn đảo vắt vẻo trên đỉnh cực Bắc quần đảo Trường Sa, cây nào cũng
có dáng gắng gỏi, nhọc nhằn và quằn quại, vật vã. Sáu tháng mùa khô nắng cháy
và gió xé, lá dừa xác xơ, hoe vàng. Tháng năm, mùa mưa đến cũng là mùa bão
giông. Những trận mưa mát lành làm lá dừa xanh mướt mát, bừng bừng sức sống thì
những trận bão cuồng, gió giật và xoay chiều đủ bốn hướng lại vặn thân dừa đến
quằn quại. Từ các nách lá, những chùm hoa lấm tấm trắng lại bung ra. Đêm đi
gác, người lính chợt nhận ra trong không khí ẩm ướt, thoang thoảng hương hoa dừa
thơm mát làm anh có cảm giác như đang đi dưới hàng dừa bên đường làng, hay đi
trong bãi dừa ven biển quê nhà.
Ngày nắng cháy, dừa toả bóng che mát cho một khoảng đảo.
Bên gốc dừa có những chiếc ghế đá nhỏ đặt hướng ra biển. Giữa vạt dừa có ba nấm
mộ. Những bao cát đắp quanh những nấm mộ giữ cát khỏi trôi và cản những cơn gió
biển hun hút thổi tung cát lên. Ba nùm cát hình chữ nhật song song theo hướng
Đông – Tây. Giữa mỗi nùm cát, những chân nhang đỏ nghiêng ngả. Ba nấm mộ nhưng
chỉ có một nấm mộ có bia. Đầu phía Tây, phía làng quê thương nhớ, phía gia đình
ruột thịt, phía tổ quốc Việt Nam thân yêu của nấm mộ ở phía Bắc có những bông
hoa san hô lớn xếp quanh một tấm bia gỗ nhỏ mang hàng chữ được vạch bằng mũi lưỡi
lê vào gỗ, nét mờ nhạt, nhìn kĩ mới đọc được: LIỆT SĨ TỐNG VĂN QUANG. HI SINH
NGÀY 14.4.1975.
Ngồi bên Nguyễn Hữu Cách trên chiếc ghế đá, bên gốc dừa
nhìn ra biển đang chuyển dần từ màu xanh ngỡ ngàng sang màu tím trầm tư, tôi lắng
nghe người lính đặc công nước quê miền biển Nghĩa Hưng, Nam Định kể lại chặng
đường Nguyễn Hữu Cách, Tống Văn Quang, Nguyễn Văn Quyền trong đội hình trung
đoàn 126 lính đặc công nước ngồi ô tô hành quân từ Quảng Yên, miền Bắc vào Đà Nẵng,
miền Trung rồi chui xuống hầm chứa hàng trên con tàu sắt nhỏ bé ra Trường Sa.
Nghe kể lại khoảnh khắc những người trai Việt Nam trong sắc phục lính miền Bắc
và những người trai Việt Nam trong sắc phục lính miền Nam dựng tường lửa ngăn
cách nhau, huỷ diệt nhau giành quyền làm chủ đảo Song Tử Tây và tiếng Việt từ
thăm thẳm hồn người Việt cất lên đã làm tắt lịm những chớp lửa chết chóc để người
Việt từ hai phía đến với nhau. Nghe kể về những dòng máu người lính đổ ra từ
hai chiến tuyển đều là người Việt. Những dòng máu người Việt cùng thấm vào núm
cát san hô của cha ông người Việt để lại rạng sáng ngày 14.4.1975.
Tối ngày 2 tháng tư, Cách nghe đài Tiếng Nói Việt Nam đưa
tin quân miền Bắc đã làm chủ thành phố Nha Trang thì tờ mờ sáng ngày 3 tháng
tư, trung đoàn 126 đặc công nước của Cách nhận lệnh xuất quân.
Khi những sư đoàn từ vách núi Trường Sơn, những binh đoàn
từ hậu phương miền Bắc, ầm ầm xe pháo theo những trục đường rộng dài của hệ thống
giao thông quốc gia tiến về phía Nam giữa ban ngày chói chang nắng đang mùa
khô, lần lượt làm chủ những yếu địa chiến lược, những thành phố lớn, những vùng
đất rộng. Ngày 10 tháng ba làm chủ địa bàn chiến lược Buôn Mê Thuột. Ngày 26
tháng ba làm chủ cố đô Huế. Ngày 29 tháng ba làm chủ thành phố Đà Nẵng, căn cứ
quân sự hỗn hợp lớn nhất miền Nam. Ngày 2 tháng tư làm chủ Nha Trang, căn cứ hải
quân trọng yếu nhất của quân đội miền Nam. Khoảng cách đến Sài Gòn rút ngắn lại
từng ngày thì không khí chộn rộn, náo nức ở trung đoàn 126 cũng tăng lên từng
ngày.
Dù biết rằng lính đặc công chỉ đơn độc đánh nhỏ lẻ, đánh
bí mật, đánh bất ngờ, đánh gặm nhấm. Giờ là lúc đại quân dàn thế trận đánh lớn,
đánh tổng lực, đánh vỗ mặt, đánh công khai, đánh dứt điểm, đánh bằng tốc độ
nhanh, xung lực lớn, hoả lực mạnh, đánh bằng xe bọc thép, pháo nòng dài, tên lửa
vác vai, đâu cần đến cách đánh dầm dề, đánh điểm, đánh hiểm của đặc công. Đâu cần
đến những mũi thọc sâu âm thầm trong đêm tối của đặc công dù nhọn hoắt nhưng nhỏ
bé, lẻ loi, trần trụi, trên người chỉ có chiếc quần cụt lủn, trong tay chỉ có
khẩu AK với hai băng đạn, bên sườn chỉ có dao găm và gói thuốc nổ. Nhưng cả
trung đoàn ai cũng khấp khởi chờ đợi. Là người lính chiến trận ai chẳng mong có
mặt trong trận đánh cuối cùng giành chiến thắng cao nhất, trọn vẹn nhất. Là người
lính lúc này phải đứng ngoài cuộc chiến là hình phạt nặng nề nhất. Vì vậy, nhận
lệnh lên đường, ba lô trên lưng, khẩu AK trong tay, Cách không chạy thẳng ra ô
tô mà chạy đi tìm Quang, chia tay Quang, an ủi Quang phải ở lại hậu cứ.
Bắp đùi bên chân phải Quang nổi nhọt sưng tấy. Chân đau
nhức đã làm Quang thức trắng một đêm. Đến chiều qua Quang không lê bước được nữa.
Y tá Gọn đã viết giấy cho Quang vào viện quân y 5.8 ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng và
ô tô quân y đã đến đưa Quang nhập viện nhưng Quang nấn ná chưa chịu đi nằm viện
quân y. Quang bảo đang uống thuốc của y tá Gọn nghe chừng có chuyển biến. Đợi
thêm thời gian mà chân không đỡ đau, đành chấp nhận bị loại ngũ phải vào nằm
trong viện quân y vậy. Quang nằm liệt mấy hôm nay nhưng đến giường ngủ của
Quang thấy tấm ván giường trống trơ, không còn chăn, màn, ba lô. Cả chiếc chiếu
trải giường cũng không còn. Cách chạy ra chỗ đại đội tập hợp chờ lên ô tô thì
thấy Quang ba lô trên lưng, AK trong tay ngồi thụp trong hàng ngũ mọi người đều
đứng.
Cách đứng vào hàng, cạnh hảng tiểu đội Quang, hỏi: Hôm
nay mày đi quân y mùng năm tháng tám cơ mà. Sao lại ngồi đây? Quang chống AK đứng
lên, khẽ dậm dậm bàn chân phải tỏ ra chân Quang không còn bất trị nữa, Quang bảo,
tao còn đi được làm sao phải ở lại phía sau? Cách ấn vai Quang, bảo, mày cứ ngồi
nghỉ đi. Ráng đi được chuyến này là may rồi. Tao cũng mong mày không vắng mặt
trong trận đánh cuối cùng này. Cách ngồi xuống với Quang, nghe Quang lí sự về đời
lính đặc công. Lính đặc công cả đời ra trận trong đội hình nhỏ bé, lẻ loi,
trong âm thầm, lặng lẽ, thắng bại chưa biết nhưng cái chết thì đã tự nhận lấy rồi.
Mình trần đơn độc giữa bãi mìn dày đặc, giữa tua tủa họng súng, giữa cái cái chết
bủa vây. Trước đây vào trận trong tình thế như vậy mà có ai chùn bước đâu. Bây
giờ mới được hành quân trong đội hình lớn rầm rộ, công khai. Lại là trận đánh
cuối cùng, trận đánh đi vào lịch sử, đi là chắc thắng. Tao còn cầm được khẩu
súng, dù bất kì sự cố nào cũng không thể loại tao ra khỏi lần xuất quân này được.
Tao đã báo cáo và được cả đại đội trưởng, cả chính trị viên cho đi rồi. Chính
trị viên Hậu bảo: Cậu không chịu đi viện, ở lại hậu cứ cũng chẳng còn ai lo cơm
nước, thuốc men cho cậu. Lần này không phải hành quân bộ thì cứ lên ô tô ngồi,
bám theo đơn vị rồi tuỳ cái chân trở chứng của cậu mà lo liệu sau.
Ô tô chạy suốt ngày đêm. Đến rạng sáng vào thành phố rợp
cờ đỏ. Đọc bảng hiệu trên phố, lính thầm reo lên: A, đến thành phố Đà Nẵng rồi!
May quá xe đang dừng giữa phố cho lính được no mắt ngắm nhìn thành phố, ngắm
nhìn con người phương Nam. Nhà nhà cửa đóng, cửa có mở cũng chỉ he hé. Những
toà nhà lầu san sát phần lớn đều mới xây. Ngợp trời bảng hiệu buôn bán. Loá mắt
bảng quảng cáo hàng hoá in hình các cô gái. Cô gái xinh đẹp nào cũng như vui mừng
nhìn vào mắt lính với nụ cười tươi. Lính như được đến một đất nước xa lạ, bình
yên, một thành phố đô hội sầm uất, sức sống mạnh mẽ và chưa hề có chiến tranh.
Lạ nhất là con người. Con gái phấn son như diễn viên trên sân khấu. Con trai quần
áo đủ màu, đủ kiểu lạ lẫm. Lính miền Bắc sững sờ ngắm con người phương Nam như
ngắm người ở xứ sở ngoài trái đất. Còn tốp thanh niên miền Nam tóc dài, quần ống
loe đến bên đoàn xe, ngước nhìn những người lính trên thùng xe với vẻ ngạc
nhiên và thích thú như vẻ mặt những đứa trẻ nhìn voi, nhìn gấu trong vườn thú.
Tốp con trai xán đến cạnh ô tô. Tốp phụ nữ mặt hoa da phấn
rực rỡ như một cụm hoa đứng túm tụm xa hơn nhưng thu hút mọi ánh mắt của lính bởi
lính miền Bắc trong đời thường chưa bao giờ thấy đàn bà gương mặt rạng rỡ phấn
son, váy áo đủ sắc màu, đủ kiểu cách khoe dáng người óng ả, khoe đường nét đàn
bà gợi cảm đến không thể rời mắt. Những người lính ra đi từ mảnh đất phù sa
sông Hồng, sông Mã, sông Gianh, từ rừng rậm Cao Bằng, từ núi cao Hoàng Liên Sơn
đã bao giờ thấy phụ nữ trong cuộc sống đời thường mà môi son, má phấn và váy áo
sặc sỡ khoe đường nét đàn bà óng ả thế này đâu. Lính đang mở to mắt ngắm phố,
ngắm người, bỗng Quang kêu lên: Em ơi, em đàn bà quá làm cho chân anh hết cả
đau và làm cho anh tỉnh cả người. Lính trên xe đang cười nghiêng ngả vì Quang
thốt lên em đàn bà quá thì xe chuyển bánh đưa lính vào ở doanh trại quân đội
Sài Gòn ngay bên sông Hàn.
Ngồi trên ô tô không phải sử dụng đôi chân, Cách theo dõi
Quang và y tá đại đội xử lí cái nhọt quái ác của Quang. Xoa cao. Tiêm kháng
sinh liều cao. Không hiểu bằng cách nào trong dòng chảy đoàn quân cuồn cuộn như
thác đổ mà y tá Gọn vẫn kiếm được bi đông nước nóng chườm cái nhọt đội da thịt
nhô cao lên và đỏ ửng ở đùi Quang. Gặp sự cố trên đường, xe dừng dù chỉ thoáng
chốc, y tá cũng đỡ Quang xuống đường tập vận động. Thật may, cái nhọt dịu dần,
xẹp dần.
Đến Đà Nẵng chỉ như đến điểm dừng chân triển khai chiến đấu.
Trong những dãy nhà dài rộng, tường cao, mái tôn trắng như dãy nhà kho rỗng,
lính đặt ba lô xuống nền xi măng theo vị trí của từng tiểu đội. Người tìm chỗ mắc
võng. Không có chỗ mắc võng thì trải tấm võng trên nền nhà. Buổi sáng ổn định
chỗ ở. Buổi chiều, đại đội trưởng lên trung đoàn họp nhận phương án tác chiến.
Chính trị viên đại đội lên danh sách biên chế đội hình chiến đấu.
Trung đoàn lại có không khí thầm lặng mà gấp gáp như trước
mọi trận đánh. Lính lại phấp phỏng dò đoán mục tiêu đột nhập. Lính đặc công nước
thì chỉ đánh tàu, đánh cảng, đánh kho tàng bên sông nước. Người đoán sẽ bơi ra
biển đánh tàu chiến Mỹ ngoài khơi. Người đoán lính đặc công nước sẽ bí mật theo
đường biển, đường sông đột nhập vào Sài Gòn, từ trong đánh ra, phối hợp với các
quân đoàn bộ binh từ ngoài đánh vào. Chẳng ai nghĩ đến mục tiêu Trường Sa. Còn
Quang thì phán: Đã vào đến đây thì mục tiêu nào cũng như nhau, cũng là mục tiêu
cuối cùng. Tình thế này đánh mục tiêu nào cũng không đến nỗi trần ai, khó nhai,
khó gặm như đánh tàu chiến Mỹ neo trong quân cảng Cửa Việt.
Trung đoàn chọn ra ba đại đội. Mỗi đại đội lại chọn ra
hai mươi mốt lính tin cậy nhất biên chế thành ba mũi chiến đấu trong một phân đội
do đại đội trường là phân đội trưởng. Kĩ năng sông nước, kĩ năng chiến đấu dưới
nước thì lính trung đoàn 126 anh nào cũng như rái cá, cũng vài chục lần ra vào
quân cảng Cửa Việt, làm nổ tung hàng chục tàu chiến Mỹ, chẳng ai kém ai. Có lẽ
chính trị viên chỉ còn chọn ở tinh thần, ở ý chí tiến công. Cách và Quang đều
được chọn trong đội hình phân đội Một do đại đội trưởng, trung uý Quế chỉ huy.
Nguyễn Văn Quyền trong đội hình phân đội Hai do trung uý, đại đội trưởng Cường
là phân đội trưởng. Trung uý đại đội trưởng Minh chỉ huy phân đội Ba. Đại đội
hơn trăm lính chiến, chắt lại còn hai mươi mốt ý chí tiến công cộng với đại đội
trưởng là người thứ hai mươi hai. Ba phân đội, sáu mươi sáu lính trong đội hình
một đại đội chiến đấu do trung tá, trung đoàn trưởng Mai Năng là đại đội trưởng.
Nhá nhem tối, trong căn nhà rộng sở chỉ huy quân cảng Đà
Nẵng của Hải quân miền Nam còn ngổn ngang giấy tờ và quân phục lính miền Nam,
sau khi các cửa ra vào đã đóng kín và đèn điện bật sáng lên, trung tá trung
đoàn trưởng Mai Năng bước đến trước ba phân đội chiến đấu, hơn sáu mươi người
lính miền Bắc, hơn sáu mươi rái cá biển cùng với hơn trăm người lính hậu cần đi
theo bảo đảm ăn uống hàng ngày, bảo đảm súng đạn chiến đấu và y tế cứu thương
cho người lính chiến đấu. Cất tiếng vừa đủ nghe, trung đoàn trưởng tiết lộ mục
tiêu lần xuất quân đặc biệt hệ trọng này:
- Các đồng chí. Chúng ta đang nhận một thử thách lớn lao
hơn nhiều lần những thử thách chúng ta đã vượt qua trước đây và cũng là trách
nhiệm lớn lao lần đầu tiên chúng ta được tin cậy giao phó. Suốt bao năm qua
chúng ta xuất quân vào trận đánh chỉ nhằm tiêu diệt địch. Mau lẹ tiêu diệt mục
tiêu rồi mau lẹ rút về hậu cứ an toàn. Lần này chúng ta xuất quân với nhiệm vụ
khó khăn, nặng nề và lâu dài hơn, với trọng trách lớn lao hơn. Trọng trách thu
hồi và ở lại giữ gìn lãnh thổ của cha ông để lại ở biển Đông. Tôi nhắc lại. Lần
này chúng ta ra trận thu hồi và ở lại giữ lãnh thổ của cha ông để lại ở Trường
Sa ngoài biển Đông. Những lần ra trận trước, chúng ta bơi vo vài chục cây số
trên biển từ Bắc vào Nam. Lần này chúng ta đi tàu vài trăm cây số ra biển Đông.
Lịch sử mở cõi của cha ông để lại Trường Sa cho tổ quốc Việt Nam. Lịch sử lại
giao cho chúng ta việc thu hồi Trường Sa và giữ Trường Sa. Chúng ta phải thu hồi
và giao lại cho mai sau trọn vẹn gia tài của cha ông để lại. Các đồng chí có nhận
thức được ý nghĩa lịch sử của trận đánh đêm nay chúng ta lên đường không?
Lính im phăng phắc không trả lời trung đoàn trưởng vì như
còn đang bất ngờ về điều người chỉ huy vừa nói, điều không ai nghĩ tới. Chưa ai
từng một lần nghe tên Trường Sa. Chưa ai biết mục tiêu Trường Sa ở đâu, địa
hình thế nào. Sau bất ngờ là nỗi xúc động âm thầm đến với Cách. Bên tai Cách vẫn
rì rầm tiếng trung đoàn trưởng nhắc đi nhắc lại: Lịch sử giao cho chúng ta việc
thu hồi Trường Sa và giữ Trường Sa. Chúng ta phải thu hồi và giao lại cho mai
sau trọn vẹn gia tài của cha ông để lại. Lần đầu tiên nghe tên Trường Sa mà sao
cái tên ấy lại bỗng âm vang, lay động trong lòng Cách đến vậy.
Cách cũng nhận ra dường như sự lay động đó cũng có trên
gương mặt trung đoàn trưởng Mai Năng, người lính trinh sát của bộ đội địa
phương Kiến An thời kháng chiến chống Pháp đã tham gia trận đánh sân bay Cát Bị,
Hải Phòng, đêm 7 tháng ba, năm 1954, phá huỷ 59 máy bay Pháp đang làm cầu hàng
không tiếp tế cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Khi đất nước chia cắt hai miền Nam Bắc với hai chính quyền,
hai nhà nước và xung đột giữa hai nhà nước ngày càng điêu linh dẫn đến nửa triệu
quân Mỹ phải có mặt ở miền Nam cứu nhà nước miền Nam khỏi sụp đổ. Cứu nhà nước
miền Nam, nửa triệu quân Mỹ chia hai hướng chính với hai mục tiêu ở hai đầu Nam
Bắc lành thổ Nam Việt Nam. Hướng Nam. Quân Mỹ tập trung lực lương cơ động
nhanh, hoả lực mạnh áp đảo vào những cuộc hành quân bão táp nhổ tận gốc cơ quan
đầu não của đội quân mang danh giải phóng. Hướng Bắc. Mỹ rải quân chốt chặn dày
đặc ở Cửa Việt, Đông Hà, Cồn Tiên, Dốc Miếu, điểm cao 241, Khe Sanh, đường Chín
. . . Giăng hàng rào điện tử ở Nam sông Bến Hải, quân Mỹ cũng giăng hàng rào hoả
lực dày đặc ở mảnh đất địa đầu của nhà nước miền Nam, ngăn chặn quân miền Bắc.
Khi các sư đoàn bộ binh thiện chiến quân miền Bắc, sư đoàn 320, sư đoàn 325
tung những mũi thọc sâu vây ráp căn cứ Mỹ ở Tà Cơn, Khe Sanh. Pháo tầm xa từ Bắc
sông Bến Hải dập bão lửa xuống căn cứ Mỹ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu thì người lính đặc
công đánh máy bay Pháp ở sân bay Cát Bi ngày nào cũng dẫn trung đoàn 126 đặc
công nước vào mảnh đất dày đặc căn cứ Mỹ, liên tục đánh tàu chiến, kho tàng
quân Mỹ ở quân cảng Cửa Việt, căn cứ hậu cần duy trì nguồn sống cho đội quân Mỹ
đông đúc trên đất Quảng Trị. Nay người lính đó lại dẫn Cách ra Trường Sa.
Trung đoàn trưởng Mai Năng cho biết quần đảo Trường Sa có
nhiều đảo nhỏ. Nhiều nước trong khu vực như Việt Nam Cộng Hoà, Đài Loan,
Phillippines, Malaysia, đều có quân chiếm đóng, đều có chỗ đứng chân trong quần
đảo và đều tuyên bố chủ quyền với cả quần đảo. Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa của Việt Nam là Tây Sa và Nam Sa và cũng gióng giả nhận
Tây Sa, Nam Sa của Trung Quốc. Vì vậy trong tình thế quân đội Việt Nam Cộng Hoà
đang tan rã, ta không nhanh chóng có mặt ở Trường Sa, các nước đang muốn thâu
tóm quần đảo này sẽ chớp thời cơ nhảy vào thay thế đội quân đang sụp đổ, không
còn tinh thần chiến đấu. Những tham vọng lãnh thổ đó sẽ dễ dàng, nhanh chóng
chiếm các đảo của Việt Nam.
Trung đoàn trưởng Mai Năng kể tên sáu đảo ở Trường Sa
quân đội Việt Nam Cộng Hoà đang giữ rồi ông nói về hòn đảo đêm nay ba phân đội
chiến đấu sẽ hướng đến. Đảo Song Tử Tây vắt vẻo, tách biệt ở đỉnh cực Bắc quần
đảo Trường Sa là miếng mồi ngon nhất với những tham vọng lãnh thổ. Song Tử Tây
chênh vênh, lẻ loi trên cực Bắc quần đảo Trường Sa là đảo hớ hênh nhất, mong
manh nhất. Ngoài nỗi đe doạ lớn đến từ phía Bắc, đến từ tham vọng Tây Sa, Nam
Sa, Song Tử Tây lại rất gần đảo Song Tử Đông do quân Phillippines đang chiếm
đóng. Song Tử Tây cách Song Tử Đông chỉ hơn mười hải lí. Lại thêm nỗi đe doạ to
lớn và cận kề từ phía Đông. Ta không đủ lực lượng cùng lúc có mặt ở tất cả các
đảo đang được quân đội Việt Nam Cộng Hoà quản lí thì trước hết ta phải gấp rút
có mặt ở Song Tử Tây rồi sẽ nhanh chóng lần lượt có mặt ở các đảo khác.
Như trút nỗi niềm với những người lính mà ông tin cậy qua
những năm tháng cùng ông vào sống ra chết trong chiến tranh, trung đoàn trưởng
Mai Năng nhỏ giọng như thì thầm:
- Nói thật với các đồng chí. Trước đây tôi cũng đặt lòng
tin tuyệt đối vào lòng tốt của người đã trang bị cho lính ta từ đầu đến chân. Từ
chiếc mũ trên đầu đến đôi dép cao su dưới chân. Từ trong ra ngoài. Từ gói lương
khô chắc dạ đến bộ quần áo ấm thân. Từ khẩu súng tạo ra sức mạnh đến túi thuốc
giữ sức chiếc đấu cho lính để chúng ta làm chiến tranh. Nhưng là cuộc chiến
tranh người Việt với nhau thì chỉ mang lại lợi lộc cho họ mà thôi. Đau xót lắm
các đồng chí ạ. Đúng lúc chúng ta phải dốc hết sức vào cuộc chiến tranh nội bộ
của ta, họ liền ra tay chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta mới đầu năm ngoái thì bụng
dạ của họ đã phơi bày ra rõ rồi. Đến nay ai còn tin họ thì tuỳ còn tôi không thể
tin vào kẻ khuấy nước đục lên để bắt cá mà ông bà ta gọi là đục nước béo cò.
Nói điều này để các đồng chí thấy lần xuất trận này của các đồng chí cấp bách
và hệ trọng như thế nào.
Giao nhiệm vụ, phát lệnh lên đường chiến đấu cho lính mà
trung đoàn trưởng Mai Năng như tâm tình, như nói chuyện lịch sử. Ông nói rằng
tình thế gấp gáp đòi hỏi chúng ta phải hành động khẩn trương, giành thế chủ động,
bất ngờ, giải quyết trận đánh thật gọn. Trước đây chúng ta vào trận chỉ cần
mang theo gói lương khô là đi đến nơi, về đến chốn. Nay đi giành lại Trường Sa
và ở lại giữ Trường Sa ở khoảng cách năm trăm hải lí biển thì gánh nặng hậu cần
còn lớn hơn cả gánh nặng chiến đấu. Vì vậy đội hình chiến đấu càng phảỉ chắt lọc
lại nhỏ nhất, tinh nhất. Sự chắt lọc đã cho chúng ta có đội hình chiến đấu đang
có mặt ở đây. Các đồng chí là kết tinh của cách đánh đặc công nước đã có từ thời
Yết Kiêu nhà Trần. Yết Kiêu thế kỉ mười ba đánh giặc trên sông. Các đồng chí là
Yết Kiêu thế kỉ hai mươi đánh giặc trên biển.
Dừng lời, ánh mắt tìm đến từng gương mặt lính, người lính
tuổi ngoài bốn mươi nói với những người lính tuổi ngoài hai mươi:
- Các đồng chí ạ. Hơn hai mươi năm là người lính chiến,
tôi đã qua nhiều trận đánh lớn nhỏ nhưng không lần nào tôi có nỗi bồn chồn, phải
nói là xúc động như lần này. Xúc động vì nhiệm vụ, vì trách nhiệm lớn lao mà
người lính bình thường như tôi, như các đồng chí được giao phó. Các đồng chí có
thấy như vậy không?
Lính bỗng ồn ào, Cách không nghe rõ lời trung đoàn trưởng
nữa nhưng điều trung tá Mai Năng nói rằng chưa có lần vào trận nào làm ông xúc
động như lần này thì Cách nhớ mãi.
2. ĐÊM TRƯỜNG
SA
Như mọi đêm xuất quân vào trận đánh của đặc công, ba phân
đội đặc công nước trung đoàn 126 trên ba con tàu nhỏ thuộc trung đoàn vận tải
125 rởi cảng Đà Nẵng ra Trường Sa cũng là đêm cuối tuần trăng, đêm đầu tháng ba
âm lịch. Chỉ khác là trước đây xuất quân đều vào nhá nhem tối. Lần này lính bước
chân xuống tàu xuất trận ra Trường Sa vào rạng sáng.
Ba giờ sáng ngày 11 tháng tư năm 1975, lịch ta là ngày 1
tháng ba năm ất mão, lính lặng lẽ tập hợp trên cầu cảng, Trước lúc rạng sáng là
lúc bóng đêm dày đặc nhất. Ba giờ sáng, bóng đêm đậm đặc nhưng không một ánh
đèn le lói. Đèn trên cảng, đèn trên tàu đều tắt hết. Không liên lạc vô tuyến điện.
Tắt máy phát sóng vô tuyến điện trên tàu. Khi nào có lệnh mới được bật máy phát
sóng. Không một tiếng người. Chỉ có tiếng gió và tiếng sóng. Từng phân đội hàng
ngang, mũi chiến đấu hàng dọc từ trên cầu cảng lần lượt lặng lẽ xuống con tàu
nhỏ không có số hiệu.
Con tàu đã từng chở nhiều chuyến vũ khí từ cảng dã chiến
là bãi bần, bãi sú bờ biển Thuỷ Nguyên, Hải Phòng phóng ra biển quốc tế, chạy về
phía Nam rồi trà trộn vào những con tàu đánh cá của ngư dân miền Nam cặp vào những
bến bãi bí mật ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Phước Tuy, Cà Mau. Không số hiệu nhưng
trong biên chế của trung đoàn vận tải 125, đó là những con tàu 673, 674, và
675. Những con tàu đã quen những hành trình bí mật. Lính đặc công nước cũng đã
quá quen với bóng đêm trên sông biển. Ba con tàu âm thầm chở vũ khí từ Bắc vào
Nam giờ lại âm thầm chở lính từ Đà Nẵng ra Trường Sa. Mỗi phân đội hai mươi hai
người xuống một con tàu trước đây chở năm mươi tấn vũ khí. Ngoài con tàu chở
hàng hậu cần, lính hậu cần bảo đảm đời sống cho lính chiến cũng san quân số ra
ba con tàu.
Lưới đánh cá lờ mờ trắng giăng ngang, giăng dọc trên sàn
tàu như cành lá nguỵ trang rung rinh trên đầu, trên vai người lính bộ binh.
Lính lách qua những vầng lưới, chui tọt xuống hầm hàng trước đây xếp vũ khí. Đi
đánh tàu chiến Mỹ ở quân cảng Cửa Việt, lính bơi vo vài chục hải lí giữa mênh
mông biển rộng, trời cao. Nay lính ra trận phải chui xuống hầm tàu kín mit, chật
chội. Thành sắt. Đáy sắt. Trần sắt. Vốn tháo vát, khéo xoay xở, trong chiếc hầm
sắt chật chội, lính soi đèn pin vẫn tìm được chỗ mắc võng tầng tầng, lớp lớp.
Võng Cách mắc trên võng Quang. Hơi người nồng nực. Hơi dầu mỡ ngột ngạt. Hơi
nóng hầm hập. Tiếng máy tàu thình thịch rung cả nhịp tim, gõ vào màng não.
Không gian chật chội chao đảo, ngả nghiêng.
Trong hầm tàu lúc nào cũng tối âm âm, không thể nhận biết
thời gian. Sau ba bữa lương khô trong hầm tàu, lính biết rằng đã qua được một
ngày. Trong người đang cồn cào, cảm giác đang mơ hồ, phiêu diêu, lơ lửng thì được
lệnh từng mũi chiến đấu lần lượt ra khỏi hầm hàng. May quá, tàu đã ra xa bờ và
bóng đêm đã chùm xuống con tàu. Lính ngước nhìn sao trời và hít căng lồng ngực
không khí phóng khoáng, mát lạnh của biển để có lại cảm giác thật, để biết chắc
chắn rằng mình đang có mặt trên con tàu, trên biển cả. Nằm, ngồi trên nắp hầm
hàng đón ngọn gió biển ùa tới thổi tung mái tóc, táp hơi nước mát lạnh vào má,
vào cánh tay thì phần cơ thể tiếp xúc với tấm thép sàn tàu lại nhận ra sức nóng
của thép. Thép tàu bị mặt trời nung cả ngày, đến đêm vẫn còn nóng âm ỉ. Không nằm
được, đành gấp tấm tăng thành nệm dày cách li với sàn thép nóng, ngồi nhìn vào
bóng đêm trên biển.
Bất chợt gió mạnh lên. Đang sung sướng đón những cơn gió
mát ùa đến thì mưa sầm sập trút xuống. Mưa đuổi, lại phải chui xuống lò nung dưới
hầm hàng. Mưa như gõ trống trên sàn tàu ngay sát đầu. Mưa làm cho sức nóng
thoát ra khỏi tấm thép sàn tàu, toả sức nóng vào hầm. Hầm tàu càng ngột ngạt.
Mưa kèm theo gió. Gió dồn sóng biển dựng lên. Chiếc hộp thép lèn chặt người bị
tung lên ngọn sóng rồi ném xuống chân sóng. Mấy năm vùng vẫy, ngụp lặn trên ngọn
sóng, lần đầu tiên Cách bị say sóng. Người Cách như một cái ống rỗng đang bị
lôi lộn ngược từ trong ra ngoài. Ruột gan muốn đẩy cả lên cổ. Trong ruột có gì
muốn nôn hết ra cho nhẹ để ruột gan lại lộn trở vào nằm yên chỗ cũ mà không làm
sao nôn được. Đầu váng vất và nặng trịch như có khối đá trong đầu. Người rã ra.
Có bóng đêm xoá hình bóng, linh được thoát khỏi hầm tàu
thì mưa lại dồn lính xuống hầm. Ngày lại đến. Lại phải giấu mình dưới sàn tàu.
Trong hầm tàu lúc nào cũng tối âm âm nên Cách không còn phân biệt thời gian
sáng trưa chiều tối. Đã hai lần Quang hỏi Cách có ăn gì không, Cách đều lắc đầu.
Trong hầm tàu lại chộn rộn lên khi từng mũi chiến đấu lại được lần lượt thay
nhau lên boong tàu vận động chân tay và hít thở không khí nhẹ nhõm trên biển
thì Cách biết rằng lại qua thêm một ngày, bóng đêm lại trùm xuống biển, lính mới
được ra khỏi hầm hàng, lẫn vào bóng đêm. Thế là tàu đã chạy được ba ngày, hai
đêm rồi. Đêm thứ ba sẽ là đêm tiếp cận đải. Đến giờ Cách mới thấy đói. Nhưng
khi Quang rót nước ở bi đông vào túi gạo sấy và đưa cho Cách, ngửi mùi gạo sấy
nhạt thếch, Cách lại buồn nôn.
Quang đưa Cách lên boong tàu. Không gian thoáng đãng, khí
trời trong lành làm cho Cách tỉnh táo và khoẻ khoắn ra. Quang xin cho Cách một
ca cháo nóng ở nồi cháo của thuỷ thủ tàu. Cháo ngon quá. Cách húp một hơi hết
ca cháo. Nhưng vừa ăn xong, Cách lại nôn thốc nôn tháo ra hết. Suốt từ lúc say
sóng, Cách cứ muốn nôn mà không nôn được nên trong người cứ nôn nao khó chịu.
Có lẽ vì trong bụng không có gì để nôn. Giờ có cháo, nôn được rồi. Tuy tiếc ca
cháo nhưng thấy người dễ chịu hẳn cũng đáng để đánh đổi ca cháo.
Trời đêm đen thẫm, nặng trĩu, không một vì sao. Gió mát lạnh.
Nhưng cơn mưa đầu mùa đã giăng mịt mù trên biển. Trời này sẽ còn mưa nữa. Mưa
đi liền với gió mạnh, sóng lớn và lại phải chui xuống hầm ngột ngạt, lại say
sóng đến mệt lử. Thôi kệ! Hãy cứ biết trời đang tạnh ráo, biển đang dịu dàng,
êm ả. Đang được ở trên boong tàu. Đang được hít thở khí trời tươi rói. Cách đứng
dậy, vươn vai, thở thật sâu và bảo Quang:
- Khoẻ rồi! Khoẻ rồi! Chiến đấu được rồi!
Quang bảo:
- Mày nhịn đói suốt từ hôm qua đến giờ, lấy sức đâu mà
chiến đấu. Nếu không ăn được cơm gạo sấy thì cố ăn gói lương khô.
Cách lắc đầu:
- Tao cũng thấy đói nhưng lương khô và cơm gạo sấy thì
không sao nuốt nổi. Có cố nuốt cũng lại nôn ra thôi. Thấy đói là cơ thể đã quen
dần với sự nhồi lắc trên tàu, đang trở lại bình thường. Để cơ thể làm quen được
với sự vần vò của sóng, trở lại bình thường hẳn đã, ăn vào mới giữ lại được.
Quang đi vào gian buồng thuỷ thủ ở cuối tàu. Lát sau
Quang ra, đưa cho Cách ca mì ăn liền nóng hổi. Ngửi mùi mì nóng đã thấy tỉnh cả
người. Vào đến Đà Nẵng, lính miền Bắc mới biết đến món cao lương mĩ vụ mì ăn liền.
Anh nào cũng thích thú và luôn thèm thuồng mùi thơm phức và dù mùa hé nóng nực
vẫn thích ca mì nóng ăn vào toát mồ hôi. Cách ăn hết ca mì còn thòm thèm nhưng
lại xin nữa sao tiện. Lại còn say sóng nữa. Lại nôn hết ra thôi. Thôi, ăn tạm
thế đã.
Quang mang ca đi trả trở về, trải cuộn bạt trùm nắp hầm
hàng ra. Hai người nằm xuống tấm bạt trên nắp hầm hàng. Cách nghe mồ hôi dấp
dính túa ra khắp người và nhận ra cơ thể đang hồi phục, hoạt động nhịp nhàng trở
lại. Cách muốn gác đùi lên đùi Quang nhưng thấy Quang như đang trầm tư suy nghĩ
nên Cách không dám phá dòng nghĩ ngợi của Quang. Chợt Quang bảo:
- Tao vừa nghe mấy tay thuỷ thủ nói rằng còn một ngày, một
đêm nữa tàu sẽ đếnmục tiêu. Như vậy bọn mình còn phải chui xuống hầm hàng giấu
mình một ngày dài nữa. Tao lo sức khoẻ của mày ngày mai còn gay go đấy.
Cách vắt chân đè lên đùi Quang như hai đứa trẻ chăn trâu
nằm trên bãi cỏ quê nhà, nói:
- Đúng là ở trong hầm tàu người lử ra, như không còn chút
hơi sức nào. Nhưng chui ra khỏi cái lò hơi ngạt ấy là người sẽ tỉnh lại và cầm
đến khẩu súng là người sẽ khoẻ ra. Đáng ngại là cái chân của mày biết đâu lại dở
chứng.
Quang giơ chân phải lên cao, liên tiếp gập và duỗi chân
trên cao để chứng tỏ cái chân nổi nhọt đã lại vận động bình thường:
- Êm rồi. Đúng là do ý chí quyết định. Nếu tao chịu thua
cái nhọt, quyết định theo cái nhọt chứ không theo ý chí của mình thì giờ chắc vẫn
đang nằm trong viện quân y mùng năm tháng tám ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.
Quang hạ chân xuống, Cách liền đặt tay lên chỗ đùi nổi nhọt
của Quang cảm nhận được cái tròn lẳn, săn chắc của một bắp đùi mạnh mẽ. Không
cùng trung đội, tiểu đội, chỉ cùng đại đội, Quang vẫn là thằng bạn thân nhất của
Cách trong đại đội. Bố mất sớm nhưng vẫn còn để lại ấn tượng cho Quang về người
cha đau ốm quặt quẹo. Tất cả gánh nặng gia đình trút lên vai mẹ Quang. Dù bố
còn sống, mẹ đã phải lo toan, cáng đáng mọi việc trong gia đình. Bố mất, mẹ
càng cơ cực hơn. Vất vả lo cơm áo nuôi bốn chị em Quang. Thời nghèo đói khốn
cùng, thiếu từ cái kim, sợi chỉ. Mọi nhu cầu cuộc sống đều phân phối nhỏ giọt từ
trên xuống, đều chia chác theo thế lực. Có thế, có lực thì giành được phần hơn.
Nhà không có người đàn ông phải chịu thua thiệt mọi bề. Hai chị đi lấy chồng.
Quang đi bộ đội. Giờ ở nhà chỉ còn mẹ và đứa em gái.
Có lần Quang đã khoe với Cách là đứa em gái giống mẹ từ
con người đến tính cách. Dáng người cao dỏng, thon thả. Nhanh nhẹn. Tháo vát.
Chịu thương chịu khó. Đặc biệt là đức nhường nhịn. Nó lại hơn mẹ ở chỗ được học
hành chu đáo. Ở miền quê nghèo, con gái được học hết trung học phổ thông là của
hiếm. Quang chia sẻ với Cách về tình cảm Quang dồn cho mẹ và đứa em gái. Mỗi lần
nhận được thư nhà, Quang đều cho Cách xem. Thường là thư của đứa em gái. Cũng
có đôi lần mẹ Quang trực tiếp viết. Chắc mẹ phải cố gắng lắm mới viết được nửa
trang giấy vở học trò bằng thứ chữ do phong trào bình dân học vụ cho mẹ từ thời
mẹ còn trẻ. Người đọc phải vừa đọc vừa đoán mới nhận ra điều mẹ viết. Cách đọc
thư của mẹ Quang cũng xúc động như đọc thư của mẹ mình.
Chiều ngày mười ba tháng tư, căn cứ vào thời gian vật vã
trên tàu, vốn quen ước lượng không gian bằng thời gian, dù trong hầm hàng kín
mít, lính vẫn xôn xao kháo nhau rằng tàu đã đến đảo Song Tử Tây. Cách lẻn chui
ra khỏi hầm hàng, núp ở mũi tàu xác định hướng rồi nhìn về phía Đông. Quả nhiên
thấy một vệt xám nhỏ trên mặt biển.
Bữa tối vẫn là lương khô ăn trong hầm tàu. Ở biển, ngày đến
sớm và bóng đêm đến rất chậm. Bóng đêm đã đậm đặc trong hầm tàu, lính được lệnh
mang trang bị cá nhân lên sàn tàu. Bóng đêm đã trùm xuống biển. Con tàu không
còn rung và không còn nghe tiếng máy tàu là tàu đã tắt máy, thả trôi, chỉ giữ
lái để sóng đẩy con tàu từ từ rút ngắn khoảng cách với đảo. Cuối tuần trăng. Mặt
trăng mỏng manh, mòn vệt vừa chợt hiện ra mơ hồ trên cao đã biến mất. La bàn và
hải đồ giúp con tàu gióng hướng trôi về phía đảo và xác định được vị trí hòn đảo
còn chìm sâu hơn ba cây số trong đêm tối.
Chợt từ trong bóng đêm phía đảo vút lên cao những đường
sáng trắng. Những đường sáng dừng lại và bùng vỡ ra thành những quầng sáng leo
lét, những chiếc đèn trời treo lơ lửng trên cao. Từ nơi vừa vọt lên những quầng
pháo sáng lại rạch ngang mặt biển những đường lửa đỏ lừ. Lẫn trong tiếng sóng
nhận ra cả tiếng đạn nổ lục bục.
Đòi hỏi của cách đánh đặc công là chân phải đến, mắt phải
thấy, tai phải nghe, tay phải sờ được mục tiêu. Trinh sát đặc công phải nhiều lần
luồn vào căn cứ giặc, đếm từng hàng rào, từng chòi lính gác, thuộc từng mô đất,
từng doi cát, sờ tận tay chỗ gài thuốc nổ. Lần này mới chỉ xác định được trên bản
đồ mục tiêu đảo Song Tử Tây còn cách ba kilomet. Còn lực lượng đang giữ đảo như
thế nào, bố trí ra sao thì lính miền Bắc ra giành lại đảo hoàn toàn mù tịt. Điều
hệ trọng nhất cũng chưa biết là lính miền Nam còn có mặt trên đảo không hay đã
rút chạy, bỏ đảo hoang cho nước khác đến chiếm đảo rồi? Lính miền Bắc đụng độ với
lính miền Nam ở Trường Sa thì cũng chỉ là việc nội bộ của người Việt, là cuộc nội
chiến người Việt với người Việt từ trong đất liền đã lan ra tới Trường Sa xa
tít ngoài biển Đông. Nhưng nhân cơ hội quân Việt Nam Cộng Hoà giữ đảo đang tan
rã, quân nước ngoài đã lên chiếm Song Tử Tây thì quân miền Bắc Việt Nam lên
giành lại đảo sẽ phải đụng độ với đội quân nước ngoài, sẽ là chiến tranh giữa
hai quốc gia, sẽ là sự kiện quốc tế lớn, nghiêm trong và phức tạp, là điều tối
kị. Cuộc chiến trong đất liền chưa ngã ngũ, lính đặc công nước đã bí mật, gấp
gáp ra Trường Sa là để tránh điều tối kị đó.
Bây giờ những chùm pháo sáng giật mình ngơ ngác, những loạt
đạn hốt hoảng từ Song Tử Tây vãi ra biển đã cho những người lính đặc công miền
Bắc biết rằng những người lính của đội quân đang tan rã còn đang có mặt trên đảo.
Cả đại quân đang ầm ầm sụp đổ thì số phận nhúm quân nhỏ nhoi, lẻ loi, đơn độc
giữa biển cả cũng đã được định đoạt rồi. Chờ sự định đoạt bi thảm đến trong thấp
thỏm, bất an, chốc chốc lính miền Nam trên đảo lại giật mình bắn những chùm
pháo sáng run rảy để nhìn thấy sự định đoạt số phận đến, lại xối xả vãi những
loạt đạn ra biển để tự trấn an rồi lại nín thở đếm từng phút, chờ đợi sự định mệnh
của lịch sử đến với họ.
Con tàu lại được chỉnh lái lảng ra xa. Hai mươi mốt người
lính dồn lại thành vòng tròn quanh đại đội trưởng Quế trên sàn tàu nghe phương
án chiến đấu. Đại đội trưởng Quế ngồi trên gót chân, quì gối xuống sàn tàu, một
tay cầm đèn pin chiếu xuống tấm bản đồ phóng lớn hình đảo Song Tử Tây, một tay
chỉ trên bản đồ. Ngồi sát bên phân đội trưởng Quế, Cách căng mắt nhìn hình ba
con tàu ở ba phía Đông Bắc, Nam và Tây Nam đảo và dỏng tai lên nghe phân đội
trưởng Quế triển khai đội hình chiến đấu. Quang và Cách trong đội hình phân đội
Một do phân đội trưởng, trung uý Quế chỉ huy rời tàu vào đảo từ phía Đông Bắc.
Quyền trong đội hình phân đội Hai do phân đội trưởng trung uý Cường chỉ huy tiếp
cận đảo từ phía Nam. Phân đội Ba của trung uý Minh được giữ lại làm lực lượng dự
bị trên con tàu là sở chỉ huy của trung tá Mai Năng ở phía Tây Nam đảo.
Trung uý Quế nhắc lính nhớ ám hiệu để nhận ra nhau. Đảo
nhỏ, rộng chỉ hơn trăm mét, dài vài trăm mét. Hướng vào đảo khác nhau, đặt chân
lên đảo là đối mặt, đối súng, nòng súng chĩa vào nhau ngay. Đêm tối không nhận
ra nhau, quân ta rất dễ nã đạn vào quân mình. Lên đảo, phân đội Một sẽ chủ động
bắt liên lạc với phân đội Hai. Lệnh nổ súng là tiếng nổ của khẩu ĐKZ ở hướng
Đông Bắc của phân đội Một. Nhiều tình huống được phân đội trưởng Quế nêu ra. Cả
tình huống bất lợi nhất là sóng dữ, xuồng cao su bị lật hoặc bị hoả lực trên đảo
ngăn chặn, xuống không vào đảo được thì lính đặc công nước lại phát huy kĩ năng
chiến đấu cá nhân trên sóng nước, bơi vo vào đảo, bám đảo chiến đấu. Ta đang ở
thế chủ động và tinh thần áp đảo. Quân giữ đảo đang bị động, suy sụp và hoàn
toàn không còn sĩ khí. Dù tình huống nào, quân miền Bắc cũng nắm quyền chủ động
và chắc thắng.
Dù ngồi sát và chăm chú nghe những điều trung uý Quế nói
nhưng Cách vẫn chưa thoát khỏi trạng thái lơ mơ, bồng bềnh. Cách chỉ nghe rõ được
mỗi câu “Các đồng chí rõ chưa?” khi trung uý Quế chốt lại lời cuối cùng. Không
nghe rõ từng lời nhưng hiểu được đội bố trí hình các hướng và mục tiêu của từng
hướng, Cách muốn bật ra tiếng “rõ” nhưng họng khô khốc, không cất được thành lời.
Cũng chỉ lác đác vài tiếng “rõ” thều thào, âm thanh vừa thoát ra khỏi miệng
lính đã bị gió ào ạt tạt đến thổi bạt đi, chìm vào tiếng sóng. Phần lớn lính vẫn
còn đang lử lả. Người lính bên cạnh Cách còn bò ra mép sàn tàu nôn oẹ. Cách thấy
trí não mình đang tỉnh ra, đang hăm hở và chân tay đang muốn vận động. Có lẽ
người lính nào cũng vậy thôi, đang rũ rượi vì một nỗi buồn, đang mệt mỏi vì sự
cố bất thường trong cơ thể nhưng cầm đến khẩu súng bước vào cuộc chiến là bước
vào sống chết, trước hết phải giành lấy sự sống cho mình thì mọi phiền muộn
riêng tư, mọi uể oải của cơ thể cũng biến mất.
Trong lúc con tàu thả trôi vào sát thềm san hô nông thi
lính làm những việc chuẩn bị cuối cùng trước khi vào trận. Mỗi người được phát
hai gói mì ăn liền. Một thùng nước sôi được thuỷ thủ trên tàu khiêng ra đặt giữa
sàn tàu cùng một túi ni lông đũa tre. Lính múc nước sôi đổ vào ca mì ăn liền, cầm
đũa tre lùa mì vào miệng và sì soạp húp nước mì nóng, hít hà khoan khoái, thoả
mãn. Không khí xôn xao, chộn rộn hẳn lên. Không còn ai ỉu xìu hoặc vật vờ vì
say sóng nữa. Những ca mì ăn liền nóng hổi làm dịu lại nỗi cồn cào, lử lả của
những người lính sau ba ngày, ba đêm trên con tàu nhỏ vật vã trên sóng.
Cách ăn hết ca mì thì Quang lại kiếm đâu được quả chanh
khá to. Quang bóc vỏ chanh và tách ra hai múi chanh đưa Cách:
- Này, vitamine xê đây. Mấy ngày không có rau xanh, trong
người cũng hốc háo như mấy ngày không thấy bóng đàn bà. Múi chanh là rau xanh đấy
còn đàn bà phải đợi đến ngày về lại Đà Nẵng. Ăn tạm múi chanh đi cho đỡ háo.
Quang tách từng múi chanh, chia cho mấy người chung
quanh. Mùi vị đàn bà chưa biết thế nào còn mùi vị múi chanh lúc này quả thật
thú vị, tuyệt vời. Chưa bao giờ Cách được ăn múi chanh ngon đến thế. Giọt nước
mang vị chua dịu, êm ái thấm vào họng đang khô cứng. Họng hết khô, môi mềm lại
và Cách cũng hình dung ra môi đang chuyển từ màu tái nhợt nhạt sang màu hồng
hào vốn có. Cảm giác trống trếnh và hốc háo cũng mất luôn. Đi nhận thêm trang bị,
Cách thấy người chỉ còn hơi hiu hiu. Còn cảm giác đầu nặng, chân nhẹ nên bước
đi chưa chắc chắn nhưng Cách thấy rõ bước đi đang mạnh mẽ, vững vàng dần.
Được nhận thêm lựu đạn, thủ pháo, yếm bơi. Lính bắt đầu
nai nịt. Lại hiện ra hình ảnh quen thuộc người lính đặc công nước âm thầm ra
vào quân cảng Cửa Việt. Đầu trùm mũ bơi. Áo ngắn tay. Quần đùi. Yếm bơi trước
ngực để mang lựu đạn, thủ pháo, dao găm. Ở Cửa Việt, lính đặc công chân trần đạp
trên cát. Ở Đà Nẵng ra Trường Sa, lính được phát đôi bí tất mới dày cùng với sợi
dây buộc bí tất. Không phải chỉ chống lại góc cạnh đá san hô sắc lẻm như đá tai
mèo, bí tất dày còn giúp lính cảm nhận được chỗ đặt chân và bàn chân có độ bám
vào những mỏm san hô gập ghềnh.
Hai tay ôm khư khư bọc ni lông căng phồng như nhện ôm trứng,
Cách đứng bên mạn tàu đợi đến lượt xuống xuồng cao su. Trong bọc ni lông là
súng, đạn, thủ pháo, tăng, võng, lương khô, túi cứu thương cá nhân, dép cao su,
ca, bi đông nhôm đầy nước, bát tráng men, cả đôi đũa tre . . . Lính đặc công ôm
bọc ni lông đứng bên lan can tàu như đàn nhện ôm trứng bám trên lưới nhện. Chợt
tiếng Quang dội lên và chìm nổi trong tiếng gió vù vù cùng khuỷu tay Quang thúc
mạnh vào sườn Cách:
- Tao đi trước đây, Cách!
Chuyển khẩu cối 82 xuống xuồng rồi Quang bám thang sắt tụt
xuống. Chiếc xuồng cao su nhanh chóng mất hút vào bóng đêm.
Cách xuống xuồng thứ ba, xuồng cuối cùng. Không nhìn thấy
mặt biển, chỉ nghe tiếng sóng ầm ào. Sợi cáp ni lông níu chiếc xuồng vào con
tàu. Chiếc xuồng cao su vừa dềnh lên, hụp xuống. theo tàu, vừa bị sóng giằng ra
xa nhưng được sợi cáp ni lông buộc vào tàu níu lại, chiếc xuồng liền bị sóng lật
dựng đứng lên rồi ném lại tàu. Đây là đận gay go nhất của lính biển, là cung đoạn
thử thách lớn nhất trên đường vào đảo.
Ở Trường Sa, đảo nào cũng nổi lên trên thềm san hô rộng
và nông, còn chìm dưới mặt nước biển trên dưới một mét nước. Nước nông, tàu
không thể vượt qua thềm san hô rộng để cập vào đảo, đành neo lại ngoài thềm san
hô nông. Lính phải chuyển trang bị, vũ khí xuống xuồng cao su vượt qua bức tường
sóng sôi sục chỗ mép thềm san hô, vào đảo.
Những triền núi nước nhấp nhô rùng rùng chuyển động mang
sức mạnh của biển đang hăm hở trườn đến đảo bất ngờ húc phải mép thềm san hô
nông, núi nước dựng lên thành bức tường nước sôi sục và trắng xoá. Bức tường nước
đổ ập trở lại phía biển và bị dội ra biển thì triền núi nước sau trườn đến chặn
đứng khối nước của triền núi nước trước đang dội ra biển. Những xung đột của những
núi nước chuyển động ở mép thềm san hô không khi nào dứt, tạo ra những ngọn
sóng trắng xoá cao ngất ngưởng, ầm ầm sôi sục bao quanh đảo. Những bức tường
sóng lừng lững như vách núi dựng lên, ngăn chặn và nuốt chửng những vật thể nhỏ
bé dưới ngọn sóng. Chiếc xuồng cao su mỏng manh vật vờ lao vào bức tường nước,
chui vào hàm sóng nếu không biết chèo chống liền bị nhấn chìm, bị lật úp tức
thì. Xuồng lật. Vũ khí đã văng khỏi xuồng thì đành gửi lại đáy biển. Người
không có kĩ năng chống chọi với sóng dữ sẽ bị sóng ném vào ngầm đá san hô, bị cạnh
sắc đá san hô cứa nát người, thân xác bị sóng đẩy ra biển mênh mông, đưa vào miệng
những loài cá dữ.
Vượt được bức tường sóng bao quanh đảo ở mép thềm san hô
chỉ trông vào hai yếu tố. Một là sóng không dữ quá. Sóng dữ quá thì neo tàu
cũng bị sóng lôi đi, tàu không thả neo được, không thể thả được xuồng xuống biển.
Tàu thả được neo thì vượt qua bức tường sóng chỉ còn là kĩ năng chèo chống chiếc
xuồng cao su của lính đặc công nước. Cách vừa bước xuống xuồng cao su, một ngọn
sóng táp nước lạnh vào mặt làm cho Cách tỉnh táo hẳn. Cách kéo sợi cáp ni lông
cho xuồng áp sát tàu ở dưới thang sắt, đón cả mũi chiến đấu xuống xuồng. Bảy
người đã san đều và ngồi cân bằng trong xuồng. Sức nặng bảy người làm cho xuồng
đằm lại, bớt chao đảo và ổn định di chuyển theo sự chèo chống của bảy người
lính đặc công nước. Sợi cáp ni lông neo xuồng vào tàu được thả ra. Chiếc xuồng
cao su tách ra khỏi con tàu hướng vào đảo. Bức tường sóng trắng xoá và sôi sục
ngay trước mũi xuồng. Chỗ bắt đầu bãi san hô nông đấy. Bảy người lính đặc công
nước chỉ quen ra vào cửa sông Thạch Hãn lần đầu ra Trường Sa đã đưa chiếc xuồng
qua trót lọt bức tường sóng mép thềm san hô trong đêm tối. Qua được bức tường
sóng dựng quanh đảo là đã giành được phần thắng trong cuộc chiến với sức mạnh
biển cà, cuộc đổ bộ vào đảo đã thành công. Chỉ còn cuộc chiến với con người
trên đảo.
No comments:
Post a Comment