Tú Anh - RFI
Đăng ngày: 08/02/2020 - 15:16
Từ
Co-vi 2019 đến Hoa Vi thế hệ 5, do đâu mà Trung Quốc là mối hiểm nguy, mạnh lên
cũng đáng lo, mà yếu đi cũng đáng ngại. Còn đối với người Việt Nam, nguy cơ trước
mắt là Đồng Bằng sông Cửu Long với vựa lúa miền Tây sẽ biến mất trong tương lai
gần, do khả năng tái tạo của thiên nhiên đã bị các đập thủy điện và nạn khai
thác cát phá vỡ. Đó là các chủ đề thời sự trên các tuần báo Pháp.
Đất lở mà sông không bồi
Tại Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long chìm dần dưới
nước biển. Qua rồi thời oanh liệt của thiên nhiên, thời « đất lở sông bồi ».
Hơn một chục đập thủy điện trên thượng nguồn và nhất là hiện tượng nạo vét cát
khiến các cửa biển ngày càng sâu. Le Courier International giới thiệu bài phóng
sự dài của Financial Times.
Một đêm tháng 8, dân làng Bình Mỹ, một ngôi làng trù
phú ở đồng bằng sông Cửu Long bị một tiếng nổ lớn đánh thức. Chạy ra đường, họ
thấy một đoạn xa lộ dài 30 thước trước xóm nhà lọt xuống sông. Bình Mỹ (tỉnh An
Giang) không phải là trường hợp đầu tiên và duy nhất. Vì sao nên nỗi? Và đến
khi nào toàn vựa lúa của Việt Nam chịu chung số phận?
Theo Financial Times, một trong những vùng ruộng đồng
ở châu Á đang chìm dần xuống biển. Hiện tượng biến đổi khí hậu làm mực nước
dâng cao là một trong những lý do. Nghiên cứu của Tổ chức Climate Central dự
báo « một phần lớn của vùng đồng bằng sông Mêkông sẽ biến mất từ nay đến
năm 2050 ». Trái lại, nhiều nhà khoa học cho rằng, với tình hình hiện
nay, mực nước chỉ dâng lên độ 3 mm mỗi năm, tức là rất chậm.
Nhưng đối với dân địa phương và chuyên gia theo sát
biến đổi của dòng sông Mêkông từ ba bốn thập kỷ, thì có hai hiện tượng do con
người gây ra, đe dọa nghiêm trọng vựa lúa và thực phẩm của Việt Nam. Một là nạn khai thác cát vô
trách nhiệm, để phục vụ nhu cầu xây dựng các tòa nhà chọc trời ở
thành phố Hồ Chí Minh và gia tăng diện tích lấn biển cho Singapore. Hai là các đập thủy điện của
Trung Quốc và Lào trên thượng nguồn.
Cách nay 20 năm, nhờ vào phù sa, mỗi năm đồng bằng
sông Cửu Long lấn thêm ra biển. Nhưng bây giờ, phù sa bị giảm gần 50% do các đập
thủy điện Trung Quốc, nên bờ biển Cà Mau bị mất hàng chục mét mỗi năm. Nước biển
xâm nhập sâu vào sông ngòi làm thay đổi quân bình giữa ba loại nước mặn, lợ và
ngọt; tác hại đến ngành trồng trọt, ruộng rẫy, chăn nuôi cá tôm của người dân.
Nếu đồng bằng biến mất thì đến phiên người thành phố lãnh hệ quả.
Trước mắt, trong một thế giới mà số phận các vùng
duyên hải ngày càng nguy ngập, những gì đang xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long
là tín hiệu báo trước tương lai ảm đạm. Dân làng Bình Mỹ phải chuẩn bị sẵn sàng
di tản trong trường hợp khẩn cấp.
Đến cát cũng cạn nguồn
Ý thức cần phải bảo vệ dòng trường giang huyết mạch,
chính phủ Thái Lan vừa tuyên bố từ chối kế hoạch đầu tư nạo vét đáy sông của
Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam cũng ý thức cần phải thay đổi chính sách, phải bảo
vệ đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng theo ý kiến một số chuyên gia, tình hình đã
quá trễ, trừ phi ngăn chận được 11 đập thủy điện của Trung Quốc trên thượng nguồn.
Bảo vệ dòng sông bằng cách nào khi tàu khai thác cát
« đông như kiến »? Người dân bắt đầu ý thức mối nguy hại này nên đôi khi phản ứng
thô bạo với dân vét cát. Theo một chuyên gia Việt Nam, cát của Việt Nam chỉ còn
từng ấy thôi. Khi 11 đập thủy điện Trung Quốc cùng hoạt động thì cát cũng hết.
Chính phủ Việt Nam cũng bắt đầu ý thức và thi hành một số biện pháp như xây kè
bê-tông, nhưng cuối cùng phải bỏ dần vì quá tốn kém. Lệnh cấm khai thác cát,
ban hành năm 2017, không hiệu quả vì thiếu quyết tâm, vì bị luồn lách.
Báo chí nhà nước cũng bắt đầu tường thuật những gì
đang xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long, kèm theo hình ảnh những con đường và nhà
cửa rơi xuống sông. Chuyên gia Brian Eyler xem đây là tín hiệu tốt, bởi vì
chính quyền Việt Nam bắt đầu nhìn nhận có sai lầm và tìm cách thay đổi chính
sách 180°.
*
Hồ Bắc: Kẻ thù số một
Trung Quốc ho, thế giới sổ mũi. Trong khi thế giới nỗ
lực tìm phương pháp chủng ngừa siêu vi Corona thì đảng Cộng sản Trung Quốc tập
trung tuyên truyền chính trị vì sợ bất ổn định. Sợ hãi còn làm trỗi dậy tâm lý
kỳ thị dân Hồ Bắc. Tình trạng một phần lãnh thổ bị tê liệt có thể tác hại cho
kinh tế toàn cầu.
Tác giả bài xã luận « Định kiến đã thức giấc
», từ Bắc Kinh, nêu lên một số phản ứng quá đáng và thiếu hiệu quả
trong phương thức chống dịch siêu vi Corona tại Trung Quốc : Vì quá « sợ » cho
nên trong cuộc chiến « không tiếng súng » này, thay vì đoàn kết tỉ người như một,
lại tung ra những thông cáo « tẩy chay người dân Vũ Hán và xe hơi mang
bảng số Hồ Bắc », hay « thưởng tiền cho những ai tố giác những
người đi thăm thân nhân từ Vũ Hán trở về ». Có địa phương còn công bố «
tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại, số xe lửa du hành thậm chí điểm thi vào đại học
» của những người Vũ Hán sau khi bắt họ khai báo qua thủ tục kiểm kê sức
khỏe, để cư dân nơi đương sự trú ngụ hay làm việc biết rõ.
« Chống dịch không có nghĩa là nghi ngờ võ đoán hàng
chục triệu dân của một tỉnh là mầm bệnh. Cho dù có 5 triệu người Vũ Hán đã
thoát rào cách ly đi xa trước Tết, nhưng cũng không vì thế mà chúng ta có định
kiến đối với họ ».
Trong lúc Trung Quốc còn loay hoay với cách ly và
phong tỏa, thì báo chí quốc tế tập trung vào các hệ quả kinh tế. New York
Times, trong bài « Trung Quốc ho, Thế giới sổ mũi », ngược
dòng thời gian, trở lại toàn cảnh vụ khủng hoảng dịch SARS trong hai năm
2002-2003 cũng phát xuất từ Hoa lục. Sau nhiều tháng lao đao, kinh tế của Trung
Quốc, chuyên sản xuất hàng giá rẻ, phất lên trở lại.
New York Times cho rằng hiện nay chưa có thể dự đoán
dịch Corona chủng mới kéo dài đến bao giờ, lan rộng đến đâu và giết chết bao
nhiêu nạn nhân, tác hại đến mức độ nào cho kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, do vị
trí quan trọng của kinh tế Trung Quốc trong kinh tế thế giới, tác động xấu sẽ
nghiêm trọng hơn nhiều, bởi vì các nhà máy Trung Quốc ngày nay chế tạo linh kiện
tối tân.
Lãnh vực bán dẫn của Mỹ chẳng hạn, gần như lệ thuộc
vào Trung Quốc. Hệ quả của siêu vi Corona trên các chuổi dây chuyền sản xuất rất
khó dự kiến. Một món phụ tùng trong máy truyền hình kết nối có thể chứa hàng chục
linh kiện nhỏ, mỗi thứ lại được ráp từ nhiều linh kiện nhỏ hơn… Chỉ cần một nhà
máy ở Trung Quốc tê liệt vì virus thì nhiều nhà máy khác cũng ngưng hoạt động
vì thiếu linh kiện.
*
Trúng nhiều đòn của Trung Quốc, Châu Âu hết ngây thơ
Cũng liên quan đến cuộc cạnh tranh thương mại nói
chung và trận chiến kỹ thuật số nói riêng, hai câu hỏi được báo chí Tây phương
đặt ra và tiếp tục đặt ra là « có quá trễ để tẩy chay Hoa Vi hay không,
và liệu doanh nghiệp Châu Âu có còn ngây thơ nữa hay không ? »
Theo L’Express, tháng Ba tới đây, tổng thống Pháp
Emmanuel Macron sẽ công bố một « hiệp ước sản xuất », như một loại cẩm nang để
kích thích nền kỹ nghệ Châu Âu, phối hợp với Đức, trong các lãnh vực chiến lược
chống lại cạnh tranh của Trung Quốc. Nhà máy chế tạo bình điện Airbus đang được
xây dựng là một trường hợp cụ thể.
Như bức họa ở trang bìa, con gà trống nước Pháp đối
đầu với con rồng đỏ Trung Quốc và con chim ưng xanh dương của Mỹ, tuần báo tự
cho là độc lập, khẳng định với bài phân tích dài : Châu Âu cuối cùng đã
hết dại khờ. Liên Hiệp Châu Âu đã có một thời tin cậy mù quáng vào các
đối tác nên nền công nghệ châu Âu phải trả giá đắt.
Từ đầu năm nay, Ủy Ban Châu Âu có thêm một ủy viên mới
với nhiệm vụ mới, « Công tố thương mại Châu Âu », để theo dõi xem các đối tác của
Châu Âu có tôn trọng cam kết về tự do thương mại hay không. Nói cách khác, như
Hoa Vi muốn tham gia vào hệ thống 5G tại Châu Âu thì cũng như một người lái xe,
đã đi trên đường xá Châu Âu, thì phải ôm lề phải, không có lôi thôi. Bài học
đau đớn nhất cho Đức là đã bị một đối tác Trung Quốc, lợi dụng sơ hở của luật đầu
tư để thâu tóm một công ty vô địch về rô-bô.
Chưa hết, các doanh nghiệp Châu Âu còn bị Trung Quốc
ép buộc chuyển giao công nghệ để rồi bị đối tác cạnh tranh trở lại một cách khốc
liệt mà không có biện pháp pháp lý chống đỡ. Với sự thúc đẩy của Paris, Berlin
đồng ý thành lập « lá chắn sàng lọc chống dumping ».
Ngoài phương án tự vệ mới, Châu Âu còn tăng cường vũ
khí tấn công với tên gọi « Dự án quan trọng vì quyền lợi chung Châu Âu » : tạo
điều kiện phát huy các ngành công nghệ chiến lược, kể cả tài trợ, mà không vi
phạm nguyên tắc chống cạnh tranh bất chính của Liên Hiệp Châu Âu và của Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới.
*
Phụ nữ không muốn sinh con
Vào lúc dịch siêu vi Corona đe dọa y tế và kinh tế
thế giới thì một nguy cơ khác đe dọa tồn vong của nhân loại : đó là nạn sinh suất
giảm, nói thẳng ra là phụ nữ ở mọi châu lục không muốn sinh con. Đâu là căn
nguyên, đâu là giải pháp. Le Courrier International giới thiệu bài phân tích của
một nữ phóng viên Mỹ.
Các em bé đâu rồi ? Báo động thiếu trẻ con ! « Bébé
» (em bé), cuộc khủng hoảng thế giới ! Đó là một số tựa báo mang tính báo động
trong nhiều tuần qua từ Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Ý, những nước chịu ảnh hưởng mạnh
của Thiên Chúa Giáo. Nguyên nhân có thể xem là mặt trái của chiếc huy chương.
Hiện tượng sinh suất giảm là hệ quả tất yếu của nền
kinh tế phát triển là điều tự nhiên : Phụ nữ có học vấn cao, đi làm việc, tiến
thân trong xã hội nên …sinh đẻ ít. Nhưng thực tế không lý tưởng như vậy. Theo
nhà báo Anna Louie Sussman, trong một bài phân tích tỉ mỉ trên New York Times,
khắp nơi trên thế giới, điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường đã làm nãn lòng
phụ nữ như một loại thuốc ngừa thai âm ỉ.
Cuộc thăm dò của OCDE, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển
Kinh Tế năm 2016 cho thấy nguyện vọng của phụ nữ các nước phát triển là có hơn
hai đứa con. Nhưng thực tế không đúng như vậy. Tất cả mọi châu lục đều giảm
sinh suất : Từ 1985 đến 2016, Châu Phi từ 6,5 xuống 4,4. Châu Á từ 3,69 còn
2,15. Châu Âu từ 1,88 xuống 1,61, Bắc Mỹ từ 1,79 xuống 1,75…
Tình trạng này dẫn đến hệ quả là dân số giảm. Chưa một
chính sách nào hiệu quả để làm đảo ngược xu hướng này từ Trung Quốc, Đan Mạch,
cho đến Nga hay Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment