Mùa thu năm 1988, chúng tôi đang học tại học viện
Goocky, khóa tại chức 4 tháng tại Matxcơva thì hay tin ông Nguyễn Đình Thi, tổng
thư ký hội nhà văn Việt Nam từ năm 1958 đến thăm và nói chuyện.
Nguyễn Đình Thi. Ảnh:
internet
Anh chị em rất hồi hộp chờ đợi thần tượng văn học
này từ lâu, nay được mãn nhãn. Tin một nhà văn, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu
triết học, một nhà viết kịch xuất sắc, một nhạc sĩ thiên tài chỉ với hai bản nhạc
là ông Nguyễn Đình Thi đến nói chuyện được sứ quán thông báo cho mấy chục anh
chị em đang làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ văn học tại Liên Xô cùng đến khoa viết
văn trường Goocky tham dự.
Phải nói ông Nguyễn Đình Thi với vẻ đẹp trai hiếm
có, với tài hùng biện sắc sảo, với giọng nói ấm áp, dịu dàng, mê hoặc chúng tôi
ngay từ phút đầu.
Nhưng không hiểu sao hôm nay ông lại giở giọng tuyên
huấn khuyên bảo chúng tôi rằng, các bạn trẻ thân mến, các bạn sang đây học
nhưng phải biết chắc lọc, chọn lọc, đừng nghe những giáo sư giảng thiên về đổi
mới triệt để kiểu Gocbachốp mà làm phương hại đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mà đảng ta đang dựng xây.
Nghe chối tai, Trần Mạnh Hảo tôi bèn xin phát biểu ý
kiến rằng: Thưa nhà văn hóa lớn, các cụ cho chúng tôi sang học tập Liên Xô, sao
lại còn sang tận nơi dặn chúng tôi không được nghe lời họ, vậy thì học làm gì ạ…
Ông Nguyễn Đình Thi nổi cáu, đe dọa tôi rằng, anh Hảo
và các anh đây đều là đảng viên của đảng, không được nói vô tổ chức như vậy!
Trần Mạnh Hảo bèn nổi máu điên, chỉ vào ông Nguyễn
Đình Thi nói toẹt ra sự thật:
– Xin anh Thi bình tĩnh, tôi xin nói thẳng, anh Thi
và chúng tôi ngồi đây, xét cho cùng đều là bồi bút của đảng. Thân phận chúng ta
lầm than lắm, nhục nhã lắm. Anh viết bao tác phẩm nịnh đảng, có bao giờ anh dám
mang gương mặt thật của anh ra viết đâu. Anh là kịch sĩ vĩ đại của đảng, đã
đóng bao nhiêu vai kịch kẻ khác trừ bản thân mình. Anh không có gương mặt thật
trong văn chương, anh là một tên hề cho kẻ cầm quyền mà thôi!
Lập tức một chiến sĩ trung thành vô hạn với đảng ngồi
sát bên cạnh tôi đứng lên bẻ tay và bẻ cổ tôi là ông Chu Lai, không cho tôi nói…
Cả khối quần chúng trung kiên là các nhà văn thơ, là
các tiến sĩ văn học tương lai đến nghe ké cùng ồ lên chửi tôi nói bậy.
Ông Nguyễn Đình Thi như bị dội nước sôi, ngồi xuống
một lúc im lặng và không nói gì được nữa.
Chuyện này có các nhà văn chứng kiến đang còn sống:
Chu Lai, Thạch Qùy, Vũ Quần Phương, Lê Chí, Trung Trung Đỉnh, Tô Hoàng, Kim
Cúc, Khuất Quang Thụy, Trần Đăng Khoa, Khánh Chi… chứng kiến.
Sau đó, nhiếp ảnh gia Dương Minh Long kêu tắc xi chở
ông Nguyễn Đình Thi về khách sạn tại Matxcơva. Anh Long sau đó nói với chúng
tôi, ngồi trên xe, ông Nguyễn Đình Thi đã khóc.
Lâu lâu, nhớ lại chuyện này, tôi có hơi ân hận vì
mình trong lúc nóng giận, đã nói toạc móng heo cái sự thật hiển nhiên của thân
phận “phục vụ chính trị” của người cầm bút trong xã hội cộng sản. Điều mà một
trí thức lớn, một nhà nghệ thuật lớn như ông Nguyễn Đình Thi đã xóa con người
cá nhân của mình, xóa sĩ diện, xóa nhân phẩm mình đi làm bồi cho bữa tiệc cách
mạng vô sản vốn không coi ai là người mà chỉ là công cụ, là tôi đòi của họ, là
“người ăn kẻ ở trong nhà” như Nguyễn Khải đã nói.
Có lẽ cú “búa tạ” của tôi hôm ấy đã là nỗi đau, nỗi
nhục của ông Nguyễn Đình Thi âm ỉ suốt, mới thành những câu sám hối tận cùng
như sau trong một số bài thơ ông đã viết đã in:
“Rồi hôm nào bỗng gió bay
Cái bóng ngoài kia đến đợi
Anh giật mình đứng dậy
Đến giờ rồi hôm nay
Trên tay cốc nhỏ không đầy
Uống chúc bạn bè ở lại
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Mong anh em hiểu đừng cười
Tôi gửi lại đây chìa khóa…”. ( Sóng reo – 2001)
Cái bóng ngoài kia đến đợi
Anh giật mình đứng dậy
Đến giờ rồi hôm nay
Trên tay cốc nhỏ không đầy
Uống chúc bạn bè ở lại
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Mong anh em hiểu đừng cười
Tôi gửi lại đây chìa khóa…”. ( Sóng reo – 2001)
Anh có như con sâu trong quả
Mang ra chợ bỏ đời mình
Cuộc đời nhiều trò chơi mà ít niềm vui
Tháng ngày không đợi
Anh hãy đi, núi lớn sông dài nghìn vẻ lạ
Dù nhúng vào bóng đêm hồn anh không nhuộm đen…
Mang ra chợ bỏ đời mình
Cuộc đời nhiều trò chơi mà ít niềm vui
Tháng ngày không đợi
Anh hãy đi, núi lớn sông dài nghìn vẻ lạ
Dù nhúng vào bóng đêm hồn anh không nhuộm đen…
Đã có mùa xuân đời tôi không nhỉ
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa. (Mùa thu vàng)
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa. (Mùa thu vàng)
“Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn. (Gió bay)
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn. (Gió bay)
“Rồi hôm nào bỗng gió bay
Cái bóng ngoài kia đến đợi
Anh giật mình đứng dậy
Đến giờ rồi hôm nay
Cái bóng ngoài kia đến đợi
Anh giật mình đứng dậy
Đến giờ rồi hôm nay
Trên tay cốc nhỏ không đầy
Uống chúc bạn bè ở lại
Anh chắt đời anh chắt mãi
Chút ngọt bùi chút đắng cay
Uống chúc bạn bè ở lại
Anh chắt đời anh chắt mãi
Chút ngọt bùi chút đắng cay
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn
Mong anh em hiểu đừng cười
Tôi gửi lại đây thìa khóa
Tất cả cửa nhà tôi đó
Ngổn ngang qua tạm cuộc đời
Tôi gửi lại đây thìa khóa
Tất cả cửa nhà tôi đó
Ngổn ngang qua tạm cuộc đời
Tiếng đập cửa thình thình gọi
Anh cười vẫy
Xin chia tay
Lời ai văng vẳng
Hôm nào gió bay.
Anh cười vẫy
Xin chia tay
Lời ai văng vẳng
Hôm nào gió bay.
Đây là một trong 3 bài thơ cuối cùng của Nguyễn Đình
Thi (Mùa thu vàng, Gió bay và Núi xưa). Nguồn: Trong cát bụi (thơ), Nguyễn Đình
Thi, NXB Văn học, 1992.
“Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn”
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn”
Cảm phục sự sám hối hết mình của Nguyễn Đình Thi khi
ông tự nhận “Người tôi còn nhiều bùn tanh”, nhận mình là vai hề của đảng “mặt
tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ”, rằng đời ông toàn “dối lừa khóac lác”, mua “dây nhợ tự
buộc mình”…
Kính phục ông Nguyễn Đình Thư đã dám phủ nhận bản
thân mình, phủ nhận con đường và công lao của ông với đảng cộng sản đến thế là
cùng.
Ngạn ngữ phương Tây: “Quyền lực làm tha hóa con người”
thật chí lý trong trường hợp của Nguyễn Đình Thi; hay nói chính xác, chủ nghĩa
cộng sản đã tha hóa ông đến tận cùng.
Thời Pháp thuộc đã đào tạo ra một thanh niên yêu nước
tuyệt vời, một trí thức lớn, một nhạc sĩ, một người viết lớn.
Bị phát xít Nhật bắt, tra tấn, hành hạ vậy mà trong
nhà tù, Nguyễn Đình Thi đã viết được một bản nhạc vào hàng kiệt tác là bài “Diệt
Phát xít”. Năm 1947 ông lại hoàn thành một kiệt tác âm nhạc khác là “Người Hà Nội”.
Năm 1942, đang học đại học, Nguyễn Đình Thi đã viết
5 cuốn sách triết học bằng tiếng Việt. Ông là người viết sách triết bằng Việt
ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1977, một lần đến thăm vị linh mục dạy triết học,
tôi đã xin cha 5 cuốn sách triết của Nguyễn Đình Thi xuất bản năm 1942 để rồi tặng
lại mấy cuốn này cho ông Thi. Ông mừng và cám ơn tôi lắm lắm…
Xin xem danh mục các tác phẩm đã xuất bản, đã công
diễn của nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia Nguyễn Đình Thi:
Sách
triết:
• Triết học nhập môn (1942)
• Triết học Kant (1942)
• Triết học Nietzsche (1942)
• Triết học Einstein (1942)
• Triết học Descartes (1942)
• Siêu hình học (1942)
• Triết học Kant (1942)
• Triết học Nietzsche (1942)
• Triết học Einstein (1942)
• Triết học Descartes (1942)
• Siêu hình học (1942)
Truyện,
văn xuôi
• Xung kích (1951)
• Thu đông năm nay (1954)
• Bên bờ sông Lô (tập truyện ngắn, 1957)
• Cái Tết của mèo con (truyện thiếu nhi, 1961)
• Vào lửa (1966)
• Mặt trận trên cao (1967)
• Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970)
• Trên sóng thời gian (tập bút ký, 1996)
• Tuyết (tập truyện ngắn, 2003)
• Thu đông năm nay (1954)
• Bên bờ sông Lô (tập truyện ngắn, 1957)
• Cái Tết của mèo con (truyện thiếu nhi, 1961)
• Vào lửa (1966)
• Mặt trận trên cao (1967)
• Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970)
• Trên sóng thời gian (tập bút ký, 1996)
• Tuyết (tập truyện ngắn, 2003)
Tiểu
luận
• Mấy vấn đề văn học (1956)
• Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)
• Mấy vấn đề văn học (1956)
• Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)
Thơ
• Người chiến sĩ (1958)
• Bài thơ Hắc Hải (1958)
• Dòng sông trong xanh (1974)
• Tia nắng (1985)
• Trong cát bụi (1992)
• Sóng reo (2001)
• Đất nước (1948 – 1955). (Đã được nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc phổ thành bản Giao Hưởng – Hợp xướng cùng tên “Đất nước” Biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà nội ngày 1 tháng 9/2009, Do chính Đặng Hữu Phúc chỉ huy Dàn nhạc – Hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch VN[1])
• Việt Nam quê hương ta
• Bài thơ Hắc Hải (1958)
• Dòng sông trong xanh (1974)
• Tia nắng (1985)
• Trong cát bụi (1992)
• Sóng reo (2001)
• Đất nước (1948 – 1955). (Đã được nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc phổ thành bản Giao Hưởng – Hợp xướng cùng tên “Đất nước” Biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà nội ngày 1 tháng 9/2009, Do chính Đặng Hữu Phúc chỉ huy Dàn nhạc – Hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch VN[1])
• Việt Nam quê hương ta
Kịch
• Con nai đen (1961)
• Hoa và Ngần (1975)
• Giấc mơ (1983)
• Rừng trúc (1978)
• Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979)
• Người đàn bà hóa đá (1980)
• Tiếng sóng (1980)
• Cái bóng trên tường (1982)
• Trương Chi (1983)
• Hòn Cuội (1983 – 1986)
• Hoa và Ngần (1975)
• Giấc mơ (1983)
• Rừng trúc (1978)
• Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979)
• Người đàn bà hóa đá (1980)
• Tiếng sóng (1980)
• Cái bóng trên tường (1982)
• Trương Chi (1983)
• Hòn Cuội (1983 – 1986)
Nhạc
• Người Hà Nội (1947)
• Diệt phát xít (1945)
• Con voi
• Diệt phát xít (1945)
• Con voi
Đầu kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi chủ
trương cách tân thơ, làm tiếp công việc nhóm “Dạ Đài” trước 1945 do Nguyễn Xuân
Sanh & Trần Dần chủ xướng: Tuyên dương thơ không vần, thơ tự do, bị nhà thơ
Tố Hữu và nhà thơ Lưu Trọng Lư phản đối quyết liệt, thậm chí lên án Nguyễn Đình
Thi là phản động. Lưu Trọng Lư còn mượn lời Platon mắng Nguyễn Đình Thi: “Hãy
quàng vào cổ anh Thi vòng nguyệt quế và đuổi anh ta ra khỏi nước cộng hòa thơ
kháng chiến Việt Bắc”.
Thành công thơ của Nguyễn Đình Thi còn để lại một
bài thơ lớn là bài “Đất nước”. Hầu hết thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ là thơ minh họa. Văn xuôi của Nguyễn Đình Thi từ “Xung kích” đến
“Vỡ bờ” hầu như là thứ văn xuôi minh họa, xu thời, ít thành tựu.
Kịch Nguyễn Đình Thi là kịch luận đề, bị Lê Đức Thọ,
Trường Chinh, Tố Hữu đánh lên đánh xuống. Dù sao, nhiều vở kịch như “Nguyễn
Trãi ở Đông Quan”, “Con nai đen”, “Rừng trúc”… là những vở kịch lớn, là những
thông điệp ngầm mang tính phản biện xã hội đầy đau đớn, quằn quại của một Nguyễn
Đình Thi sám hối, muốn thoát mình ra khỏi vũng lầy bồi bút, vươn lên ánh sáng
nhân văn của một con người khao khát chân lý và lẽ phải.
Một lần đại hội nhà văn Nguyễn Đình Thi đã biến các
nhà văn thành hạt bụi để tôn vinh đảng quang vinh, đảng vĩ đại vô cùng, rằng:
“Mỗi nhà văn chúng ta chỉ là hạt bụi của đảng, nhưng là những hạt bụi lấp
lánh”.
Nguyễn Đình Thi, bi kịch của một thanh niên yêu nước,
một tài năng, một trí thức lớn đi theo cách mạng & kháng chiến, bị cộng sản
tiêu hóa trong dối lừa, trong tủi nhục phi nhân, nhưng vẫn cố sống cố chết trồi
lên khỏi mặt nước chìm nghỉm, tuyệt vọng chìa tay khỏi trang giấy ngập ngụa bùn
tanh mà kêu cứu sự giải thoát.
No comments:
Post a Comment