Gellert Nguyễn
13/02/2020
Thành tích của công an Việt Nam trong việc sử dụng bạo
lực và dối trá luôn được ca ngợi là giỏi nhất thế giới mà việc ngang nhiên bắt
Trịnh Xuân Thanh ở Đức và Trương Duy Nhất ở Thái khi bất chấp hậu quả luật quốc
tế và bang giao song phương là thí dụ.
Tại quốc nội, vụ Đồng Tâm vi phạm luật đất đai là
thành tích mới nhất. Thật ra, trong lịch sử đàn áp đẫm máu dân lành mà công an
luôn tự hào còn có vô số các thảm kịch khác. Phải chăng công an luôn lặp lại
các biện pháp tương tự?
Không hẳn như vậy. Các sử gia cho là lịch sử không lặp
lại trong toàn diện, mà chỉ trong chừng mực tương đối, vì bối cảnh, không gian
và thời gian có thể làm thay đổi diễn tiến ít nhiều, mà ứng xử của công an
trong vụ án phố Ôn Như Hầu năm 1946 nhằm trấn áp các đảng phái quốc gia, đã chứng
minh là hoàn toàn dị biệt.
Nhưng khi nhìn lại hai biến động lịch sử xưa và nay
này cũng là dịp để cho những ai còn đủ lương tâm và lý trí hết lòng ca ngợi
công an trong vai trò bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, đối chiếu thành
tích ngày ấy và bây giờ.
Vụ án phố Ôn Như Hầu
Vào lúc 7 giờ sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, công an
khám xét nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, nay là số 7 phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội, nơi
đặt trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), bắt hơn 100 Đảng viên. Phan Kích
Nam, đại biểu Quốc hội khóa I cũng là Đảng viên, bị bắt trong số này, nhưng có
một số kịp trốn thoát. Chỉ đạo chung là Lê Giản, Nguyễn Tuấn Thức và Nguyễn Tạo.
Trong cùng ngày, công an khám xét trụ sở khác của Quốc
dân Đảng ở nhà số 132 phố Duvigneau, nay là phố Bùi Thị Xuân. Dù chưa có lệnh bắt,
nhưng do bất ngờ đột kích vào lúc sáng sớm, nên các đảng viên không có thời
gian tẩu thoát.
Việc khám xét của công an tại nhà số 80 phố Quán
Thánh cũng diễn ra tương tự. Điểm đặc biệt là quân Pháp điều xe tăng đến can
thiệp, nhưng cuối cùng, sau khi được công an giải thích, xe tăng Pháp rút lui
vào buổi trưa.
Sau Hà Nội, công an khám xét các cơ sở khác của Việt
Quốc và Việt Cách ở Hải Phòng và một số tỉnh khác.
Khi tổng kết thành quả chiến dịch, chính quyền có tổ
chức họp báo cho biết là đã phá tan âm mưu chống chính phủ. Tuy nhiên, để giữ
thanh thế chung cho Mặt trận Thống nhất, chính quyền tỏ ra dè dặt trong việc
lên án hai đảng đang còn là thành viên. Đặc điểm nổi bật trong cuộc họp báo này
là đã tường thuật với nhiều chi tiết. Báo giới gọi chung việc khám xét là vụ phố
Ôn Như Hầu.
Phía công an cho biết, nhân ngày Quốc khánh Pháp, Đại
Việt và Quốc dân Đảng chuẩn bị kế hoạch bắn súng và ném lựu đạn khi quân Pháp
diễn hành quanh hồ Hoàn Kiếm, gây tác hại cho bang giao Pháp-Việt. Hậu quả là
Pháp sẽ quy trách cho chính quyền việc tấn công quân Pháp, tạo cớ cho Pháp lật
đổ. Nhân dịp này, hai đảng hô hào hợp tác với Pháp. Kết quả chiến dịch là công
an thu được nhiều vũ khí, truyền đơn, tài liệu, giấy bạc giả và dụng cụ tra tấn.
Theo kế hoạch tại trụ sở số 7 phố Ôn Như Hầu, Trần
Tấn Nghĩa, chỉ huy công an, mang theo lệnh bắt và khám xét những người có mặt.
Khi đến nơi, việc đầu tiên là công an cắt dây điện thoại và gọi người bên trong
ra đón tiếp.
Sau khi biết được nguyên nhân khám xét, Phan Kích
Nam biện minh là Đại biểu Quốc hội nên có đặc quyền bất khả xâm phạm và công an
không thể tùy tiện khám xét trụ sở đảng. Trước phản ứng hợp pháp, Trần Tấn
Nghĩa rút lui.
Lần thứ hai, kế hoạch thay đổi, Trần Tấn Nghĩa đến địa
điểm, dự kiến trước là mời Phan Kích Nam về trụ sở công an, rồi sau đó mới khám
xét và bắt các đảng viên. Phan Kích Nam khuyên công an báo cáo với cấp trên là
“nếu manh động sẽ ăn đạn và sẽ lĩnh trách nhiệm với Quốc hội”. Một lần nửa, Trần
Tấn Nghĩa ra về.
Lần thứ ba, khoảng 10h30‘ trong cùng ngày, Trần Tấn
Nghĩa quay lại và chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn. Thi hành lệnh
bắt không kết quả, Trần Tấn Nghĩa cáo biệt và vờ quên súng ở bàn. Phan Kích Nam
vội vàng cầm súng và xung đột xảy ra. Trong cảnh tượng Phan Kích Nam lảo đảo,
Trần Tấn Nghĩa bẻ quặt tay Phan Kích Nam và ra lệnh tất cả không được chống cự.
Phan Kích Nam phải làm theo lệnh. Theo đúng kế hoạch, công an bắt tất cả người
của Quốc dân Đảng.
Cuối cùng, công an kết luận là đã phá tan âm mưu chống
chính phủ, những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, tịch thu nhiều truyền đơn và bạc
giả. Đây là thắng lợi lớn trong việc bảo vệ đảng [cộng sản], chính quyền và
nhân dân.
Theo các sử gia, vụ án chưa bao giờ được nghiên cứu
nghiêm túc. Chính giới cho rằng mục đích là Việt Minh lợi dụng trả thù vì không
có đủ chứng cớ buộc tội Việt Nam Quốc Dân Đảng. Khi sử dụng bằng chứng âm mưu đảo
chính làm lý do để tìm cách triệt hạ các đảng phái, công an làm có đúng không,
vấn đề không tòa án nào có thể kiểm chứng.
Thực tế cho thấy, nếu Pháp muốn đảo chính thì họ
không cần dựa vào bằng chứng của Việt Minh, cơ hội cho Pháp đã có từ lâu và trì
hoãn vì nhiều lý do khác nhau. Trong khi các Đảng phái cho biết, bằng chứng là
ngụy tạo mang đến hiện trường và lời cáo buộc không thuyết phục. Tất cả mọi khuất
tất của lịch sử lắng chìm qua thời gian.
Vụ Đồng Tâm
Nội dung tranh chấp là dân Đồng Tâm phản đối chính
quyền chiếm đất nông nghiệp gồm 59 ha tại Đồng Sênh, nghĩa là thuộc về dân sự
mà mọi phe liên quan phải tuân thủ quyết định của tòa án.
Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 1 năm 2020, chính quyền
Hà Nội huy động 3.000 cảnh sát cơ động đến bao vây làng Đồng Tâm, bắn chết ông
Lê Đình Kình, 84 tuổi, tại nhà riêng và bắt đi 27 người dân Đồng Tâm. Sau đó,
chính quyền truy tặng Huân chương Chiến công Hạng nhất cho ba cảnh sát bị thiệt
mạng.
Trước phút lâm chung, ông Kình không bị truy tố về tội
hình sự hay khai trừ Đảng, ông chưa nhận phán quyết của tòa án hay lệnh cưỡng
chế đất đai. Là một lão thành cách mạng, ông Kình có 58 năm tuổi đảng và từng
là bí thư đảng ủy. Có chứng từ pháp lý, dĩ nhiên, ông Kình có quyền lưu giữ và
trình bày trước tòa án và công luận, một quyền không thể tranh cãi.
Không có lệnh
bắt hay biện pháp nào, chính quyền đơn phương dùng bạo lực vào lúc 4 giờ sáng,
tịch thu hết chứng cứ mà ông Kình đang cất giữ, bắt hết nhóm Đồng thuận Đồng
Tâm và tiêu diệt ông Kình.
Công an có tổ chức họp báo trình bày nguyên nhân tử
vong của ông Kình và ba cảnh sát với các chi tiết mâu thuẫn nhau. Đầu tiên,
công an cho biết là vì bị dân ném lựu đạn, đâm bằng dao phóng và rơi xuống hầm
chông nên ba cảnh sát bị thiêu chết ở Đồng Sêng, cách thôn Hoành, xã Đồng Tâm
khoảng ba cây số.
Sau đó, công an lại cho rằng, cảnh sát chết khi truy
đuổi dân và bị rơi xuống giếng trời tại nhà ông Kình ở thôn Hoành, rồi bị dân đổ
xăng thiêu chết. Còn ông Kình chết là vì có hành vi khủng bố, chống người thi
hành công vụ, khi chết, trên tay còn cầm lựu đạn. Sau cùng, tướng Lương Tam
Quang xác nhận, ông Kình chết tại nhà.
Sự thật khác hẳn. Hình ảnh về sau cho thấy, công an
đột kích vào tận nhà bắn vỡ tim, nát óc ông Kình ngay trên gường ngủ rồi mang
xác đi, tự tiện mổ bụng không theo thủ tục pháp y. Khi gọi vợ con ông nhận xác,
còn bắt ký giấy xác nhận ông chết ở đồng Sênh, cách nơi ông bị giết chết ba cây
số.
Bằng chứng cuối cùng thuyết phục nhất là việc bà
Kình tìm ra dưới gầm giường một bao tải quần áo đầy máu của ông Kình, nhà cửa bị
lục tung và bản đồ đất dán trên tường bị xé bỏ. Công an mang bản đồ, hồ sơ giấy tờ đất đai đi mất, dân Đồng
Tâm không còn một bằng chứng nào có thể trình bày trước tòa án và công lụận.
Tóm lại, đây là một cuộc đột kích và
thảm sát tại chỗ để cướp chứng cứ, giết người diệt khẩu, không dựa trên cơ sở
luật pháp nào.
Công an của ông Hồ và ông Trọng, ai hơn ai?
Năm 1946, tình hình đất nước vô cùng hỗn loạn, cho
dù Quốc hội được thành hình. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp ra đời
trong khi một số thành viên trong Việt Quốc và Việt Cách phản đối và công luận
cho rằng Việt Minh thân Pháp. Thuận lợi cho Việt Minh là tranh thủ được thời
gian hòa hoãn để củng cồ quyền lực nội chính. Để đạt mục tiêu, ông Hồ dùng các
biện pháp trấn áp các phong trào quốc gia và Võ Nguyên Giáp chỉ huy lực lượng
công an và quân đội khám xét và bắt giữ các thành phần chống đối có thể đe dọa
đến chính phủ.
Bối cảnh chung của biến động tại Đồng Tâm khác hẳn.
Việt Nam trong năm 2020 là một đất nước đang “toả sáng trong cảnh quan u tối của
thế giới”. Khung cảnh thanh bình thể hiện rõ nơi Đồng Tâm, một ngôi làng nhỏ với
8000 người dân, sống hiền hoà bên những mảnh ruộng thân yêu, luôn một lòng tin
tường vào chính sách Đảng và nhà nước, qua giải pháp đối thoại ôn hoà trong
tinh thần trọng pháp, cho dù có tranh chấp quyền lợi.
Việc khám xét tại phố Ôn Như Hầu cho thấy, công an
ngày xưa tôn trọng luật pháp hơn ngày nay. Dù có lệnh khám xét và bắt giữ nghi
can, nhưng do phản ứng quyết liệt, công an phải trì hoãn đến lần thứ ba mới thực
hiện trấn áp. Khi có Pháp can thiệp, công an đã ôn hoà trình bày căn bản pháp
lý theo nội dung của Tạm ước Pháp-Việt để yêu cầu Pháp không can thiệp. Trong
khi tất cả các biện pháp ngày xưa đều thực hiện vào sáng sớm, vụ Đồng Tâm khác
hơn, không có lệnh bắt và bắt đầu từ lúc 3 giờ, khi trời chưa sáng.
Mục tiêu của cả hai cũng khác nhau. Ngày xưa, công
an trấn áp các đảng phái đối lập, thuần túy là về đấu tranh chính trị, chỉ bắt
người và tịch thu tang chứng, không giết người tại chỗ; ngày nay, công an công
khai chống nhân dân, giết Đảng viên, bắt người dân và thủ tiêu tang chứng cho một
vụ tranh tụng dân sự. Một lực lương tinh nhuệ gồm 3000 cảnh sát cơ động với các
dụng cụ hiện đại để chống 8000 người dân là phương tiện mà ngày xưa không có được.
Kết quả trong vụ án phố Ôn Như Hầu là không có ai chết,
nhiều Đảng viên bị bắt và dân chúng không liên can. Ngược lại, tại Đồng Tâm, có
4 người chết và 26 người dân bị bắt, mọi chứng từ pháp lý bị thủ tiêu và hiện
trường được xây dựng lại.
Ngày xưa, nói chung, báo chí của Việt Minh và không
phải của Việt Minh, dù nghi ngờ thiện chí của nhau, nhưng về nghiệp vụ lại hợp
tác trong thân thiện. Công an trình bày cho báo giới biết chi tiết các diễn biến.
Ngày nay, chính quyền xem các phương tiện truyền thông xã hội là “thế lực thù địch”.
Tin tức do các báo chí chính thống tung ra sai lạc, ém nhẹm và mâu thuẫn, nên
không ai tin tưởng, kể cả những người luôn trung thành với Đảng và nhà nước.
Ảnh hưởng nghiêm trọng của vụ án phố Ôn Như Hầu là
sau đó các Ủy ban Hành chính địa phương toàn quyền bắt giữ các đảng viên Việt
Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi. Hàng ngàn người bị bắt, thẩm vấn, có
nhiều người bị cách chức, tống giam và đi cải tạo.
Nhưng ảnh hưởng lâu dài là giúp cho ông Hồ làm tan
rã hệ thống tổ chức của các đảng phái quốc gia, phá vỡ liên minh cách mạng
trong mục tiêu chung là chống Pháp và giành độc lập dân tộc. Qua thời gian, các
lãnh tụ như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh nhận định là
không thể hợp tác với Việt Minh, nên lưu vong sang Trung Quốc. Chính phủ Liên
hiệp Kháng chiến, biểu tượng hợp tác của tất cả các đảng phái, đã chấm dứt.
Ảnh hưởng của vụ Đồng Tâm? Còn quá sớm để nhận ra
các ảnh hưởng chung cho tương lai của đất nước.
Từ lâu, đa số người dân chấp nhận phong cách lãnh đạo
của đảng CSVN, lập luận là vì Việt Nam cần một chính phủ tập quyền, mạnh mẽ để
chống tham nhũng và đưa đất nước đi lên. Sau cái chết thương tâm của ông Kình
và giam giữ 27 người vô cớ, phản ứng đầu tiên công khai trong cả nước là phẫn nộ
và đau buồn. Các phương tiện truyền thông xã hội đã cáo buộc công an đưa ra những
tin tức và bình luận sai lệch và kêu gào vì sao không có quyền được biết rõ vì
sao ông Kình chết.
Các câu hỏi tại sao lại giết đảng viên và bắt người
dân không có lệnh vào lúc đêm khuya, truy tặng huy chương chiến công cho cảnh
sát theo thủ tục khẩn cấp, phong toả tiền phúng điếu của người quyên góp là các
nguyện vọng chính đáng của người dân. Gần như có một sự đoàn kết hiếm thấy
trong mọi thành phần xã hội, vốn dĩ là vô cảm trước các bất công. Đến nay, vấn
đề chưa được đảng CSVN làm sáng tỏ và thuyết phục.
Đối với người dân Đồng Tâm, không phải chỉ có đau buồn
mà mất niềm tin vào đảng và nhà nước là quan trọng nhất. Một lập luận đơn giản
nhưng trở nên thuyết phục hơn bao giờ hết cho mọi người là: Tất cả chúng ta sẽ
như ông Kình trong thời kỳ mới. Đảng viên trung kiên mà đảng còn đối xử như vậy,
thì người dân oan ở các nơi khác hãy học tập kinh nghiệm Đồng Tâm để chuẩn bị
tinh thần.
Chính quyền đã quá vụng về và tàn ác khi xử lý một vụ
tranh chấp dân sự. Bất chấp hậu quả tạo thêm nghiêm trọng cho tình hình chung
trong khi chính quyền còn phải tập trung sức để lo đối phó với thách thức khác,
thí dụ như cuộc khủng hoảng nội bộ Đại hội Đảng trong năm 2021, hiểm hoạ diệt
vong, các thế lực thù địch và gần nhất là dịch vrius Corona.
Sau “thành tích Phan Thiết và Đồng Tâm”, công luận
cho rằng, nhà nước đang tiếp tục sẵn sàng chiến đấu chống lại nhân dân, nhất là
chống lại những ý kiến phản đối. Cái chết thương tâm của cụ Kình còn phản ánh một
lối suy nghĩ khác: Lòng trung thành với đảng cần xét lại. Khi đảng không làm
sáng tỏ vụ Đồng Tâm, thì hậu quả trước mắt là công chúng không còn ủng hộ đảng
nữa, điều đó có nghĩa là tình hình chung rất nghiêm trọng.
Lịch
sử Việt Nam là một đất nước đầy đau khổ và chết chóc do bạo lực và dối trá của
đảng CSVN gây ra mà công an là phương tiện. Ngày nay, Đảng
không còn đấu tranh giai cấp mà chỉ lo bảo vệ quyền lợi phe nhóm. Dùng công an
với các phương tiện kỹ thuật hiện đại và bưng bít thông tin, đảng đe dọa những
người nói lên sự thật. Vụ Đồng Tâm cho thấy điều đó. Việc tranh tụng dân sự là
do tòa án giải quyết trong ôn hoà, đảng tránh được hậu quả như hiện nay đảng
đang gánh. Lọt ra ngoài tầm kiểm soát của đảng, làm cho tình hình diễn biến khó
lường và trầm trọng thêm.
Tóm lại, ông Hồ và ông Trọng giống nhau khi dùng bạo
lực và dối trá để bảo vệ chế độ độc tài. Điểm khác nhau là ông Hồ lo đàn áp các
đảng phái quốc gia để tập trung quyền toàn trị, còn ông Trọng trực tiếp chiến đấu
chống dân chúng, kể cả giết Đảng viên để bảo vệ quyền lợi kinh tế cho phe nhóm.
Đất nước không “toả sáng” như ông Trọng ca ngợi, điển
hình là hình ảnh quê hương thanh bình của Đồng Tâm thân yêu chỉ còn trong mộng
tưỏng, không còn “khói lam chiều vuơng toả bên luỹ tre làng”, không còn “người
nông dân hiền hoà bên dàn mướp lá lên xanh”. Những ai còn đủ lương tâm và lý
trí phải nhận ra Đồng Tâm hôm nay khác hẳn, không phải chỉ có ông Kình chịu cái
chết đau đớn, đầy oan ức, mà toàn dân đang sống trong bạo lực vả dối trá của đảng.
Ngày xưa, các đảng phái quốc gia bị tận diệt và tháo
chạy, còn ngày nay, dân chúng rồi sẽ ra sao? Vụ Đồng Tâm có phải là giọt nước
làm tràn ly Việt Nam chưa, vấn đề còn thời gian để trả lời. Tương lai của đất
nước trong năm 2020 vẫn cỏn mờ mịt như năm 1946. Sự thật về bản chất của đảng
và công an đã phơi bày. Đó là một tin vui chung cho toàn dân trong khi chờ đợi
chuyện hậu sự cho đảng. Tất nhiên, chúng ta còn phải chờ, nhưng chuyện phải đến
sẽ đến.
No comments:
Post a Comment