Y
Chan - Luật Khoa
22/02/2020
Khi nhận được hồ sơ của
John, Caroline – một nhân viên công tác xã hội ở tiểu bang Missouri (Mỹ) – đã
dành thời gian đọc kỹ. Cô biết các vấn đề cậu gặp phải: bị bỏ rơi từ nhỏ, có
khuynh hướng xa lánh người khác, chống đối giao tiếp với người xung quanh, và sức
khỏe cũng không ổn.
Nhưng lần
đầu tiên gặp cậu bé 11 tuổi, Caroline vẫn bị sốc. John (không phải tên
thật) không phản ứng với bất kỳ ai, ngồi thu lu cuộn một góc. “Xin chào, chị là
Caroline, chị rất vui được gặp em”. John không trả lời, cũng không ngước mắt
lên nhìn, thu mình vào một chỗ trong căn phòng của nhà trẻ mồ côi.
“Bất kỳ lúc nào có chuyện
gì cần, em gọi chị nhé. Chị sẽ đến thăm em thường xuyên.” Caroline để lại lời
nhắn và ra về.
Là một nhân viên công tác
xã hội, Caroline Bailey được giao phụ trách khoảng 30 hồ sơ những đứa trẻ như
John. Phải rất vất vả cô mới có thể sắp xếp được thời gian để theo dõi hết các
hồ sơ này. Nhưng sau lần đầu gặp John, Caroline thấy tim mình như bị bóp chặt.
Cô biết mình sẽ phải dành nhiều tâm trí công sức hơn để giúp cậu bé.
Sáu tháng tiếp theo đó, cứ
một hai tuần Caroline lại đến thăm và dẫn John đi ra ngoài chơi. Cô cùng John
đi tô tượng, trượt băng, dạo trong công viên, đi ngắm các khu trung tâm mua sắm.
Nhận thấy John rất có khiếu nghệ thuật, Caroline tìm những hoạt động có thể
khuyến khích cậu bé sáng tạo.
Trong nửa năm ấy, dù có vẻ
thích thú được đi chơi, John vẫn không mấy khi mở miệng nói chuyện. Cậu thường
ngồi yên trên xe của Caroline, nhìn bâng quơ ra bên ngoài.
Tháng thứ bảy kể từ lần gặp
đầu tiên, Caroline chở John về sau một buổi đi dạo. Cô chào cậu bé “Gặp em sau
nhé. Chúc em ngủ ngon!”. John, như thường lệ, ngậm tăm không nói gì, mở cửa và
chạy về phía nhà.
Khi cô nhìn cậu bé bước đến
cửa, chuẩn bị đi về, thì bỗng nhiên John quay phắt lại, vẫy tay về hướng cô.
“Caroline! Caroline! Cám
ơn chị hôm nay đã dẫn em đi chơi!”
Đó là khoảnh khắc
Caroline trông đợi suốt bảy tháng qua: lần đầu tiên nghe John gọi tên mình.
Hỏi bất kỳ một nhân viên
công tác xã hội nào, cho dù là mới vào nghề, chắc chắn bạn sẽ được nghe ít nhiều
những trải nghiệm tương tự.
Nếu không phải là một đứa
trẻ mồ côi cần được quan tâm thì sẽ là một người lớn tuổi cô đơn cần chăm sóc,
không phải là một người phụ nữ gặp bạo hành cần bảo vệ thì sẽ là một cặp đôi có
vấn đề về hôn nhân cần tư vấn, không phải là một gia đình thất nghiệp cần hỗ trợ
thì sẽ là những bệnh nhân nghèo khó không ai nương tựa, không phải là các cựu
binh chiến tranh cần điều trị tâm lý lẫn bệnh lý thì sẽ là những cộng đồng thiểu
số bị hắt hủi áp bức phải bỏ xứ ra đi…
Những người làm công tác
xã hội xuất hiện ở những nơi, vào những lúc và với những người cần sự giúp đỡ
nhất.
Đó là định nghĩa giản dị
nhất của công việc này: nghề giúp đỡ những người không thể tự giúp mình (help
the helpless).
***
Người ta thường nhầm lẫn
giữa “công tác xã hội” và “làm từ thiện”.
Sự nhập nhằng này là dễ
hiểu, vì khởi
nguyên của công tác xã hội chính là các hoạt động từ thiện.
Chỉ đến giữa thế kỷ 18, từ
sau Cách mạng Công nghiệp, các hoạt động từ thiện (charity) mới dần chuyển biến
thành công tác xã hội (social work).
Cuộc cách mạng này tạo ra
số lượng hàng hóa của cải nhiều nhất trong lịch sử, nhưng chế độ phân chia bất
bình đẳng, tình trạng thất nghiệp của nông dân mất đất, cộng với các hậu quả
môi trường cũng khiến vấn đề đói nghèo trở nên trầm trọng.
Người ta dần nhận ra đây
là một vấn đề xã hội (social issue), không thể chỉ giải quyết bằng cách làm từ
thiện đơn giản xưa nay là “cho con cá”, mà phải làm sao “trao được cần câu” cho
người cần giúp đỡ.
Để làm được điều đó, hoạt
động từ thiện phải trở nên chuyên nghiệp, từ ngẫu hứng phải biến thành bài bản,
từ manh mún phải làm thành có tổ chức, từ một hoạt động tự nguyện đơn thuần phải
trở thành một công việc chuyên nghiệp với yêu cầu cụ thể về trách nhiệm, năng lực,
và kết quả.
Nó còn phải tác động đến
cả chính sách của nhà nước, đảm bảo giải quyết căn cơ các vấn đề xã hội.
Nghề công tác xã hội
(social worker) ra đời từ đó.
Từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt
là đầu thế kỷ 20, các tổ chức công tác xã hội ở Mỹ và phương Tây phát triển mạnh
và hoàn thiện dần từ cơ cấu tổ chức, vận hành đến các cơ sở, nội dung huấn luyện
đào tạo đáp ứng với yêu cầu của nghề.
Trải qua nhiều biến động
như Đại khủng hoảng thập niên 1930, hai cuộc Thế chiến I và II, toàn cầu hóa…
các vấn đề xã hội cần giải quyết cũng nhiều hơn: đói nghèo, thất nghiệp, nạn
nhân chiến tranh, dân nhập cư chạy nạn, trẻ em bị bỏ rơi, bất bình đẳng giới,
phân biệt chủng tộc, kỳ thị giới tính, môi trường bị tàn phá…
Công tác xã hội vì vậy từ
một lý tưởng (cause) giờ đây trở thành một bộ phận (function) không thể thiếu
trong guồng máy hoạt động của xã hội.
Ở Việt Nam, nghề công tác
xã hội vẫn còn là một khái niệm tương đối xa lạ, chỉ mới được phổ biến trong
hơn mười năm trở lại đây. Luật về Công tác xã hội cũng chỉ mới là dự thảo, chưa
được ban hành chính thức. Nhưng các hoạt
động đào tạo ngành nghề này thì đã diễn ra sôi nổi.
Khi các vấn đề xã hội xuất
hiện ngày một nhiều, người ta sẽ càng cần đến những người làm công tác xã hội
hơn.
***
Giống như những ngành nghề
khác, người làm công tác xã hội cũng phải đạt các yêu cầu riêng về kỹ năng và
kiến thức.
Nhưng khác với nhiều nghề,
công tác xã hội đòi hỏi những giá trị riêng biệt.
Một trong những giá trị cốt lõi là
ý thức về “công bằng xã hội” (social justice). Người làm công tác xã hội không
thể nhắm mắt khi thấy bất công, cho dù đối tượng chịu bất công đó là ai.
Họ mang trong mình thứ mà
các nhà thần kinh học gọi là “tế
bào phản chiếu” (mirror neuron): các tế bào có phản ứng y hệt, “cháy lên”
khi bạn quan sát người khác thực hiện một hành vi, hệt như bạn là người đang thực
hiện nó.
Nhờ tế bào phản chiếu,
người ta có thể trải nghiệm được cảm giác của đối tượng mà không cần chính mình
thực hiện hay trải qua.
Hay như trong tiếng Việt,
chúng ta vẫn thường gọi nó là “lòng trắc ẩn”.
“Trắc” (惻) và “ẩn” (隱) là hai từ Hán – Việt, trong trường hợp này đều có nghĩa là “đau”.
Lòng trắc ẩn vì vậy là khả năng đau cái đau của người khác.
Hầu hết chúng ta đều có
lòng trắc ẩn, hay các tế bào phản chiếu ở trong mình.
Với những nhà hoạt động,
nhất là những người làm công tác xã hội, các tế bào phản chiếu này cháy gần như
liên tục.
Áp lực đối với họ cũng
liên tục được dồn nén.
Caroline Bailey, nhân
viên công tác xã hội trong câu chuyện lúc đầu, sau một thời gian đã quyết định
chuyển sang công tác tư vấn điều phối, thay vì trực tiếp phụ trách chăm sóc các
đứa trẻ mồ côi.
Trước đó, cô đã tìm được
cho John một gia đình nhận nuôi cậu. Dù rất quan tâm gắn bó những đứa trẻ như
John, nhưng Caroline thấy mình gần như kiệt sức. Cô mất ngủ thường xuyên, lúc
nhắm mắt thì mơ về những đứa bé mình cần chăm sóc, còn khi tỉnh lại không ngừng
lo lắng cho tương lai của chúng. Cô cần điều chỉnh để lấy lại thăng bằng.
Caroline đến gặp từng đứa
trẻ để tạm biệt. John là người sau cùng. Khi nghe cô thông báo, rằng sẽ có nhân
viên công tác xã hội mới đến chăm sóc cậu, cậu bé không nói gì từ đầu đến cuối.
Im lặng như ngày đầu tiên gặp.
Caroline thì không thể ở
lâu trong đó. Cô từ biệt cậu và đi như chạy. Khi đã một mình ở trong ô tô, cô mới
òa khóc.
Một năm sau, Caroline nhận
thông tin về phiên tòa xác nhận thủ tục chính thức nhận nuôi John từ gia đình mới.
Cô đến dự phiên tòa. Nhìn thấy cô bước vào, John nhoẻn miệng cười.
Câu đầu tiên John nói với
cô: “Khi chị đi, em đã khóc.”
***
Những người làm nghề công tác xã hội có lẽ không bao giờ đút tay vào
túi quần. Cánh tay của họ luôn chìa ra để những người tuyệt vọng có thể nắm lấy.
Nhưng khi chính mình cần
giúp đỡ, nhiều lúc họ lại không tìm thấy bao nhiêu cánh tay giơ ra.
Một phần vì đa số họ đều
không nổi đình nổi đám, không có hàng ngàn fan hâm mộ như các thần tượng siêu
sao. Phần khác vì họ không mấy khi nói về những vấn đề của riêng mình.
Vào tháng 9/2019, Luật
Khoa đã đăng một phóng
sự dài về số phận những người Thượng ở Tây Nguyên, bị chính quyền cộng
sản áp bức phải bỏ trốn khỏi quê hương mình. Hàng trăm người Thượng trong nhiều
năm qua phải tị nạn tạm bợ ở Thái Lan.
Trong cuộc sống tha hương
vất vưởng đó, sự giúp đỡ duy nhất họ có được đến từ các cá nhân và tổ chức công
tác xã hội. Trong số các nhân viên công tác xã hội gắn bó lâu dài với họ nhất,
có cô Grace Bui, một nhân viên trợ giúp pháp lý Mỹ đã nghỉ hưu.
Trong hơn 5 năm qua, cô
Grace đã trở nên thân thiết đối với cộng đồng tị nạn ở đây. Cô giúp người Thượng
nhận gạo, nhu yếu phẩm do người Việt hải ngoại ủng hộ, vận động các tổ chức phi
chính phủ, Văn phòng Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) trong những
trường hợp cần thiết, như có người bị cảnh sát bắt giữ.
Trước khi đến Thái Lan,
Grace đã là nhà
hoạt động xã hội. Sau khi tốt nghiệp đại học, cô làm nhân viên xã hội và là
đại diện pháp lý trong nhiều vụ việc tại các tòa án dành cho trẻ vị thành niên ở
Mỹ trong nhiều năm.
Không có nhiều người biết
rằng Grace chủ yếu dùng tiền tiết kiệm của riêng mình để trang trải các chi phí
hoạt động xã hội ở Thái Lan. Chỉ đến tháng 7/2019, với vai trò vận động quốc tế
cho dự án The 88 Project,
một dự án nâng cao nhận thức của thế giới về vấn đề tù nhân lương tâm tại Việt
Nam, cô mới bắt đầu có lương.
Lại càng ít người biết rằng
Grace có sẵn bệnh ung thư trong người, lần đầu vào năm 2009, và gần đây đã tái
phát với khối u ở phổi.
Chi phí nằm viện đã ngốn
hết mọi khoản tiết kiệm của cô, và theo các bác sĩ cô vẫn cần ít nhất một vòng
điều trị nữa mới có hy vọng chiến thắng bệnh tật.
Các đồng nghiệp của cô hiện
đang đăng lời kêu gọi gây quỹ từ cộng đồng tại GoFundMe để
hỗ trợ Grace Bui có đủ chi phí chữa trị.
Grace Bui là một nhân
viên công tác xã hội gần như hoàn toàn vô danh. Ngay cả khi lời kêu gọi giúp đỡ
từ các đồng nghiệp của cô được đưa ra, cũng không có bao nhiêu người biết được
câu chuyện của cô.
Đó có lẽ là cái nghiệp
chung của đa số những người làm nghề chuyên vác tù và hàng tổng này.
Khi người khác ngã xuống,
họ là những người đầu tiên chìa cánh tay ra để giúp đỡ.
Khi họ ngã xuống, ai sẽ
giúp đỡ họ, nếu không phải là chúng ta?
No comments:
Post a Comment