Robert A. Manning
- Foreign Policy
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên
dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/04/29/trump-dang-de-mat-chau-a/
Một
chính sách thiếu mạch lạc đang thúc đẩy sự trỗi dậy của Bắc Kinh.
Trong
hơn một thập kỷ qua, động lực an ninh và kinh tế ở Châu Á-Thái Bình Dương đã đi
theo những hướng ngược nhau. Căng thẳng địa chính trị và chủ nghĩa dân tộc mang
tính cạnh tranh đã củng cố vai trò của Mỹ như một người bảo đảm an ninh, trong
khi sự trỗi dậy về kinh tế của Trung Quốc đã khiến các nền kinh tế khu vực tích
hợp chặt chẽ hơn với nhau và với chính Trung Quốc, đồng thời kéo chúng xa khỏi
Mỹ, như Evan Feigenbaum và tôi từng lập luận 13 năm trước.
AUDIO
: Trump
đang để mất Châu Á
https://www.youtube.com/watch?v=sPyQjey8Z3Q
Tuy
nhiên, chính sách của Mỹ đối với khu vực này phần lớn vẫn được duy trì. Nhưng
liệu nó có còn bền vững không – hay sự kết hợp giữa thuế quan của Tổng thống Mỹ
Donald Trump, thái độ coi thường các đồng minh, sự thoái lui khỏi các giá trị
và thể chế của trật tự hậu Thế chiến II, cùng sự phân tách khỏi Trung Quốc sẽ
buộc khu vực này phải đưa ra lựa chọn đáng sợ?
Cho
đến nay, chính sách an ninh của Mỹ dường như vẫn được bảo vệ khỏi cuộc cách mạng
mang tên Trump. Một biên bản ghi nhớ chiến lược quốc phòng bị rò rỉ tiết lộ rằng
khu vực này vẫn là ưu tiên chiến lược của Mỹ. Và chuyến đi tới Châu Á vào tháng
3 của Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã mang lại sự đảm bảo hơn nữa cho các
đồng minh. Chuyến đi của Hegseth bao gồm một bài phát biểu tại Honolulu, cam kết
“làm việc với các đồng minh và đối tác của chúng tôi” để chống lại Trung Quốc,
còn tại Nhật Bản là một nỗ lực thúc đẩy sáng kiến thời Biden nhằm thành lập một
sở chỉ huy quân sự chung tại Tokyo, và tại Philippines là việc tiết lộ các hệ
thống vũ khí mới của Mỹ sẽ được triển khai để ngăn chặn Trung Quốc.
Bài
đang hot
29/04/1854:
Thành lập đại học dành cho người Mỹ gốc Phi đầu tiên
Có
lẽ người ta vẫn có thể duy trì đà tiến lên nhờ vào quán tính từ sự hợp tác tập
trung vào quân sự để đối phó với hành vi cưỡng ép của Trung Quốc – chẳng hạn
như việc Hải Cảnh Trung Quốc ngăn cản ngư dân và Hải quân Philippines hoạt động
trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này, và đe dọa Việt Nam không được phát
triển các mỏ khí đốt ngoài khơi trong vùng biển của họ. Nhưng các xu hướng kinh
tế, cũng như lời nói và hành động của chính quyền Trump đều chỉ ra một chương
trình nghị sự đơn phương “Nước Mỹ trên hết” chứa đầy những mâu thuẫn và mục
tiêu cạnh tranh với nhau, đến mức một chính sách mạch lạc cho châu Á khó có thể
hình thành.
Tại
sao? Trong 70 năm qua, hòa bình Châu Á, giống như hòa bình Châu Âu, đã được củng
cố bởi Mỹ với tư cách là người bảo đảm an ninh và bởi sự thịnh vượng của hệ thống
tài chính do Mỹ lãnh đạo, với các thị trường bao trùm và tương đối cởi mở.
Washington vừa là chất xúc tác phát triển, vừa người tiêu dùng cuối cùng, tạo
điều kiện cho “phép lạ châu Á.”
Nhưng
quan hệ cộng sinh này đã dần suy yếu theo tỷ lệ thuận với sự trỗi dậy nhanh
chóng của Trung Quốc và sự phân phối của cải và quyền lực từ phương Tây sang
phương Đông do toàn cầu hóa tạo ra. Mỹ chiếm một tỷ trọng ngày càng thấp trong
thương mại Châu Á-Thái Bình Dương; họ cũng không tham gia Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hoặc Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện Khu vực (RCEP), vốn là các hiệp định thương mại tự do quan trọng của
khu vực, dù đã dành nhiều năm để cố gắng đàm phán hiệp ước tiền thân của CPTPP,
mà Trump đã rút khỏi vào năm 2017. Trong cấu trúc thương mại mới, Mỹ đang tự cô
lập mình, và Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của hầu hết
các quốc gia trong khu vực. Thương mại nội khối hiện đã đạt gần 60% tổng kim ngạch
thương mại.
Mỹ
đã dần bị gạt ra ngoài lề, và giờ đây, Trump đang phá hủy một hệ thống vốn đã rất
mong manh. Quá trình phân tách Mỹ và Trung Quốc – hai nước chiếm 43% GDP thế giới
– đang làm gián đoạn hoạt động của các doanh nghiệp trên khắp Châu Á. Chỉ trong
vài tuần, các mức thuế quan sâu rộng, được áp đặt và dỡ bỏ tùy theo ý thích của
tổng thống, đã được diễn giải là một tuyên bố chiến tranh kinh tế. Trump đang
phá hoại các hiệp định thương mại tự do với Australia, Hàn Quốc, và Singapore.
Việc giải thể Cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID) và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA)
– các công cụ của quyền lực mềm nhằm thể hiện các giá trị và sự hiện diện của Mỹ
– cũng gửi đi một tín hiệu.
Dù
hành vi cưỡng ép chính trị-quân sự của Trung Quốc đã củng cố hệ thống an ninh
do Mỹ lãnh đạo, nhưng những đòi hỏi nặng nề của Trump đối với các đồng minh
trong lĩnh vực quốc phòng có thể đẩy nhanh xu hướng phòng bị nước đôi. Khi các
nhà đàm phán Nhật Bản đến Washington vào ngày 16/04 để đàm phán thương mại,
Trump đã làm rõ rằng, đối với ông, quốc phòng có liên quan đến thương mại trong
việc tái cân bằng quan hệ. Cụ thể, Tổng thống Mỹ viết trên nền tảng Truth
Social: “Hôm nay, người Nhật đã đến để đàm phán về Thuế quan, chi phí hỗ trợ
quân sự, và ‘CÔNG BẰNG THƯƠNG MẠI.’”
Trump
phàn nàn rằng “Nhật Bản không cần phải bảo vệ chúng ta [Mỹ]” trong khi Mỹ đã
chi hàng trăm tỷ đô la để bảo vệ Nhật Bản, do đó Tokyo cần phải chi 3% GDP cho
quốc phòng. Trong nhiệm kỳ trước, Trump từng cân nhắc việc rút quân đội Mỹ khỏi
Hàn Quốc và muốn Seoul trả nhiều tiền bảo vệ hơn; còn đối với Đài Loan, ông yêu
cầu hòn đảo này tăng gấp bốn lần chi tiêu quốc phòng, lên mức 10%, điều mà Đài
Bắc cho là “không thể.”
Sự
kết hợp giữa những thay đổi thương mại và địa chính trị của Mỹ đang nhanh chóng
làm xói mòn lòng tin và đặt ra những câu hỏi mang tính sống còn trong khu vực về
độ tin cậy của Mỹ với tư cách là một đối tác, chứ chưa nói đến người bảo đảm an
ninh. Dù tình hình đã được xoa dịu bởi cách tiếp cận thực dụng, như những nỗ lực
nhằm cắt giảm thuế quan đã cho thấy, nhưng cú sốc tâm lý vẫn rất lớn.
Nhưng
đừng chỉ nghe tôi nói. Dấu hiệu cảnh báo sớm là bài phát biểu ngày 14/02 của Bộ
trưởng Quốc phòng Singapore, một đối tác thân cận của Mỹ, than thở rằng hình ảnh
của Mỹ đột nhiên “thay đổi từ người giải phóng thành kẻ phá rối, rồi thành một
chủ nhà đi đòi tiền thuê.” Cựu Thủ tướng bảo thủ Malcolm Turnbull thì bày tỏ nỗi
đau khổ của người dân Australia, nói trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 4 với tờ
New York Times: “Chúng ta đang đối phó với một nước Mỹ mà các giá trị của họ
không còn phù hợp với chúng ta nữa.”
Việc
áp thuế nặng nề lên các trung tâm sản xuất khu vực – Việt Nam, Thái Lan,
Indonesia và Malaysia, vốn đã trở thành điểm đến của hàng hóa “Trung Quốc + 1”
kể từ nhiệm kỳ đầu của Trump – có thể gây ra thảm họa. Đầu tư vào xe hơi và đồ
điện tử của Hàn Quốc và Nhật Bản (cả hai đều đang phải đối mặt với mức thuế
quan tối thiểu là 10%, cộng với thuế quan xe hơi, thép, và nhôm) là một phần
quan trọng trong hệ thống vận hành kinh tế châu Á.
Nhà
Trắng đã nêu rõ rằng một mục tiêu của thuế quan là phá hủy các trung tâm sản xuất
khu vực đang sử dụng và vận chuyển các thành phần của Trung Quốc. Như tờ Wall
Street Journal đưa tin, chiến lược thuế quan của chính quyền Mỹ buộc các nước
phải lựa chọn hạn chế thương mại với Trung Quốc để được hưởng mức thuế thấp
hơn. Khi Cố vấn Thương mại Nhà Trắng Peter Navarro tuyên bố việc Việt Nam cắt
giảm thuế quan của Mỹ xuống mức 0 “không có ý nghĩa gì,” ông đã giải thích rằng
“chính gian lận phi thuế quan mới là vấn đề quan trọng.” Việc chấm dứt các chuỗi
giá trị này sẽ xé nát cấu trúc kinh tế của khu vực.
Các
quốc gia châu Á đang xếp hàng để đàm phán các thỏa thuận nhằm giảm thuế quan của
Mỹ – mua thêm khí đốt tự nhiên hóa lỏng của Mỹ, mua thêm thiết bị quân sự, và hỗ
trợ đóng tàu của Mỹ. Nhưng họ khó có thể loại bỏ thâm hụt thương mại với Mỹ: Với
nền kinh tế gần 30 nghìn tỷ đô la, người Mỹ chắc chắn sẽ mua nhiều hơn những gì
họ bán cho các quốc gia nhỏ hơn, có thu nhập thấp và trung bình như Việt Nam và
Campuchia, ngay cả khi thuế quan được cắt giảm.
Vậy
các quốc gia châu Á này, vốn tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, sẽ phản ứng như thế
nào? Trump có thể vô tình đẩy họ về phía Trung Quốc, đất nước đang thực hiện
chiến dịch tấn công quyến rũ. Mỹ có thể đang tự tách mình khỏi thế giới, trong
lúc phần lớn thế giới đang củng cố các mô hình toàn cầu hóa mới, như Thủ tướng
Singapore Lawrence Wong đã cam kết trong một bài phát biểu quan trọng vào ngày
08/04.
Việc
các đồng minh của Mỹ là Hàn Quốc và Nhật Bản gặp gỡ Trung Quốc để hồi sinh nỗ lực
đạt được một thỏa thuận thương mại ba bên và, theo các báo cáo của Trung Quốc,
để thảo luận về việc phối hợp phản ứng với Mỹ là một dấu hiệu của thời đại.
Châu Âu đang khám phá các quan hệ kinh tế mới với Trung Quốc, ví dụ bằng cách cấp
phép cho các nhà máy sản xuất xe điện và pin, như Tây Ban Nha và Hungary đang
làm. Một chỉ báo về các xu hướng tương tự ở châu Á sẽ là khi nỗ lực gia nhập
CPTPP của Trung Quốc được Nhật Bản và Australia chấp nhận, hoặc nếu Liên minh
châu Âu xúc tiến các thỏa thuận thương mại với CPTPP. Các kịch bản như vậy có
thể trở thành nền tảng để duy trì một hệ thống dựa trên luật lệ hậu Mỹ, đồng thời
định hình các quy tắc và tiêu chuẩn công nghệ mới.
Một
rủi ro khác từ việc châu Á mất niềm tin vào Mỹ là phi đô la hóa. Các quốc gia
châu Á có thể xem nước Mỹ dưới thời Trump là nơi trú ẩn kém an toàn hơn cho khoảng
3 nghìn tỷ đô la trái phiếu kho bạc Mỹ được mua từ thặng dư thương mại của họ,
vốn đang tài trợ cho thâm hụt ngân sách 37 nghìn tỷ đô la của Mỹ.
Nhưng
để tận dụng tối đa việc Mỹ tự cô lập kinh tế, Bắc Kinh cũng cần phải sửa đổi
các chính sách của mình. Bắc Kinh không thể đơn giản chuyển 439 tỷ đô la xuất
khẩu của mình sang các nước phương Nam toàn cầu, vốn đã quá lo lắng về tình trạng
dư thừa công suất của Trung Quốc đến mức họ đã đệ trình hàng chục đơn khiếu nại
chống lại nước này lên Tổ chức Thương mại Thế giới. Liệu Trump có thể khiến Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sửa đổi các chính sách thương mại mang tính săn mồi
và tăng cường tiêu dùng trong nước để bù đắp cho việc để mất thị trường Mỹ hay
không?
Diễn
biến tiếp theo sẽ phụ thuộc nhiều vào số phận của quan hệ Mỹ-Trung. Có nhiều
phe phái cạnh tranh nhau đang tìm cách định hình chính sách Trung Quốc vẫn chưa
rõ ràng của Trump, bao gồm những nhân vật diều hâu về Trung Quốc như Cố vấn An
ninh Quốc gia Mike Waltz, người ủng hộ việc làm suy yếu, phân tách, và chuẩn bị
cho chiến tranh với Bắc Kinh; những ông lớn trong giới kinh doanh như Elon Musk
và các công ty tài chính có lợi ích ở thị trường Trung Quốc; và chính Trump,
người luôn muốn có một thỏa thuận.
Nhưng
thỏa thuận Mỹ-Trung nào có thể xảy ra trong môi trường độc hại ở cả hai thủ đô?
Thỏa thuận đáng thất vọng của Trump trong nhiệm kỳ đầu tiên đã phủ bóng đen lên
những nỗ lực hiện tại. Một phép so sánh là Thỏa ước Plaza năm 1985 với Nhật Bản,
cũng nhằm giải quyết những căng thẳng thương mại tương tự. Tokyo đã chấp nhận định
giá lại đồng yên so với đô la, xây dựng các nhà máy sản xuất xe hơi ở Mỹ, và đồng
ý hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Dù Mỹ thường xuyên phàn nàn về đồng nhân dân tệ
yếu, nhưng tiền tệ không phải là vấn đề lớn trong trường hợp Mỹ-Trung. Về lý
thuyết, hai bên có thể đồng ý với một biên độ đàm phán khá rộng, và Trung Quốc
có thể chỉ sẵn sàng hạn chế xuất khẩu một cách tự nguyện – nhưng mục tiêu của
Trump là đưa sản xuất trở lại trong nước.
Trong
chiến dịch tranh cử năm ngoái, Trump đã nói rằng ông thấy ổn với việc Trung Quốc
xây dựng các nhà máy sản xuất xe điện và pin tại Mỹ và thuê công nhân Mỹ, và rằng
các liên doanh cấp phép công nghệ Trung Quốc sẽ thúc đẩy sản xuất tại Mỹ. Nhưng
rất khó để Quốc hội chấp nhận đầu tư của Trung Quốc trong bối cảnh chống Trung
Quốc của lưỡng đảng, xét đến những nỗ lực loại bỏ quy chế tối huệ quốc dành cho
Trung Quốc, hủy niêm yết của các công ty Trung Quốc khỏi sàn giao dịch chứng
khoán Mỹ, cấm Trung Quốc mua đất, và loại bỏ tất cả công nghệ Huawei.
Như
nhà kinh tế học Adam Posen lập luận, trong trò “chọi gà” hiện tại, Trung Quốc
đang nắm giữ ưu thế leo thang: Mỹ cần những thứ không thể thay thế từ Trung Quốc
(cụ thể là đất hiếm) nhiều hơn là Trung Quốc cần hàng hóa của Mỹ. Sự phụ thuộc
lẫn nhau không cân xứng cuối cùng có thể làm dịu thương chiến. Nhưng cả hai bên
đều đang cố gắng phân tách hai nền kinh tế đan xen, có thương mại đạt 582 tỷ đô
la vào năm 2024. Kinh doanh, nền tảng của quan hệ Mỹ-Trung trong bốn thập kỷ
qua, giờ đây đang hướng đến sự chia tách. Cạnh tranh chiến lược trong mọi lĩnh
vực – trên bộ, trên biển, trên không và không gian – không hề giảm bớt. Căng thẳng
xoay quanh Đài Loan cũng bị đẩy lên đến đỉnh điểm.
Đối
với khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cạnh tranh toàn diện Mỹ-Trung chí ít cũng
thúc đẩy việc phòng bị nước đôi cả về kinh tế lẫn an ninh. Điều đó có thể có
nghĩa là phù thịnh Trung Quốc trong thương mại, đồng thời làm sâu sắc thêm hợp
tác an ninh nội Á, hiện được thúc đẩy không chỉ bởi hành vi cưỡng ép của Trung
Quốc mà còn bởi sự không đáng tin cậy, nếu không muốn nói là sự hống hách của Mỹ.
Những
quốc gia châu Á nào sẽ loại các khoản đầu tư của Trung Quốc khỏi chuỗi giá trị
của họ, cấm các mạng kỹ thuật số của Trung Quốc, hoặc tránh xa trí tuệ nhân tạo
và vũ khí của nước này? Ai có thể đặt niềm tin vào một Washington sẵn sàng phá
vỡ các thỏa thuận mà không cần báo trước? Bóng ma tham vọng của Trung Quốc sẽ
kéo dài khả năng tồn tại của mạng lưới đồng minh và đối tác do Mỹ lãnh đạo như
một đối trọng, ngay cả khi niềm tin vào Mỹ bị lung lay và ngày càng bất định.
Ai sẽ can dự – hoặc cho phép Mỹ tiếp cận các cảng và sân bay – trong một tình
huống bất trắc giữa Trung Quốc và Đài Loan?
Liệu
chính sách “Nước Mỹ trên hết” có duy trì được vai trò của Mỹ như một cảnh sát
hàng đầu của khu vực, hay vai trò đó sẽ suy yếu khi Mỹ bị gạt ra bên lề về mặt
kinh tế ở Châu Á? Bất kể số phận của Đài Loan ra sao, thì đối với Đông Á, Mỹ có
thể ở lại hoặc ra đi, nhưng Trung Quốc sẽ ở lại mãi mãi. Hơn bao giờ hết, quyết
tâm của Mỹ trong việc duy trì vị trí hàng đầu ở Châu Á-Thái Bình Dương đang phải
đối mặt với các thách thức địa lý và kinh tế.
-----------------------
Robert
A. Manning là nghiên cứu viên của Trung tâm Dự báo Chiến lược tại Trung tâm
Stimson, nơi ông tập trung vào các chương trình dự báo toàn cầu và Trung Quốc.
Nguồn: Robert A.
Manning, “Trump Is Losing Asia,” Foreign
Policy, 21/04/2025
No comments:
Post a Comment