Friday, August 17, 2018

BẢN TIN BIỂN ĐÔNG NGÀY 15 & 16 & 17/8/2018 (BTV Tiếng Dân)




BTV Tiếng Dân
17/08/2018

Kế hoạch của Mỹ hỗ trợ các nước Đông Nam Á
Washington đang thảo luận với từng nước Đông Nam Á về các chương trình hỗ trợ nằm trong Sáng kiến An ninh Hàng hải (Maritime Security Initiative) và kế hoạch phân bổ Tài chính Quân sự Nước ngoài (Foreign Military Financing – FMF) trị giá 290,5 triệu USD cho khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương mà Bộ trưởng Ngoại giao Mike Pompeo đã thông báo ngày 4 tháng 8 tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Singapore. Việc phân bổ FMF được định hướng nhằm tăng cường an ninh hàng hải, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai (HADR), và nâng cao các năng lực gìn giữ hoà bình.

Hôm thứ Tư vừa qua, ông Randall Schriver, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về an ninh châu Á và Thái Bình Dương, cho biết, các chương trình hỗ trợ sẽ được thiết kế cho từng trường hợp và tùy thuộc vào một số yếu tố: “Chúng tôi sẽ xem xét từng trường hợp đối tác cụ thể và xem các yêu cầu có thể là gì. Tôi nghĩ khi mà nhìn nhận vấn đề an ninh Biển Đông và Ấn Độ – Thái Bình Dương là một tổng thể, thì nói chung các lãnh vực sẽ được chú ý là giúp các quốc gia phát triển năng lực nhận biết tất cả các vấn đề liên quan đến biển mà tác động tới an ninh, an toàn, kinh tế hay môi trường (Maritime Domain Awareness – MDA) và cải thiện an ninh hàng hải. Bởi vậy chúng tôi sẽ nhìn vào từng trường hợp xem yêu cầu mỗi nơi là gì và xem làm sao chúng tôi có thể sử dụng tốt nhất các khoản tài chính để giúp các nước tăng cường năng lực của họ ở những lãnh vực đó“.

Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam được liệt kê là những nước được ưu tiên cho các chương trình của Sáng kiến An ninh Hàng hải.

Schriver từ chối cung cấp chi tiết cụ thể về các chương trình dành cho các nước Đông Nam Á theo Sáng kiến An ninh Hàng Hải cũng như phân bổ FMF, nhưng ông có cho biết các chương trình sẽ bao gồm việc cung cấp thiết bị, đào tạo, xây dựng năng lực và giúp các nước cấu trúc tốt hơn hoặc những tổ chức của họ chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những thách thức an ninh đương đại.

Ông nói: “Đây là một hoạt động có tính hợp tác, chúng tôi muốn các chương trình có ý nghĩa đối với từng nước được tiếp nhận, phù hợp với kế hoạch phòng thủ tổng thể của họ“.
Các nước được nhận hỗ trợ trong Sáng kiến An ninh Hàng hải sẽ không chỉ muốn thúc đẩy các năng lực MDA mà còn hướng tới việc chia sẻ thông tin với các nước láng giềng trong khu vực, ông nói.

Có rất nhiều sự quan tâm đối với MDA và làm thế nào để cuối cùng có thể dẫn đến kết nối lớn hơn với các nước cùng chí hướng mà cũng đang phát triển MDA. Thách thức về an ninh hàng hải vốn dĩ là vấn đề đa phương, vì vậy bước đầu tiên là nhận thức về khu vực mà mình có quyền chủ quyền (vùng đặc quyền kinh tế), và tiếp nữa, là khả năng kết nối với những nước khác trong khu vực có cùng mối quan tâm thúc đẩy an ninh hàng hải”.

Liên quan đến các Chương trình Tự do Hải hành (FONOPs) ở Biển Đông, Schriver đã chỉ ra rằng, FONOPs là một phần của chương trình toàn cầu, mặc dù “nổi bật nhất hiện nay là các hoạt động ở Biển Đông nhưng chắc chắn chương trình này không giới hạn ở đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành FONOPs ở bất cứ đâu có những yêu sách bành trướng mà chúng tôi coi là bất hợp pháp và không dựa trên luật quốc tế, và dĩ nhiên trong đó sẽ bao gồm Biển Đông, nhưng chúng ta sẽ không nói cụ thể hơn về kế hoạch tương lai“.

Schriver cho biết, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục tiến hành FONOPs nhằm đáp lại các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, và sẽ kéo các nước có cùng quan điểm tham gia cùng, “những nước mà có thể không sẵn lòng thách thức phạm vi 12 hải lý nhưng sẵn sàng thực hiện các hoạt động hiện diện ở Biển Đông“, mặc dù ông không nêu tên đó là những nước nào.
Trước đó, trả lời VOA ngày 9 tháng 8, Đô đốc Richardson nói: “Chúng tôi sẽ luôn ở đó. Và chúng tôi sẵn sàng bênh vực cho những ai bị ảnh hưởng trong phạm vi tranh chấp, nếu cần”.

Theo Schriver, các hoạt động của Hoa Kỳ sẽ không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, mà còn có các hoạt động ngoài phạm vi đó. Ví dụ như những hoạt động của Bộ Ngoại giao, trong đó bao gồm trợ giúp các nước có yêu sách ở Biển Đông, các vấn đề liên quan tới những yêu sách hợp pháp của họ và tiến hành các cuộc đàm phán giải quyết yêu sách một cách hoà bình, nếu được yêu cầu.

Ngày 10 tháng 8, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phát đi thông cáo báo chí, cho biết, ông Andrea L. Thompson, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ phụ trách Kiểm Soát Vũ Khí & An Ninh Quốc Tế, sẽ công du Indonesia, Việt Nam và Australia từ ngày 12 đến 26 tháng 8. Chuyến công du kỳ này của bà nhằm mục đích thảo luận với các giới chức hữu quan ba nước trên về cách thức mà phía Hoa Kỳ có thể đóng góp cho một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương mở và tự do.

Ở Việt Nam, bà Andrea L. Thompson sẽ có những cuộc gặp với quan chức cấp cao chính phủ Hà Nội và quân đội nước này nhằm tăng cường hợp tác song phương trong các lĩnh vực hợp tác an ninh, mậu dịch quốc phòng, an ninh hàng hải, hoạt động giữ gìn hòa bình và các vấn đề nhân đạo.


Theo ông Hà Kim Ngọc, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Việt Nam ở Hoa Kỳ, trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, trên cơ sở những thoả thuận đã đạt được, trong đó có tuyên bố Tầm nhìn chung Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2015, hai bên [Việt Nam và Hoa Kỳ] đã từng bước mở rộng và đạt được những bước tiến quan trọng, đặc biệt trên các lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ nhân đạo, giảm nhẹ thiên tai, gìn giữ hoà bình, đào tạo và an ninh hàng hải.
Trong thời gian qua, Hoa Kỳ đã chuyển giao một tàu Hamilton và sáu xuồng tuần tra cho Việt Nam, góp phần tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam. Mới đây, tàu sân bay Carl Vinson của Hoa Kỳ lần đầu tiên thăm Việt Nam, đã thể hiện mong muốn của hai nước tham gia vào nỗ lực chung của khu vực nhằm duy trì hoà bình, ổn định, hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế.


-------------------------------------------------------------

BTV Tiếng Dân
16/08/2018

Ngoài thực địa

Một báo cáo của chính phủ Philippines mà AP có được cho thấy, trong nửa cuối năm ngoái, máy bay quân sự Philippines đã nhận được cảnh báo của Trung Quốc qua radio ít nhất 46 lần trong khi đang bay tuần tra gần các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng trên quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.

Các quan chức Philippines đã hai lần nêu lên mối lo ngại về những cảnh báo này, kể cả trong một cuộc họp với những người đồng sự Trung Quốc tại Manila hồi đầu năm nay về vấn đề Biển Đông, theo hai quan chức giấu tên vì họ không được phép thảo luận vấn đề một cách công khai.

Trong những năm trước, những cảnh báo này thường bắt nguồn từ các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc. Nhưng các quan chức quân sự nghi ngờ hiện nay việc phát thanh được truyền đi từ các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang chiếm đóng, nơi đã lắp đặt các thiết bị giám sát và truyền thông mạnh hơn cùng với các vũ khí như hệ thống tên lửa đất đối không.
“Tàu và máy bay của chúng tôi đã quan sát thấy sự gia tăng các truy vấn qua radio bắt nguồn từ các cơ sở mới đặt trên các vùng đất ở Biển Đông“, Tư lệnh Clay Doss, viên chức công vụ của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, trả lời AP qua email.

Hôm 30 tháng 7, truyền thông đưa tin Trung Quốc lần đầu tiên triển khai một tàu tìm kiếm cứu hộ Nan Hai Jiu 115 neo đậu lâu dài tại bãi Xubi thuộc quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Nan Hai Jiu 115 là tàu tìm kiếm cứu hộ có khả năng triển khai trực thăng cứu hộ tầm trung.

Một giới chức Bộ Giao thông Vận tải, ông Du Haipeng nói với Tân Hoa Xã rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng các tàu cứu hộ lớn với phạm vi hoạt động xa hơn và được trang bị các công nghệ tiên tiến hơn. Ông Haipeng nói thêm rằng, Bắc Kinh cũng sẽ triển khai các trực thăng với khả năng tìm kiếm cứu hộ tốt hơn và nhanh hơn.

Theo Giáo sư Carl Thayer, Trung Quốc triển khai tàu tìm kiếm và cứu hộ Nan Hai Jiu 115 vừa là một biện pháp thực tế để hỗ trợ ngư dân – chủ yếu là người Trung Quốc – gặp nạn, vừa để nhằm mục đích chứng minh rằng Trung Quốc có quyền tài phán chủ quyền trên vùng biển xung quanh.

Ông Carl Thayer cũng cho biết, trong Văn Bản Đàm Phán Dự Thảo COC Duy Nhất, có 4 bản đề xuất của Philippines, Indonesia và Singapore, Trung Quốc, và Campuchia đều ủng hộ hợp tác tìm kiếm và cứu nạn trên biển. Và đáng chú ý là Trung Quốc nhiệt tình nhất trong đề xuất này.

Cụ thể, đề xuất của Trung Quốc ghi rằng: “An toàn hải hành và hoạt động tìm kiếm – cứu hộ. Các bên sẽ tăng cường hợp tác về an toàn hải hành… Các bên sẽ tăng cường hợp tác tìm kiếm và cứu nạn trên biển, xây dựng các hệ thống thông tin và truyền thông để cung cấp các dịch vụ tìm kiếm và cứu hộ tốt cho những người gặp nguy hiểm trên biển”.

Còn theo một số chuyên gia khác, việc triển khai tàu tìm kiếm và cứu hộ chỉ nhằm để giảm nhiệt, một nỗ lực nhằm tạo ra một vỏ bọc thân thiện phủ bên ngoài những gì rõ ràng là quân sự hoá. Nó giống như “một sự tẩy não”, Jonathan Spangler, giám đốc Viện tư vấn chính sách Biển Đông (South China Sea Think Tank) ở Đài Bắc nhận xét.

Các nhà hoạch định chính sách Philippines cũng có thể nghi ngờ hành động này của Trung Quốc, theo giáo sư ngành khoa học chính trị Ela Atienza ở Đại học Philippines Ela Atienza. Bởi lẽ, (Trung Quốc) “đã không đóng một vai trò như vậy trong những lần thiên tai gần đây trong khu vực cần đến các hoạt động cứu hộ”.

Atienza nhắc lại sự thiếu vắng giúp đỡ của Trung Quốc trong đợt bão Yolanda, đã cướp đi 6000 sinh mạng Philippines vào năm 2013.

Philippines bắt đầu đẩy mạnh cải tạo đảo
Ngày 14 tháng 8 vừa rồi, truyền thông Philippines đưa tin, ông Delfin Lorenzana, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines cho biết việc sửa chữa đường bay ở đảo Thị Tứ, nơi Philippines đang chiếm đóng, sẽ được hoàn tất vào cuối năm sau. Việc sửa chữa đường băng đã bị hư hỏng trầm trọng này đã bị đình trệ trong một thời gian dài vì lo ngại sẽ khiến Trung Quốc không vui.

Lorenzana cũng cho biết các đoạn đường nối bãi biển đang được xây dựng và có thể hoàn thành vào cuối năm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tàu vận chuyển vật liệu xây dựng cho đường băng sau này.

Học giả Việt Nam nói về lập trường của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp Biển Đông
Đó là “kiên trì đàm phán,” theo như trình bày của ông Đỗ Thanh Hải đến từ Học viện Ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 8 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức vào cuối tháng Bảy vừa qua ở Washington, VOA tường thuật lại.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, Hà Nội không gạt sang một bên biện pháp pháp lý giống như Manila đã từng kiện Bắc Kinh ra Tòa trọng tài thường trực (PCA) hồi năm 2014. Ông Hải cho biết Hà Nội ủng hộ vụ kiện của Manila và bảo lưu quyền của mình sử dụng biện pháp pháp lý tương tự.

Hà Nội theo đuổi giải pháp “công bằng, lâu dài và chấp nhận được” và xem đó là con đường để bảo đảm hòa bình và an ninh trong khu vực.

Trong khi chờ đợi có được giải pháp lâu dài đó, Việt Nam cũng sẵn sàng chấp nhận những giải pháp tạm thời nhưng “thỏa đáng”, ông Hải nói và nhấn mạnh nguyên tắc “thỏa đáng”.
Giải pháp tạm thời này bao gồm hợp tác trên những vấn đề không nhạy cảm như tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và bảo vệ môi trường và hợp tác cùng khai thác.

Riêng trên vấn đề hợp tác cùng khai thác (dầu khí), ông Hải nhấn mạnh rằng, Việt Nam không hợp tác cùng khai thác ở những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam mà chỉ ở những vùng biển có chủ quyền chồng lấn. Ngoài ra, Hà Nội chỉ hợp tác cùng khai thác sau khi dùng luật pháp quốc tế xác định rõ ràng vùng biển nào có chủ quyền chồng lấn.

Nguyên tắc cơ bản của Việt Nam khi theo đuổi con đường đàm phán cũng như giải pháp tạm thời, theo ông Hải, là bám theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Quốc tế về Luật Biển UNCLOS 1982, còn những yếu tố khác chỉ mang tính bổ sung và chỉ có giá trị tham vấn. Điều này trái với lập trường của Trung Quốc là ‘chủ quyền lịch sử’ đối với Biển Đông vốn không có căn cứ trên luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, theo ông Hải những trở ngại đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình là: thiếu trách nhiệm và thiếu thiện chí, mưu cầu bá quyền thông qua việc quân sự hóa để tạo “sự đã rồi”, khăng khăng đòi hợp tác cùng khai thác không đúng nơi, không đúng trình tự (trước khi có phân định biên giới rõ ràng) và tuyên bố chủ quyền phi pháp (đường chín đoạn và đòi hỏi vùng biển tối đa cho những thực thể không đủ điều kiện theo luật quốc tế).

Đàm phán giữa các bên liên quan theo luật pháp quốc tế hay tham khảo kinh nghiệm nhờ trọng tài phán xử từ các tranh chấp chủ quyền khác trên thế giới là những giải pháp giúp giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình phù hợp với nguyện vọng của tất cả các bên, theo ý kiến của các học giả đưa ra tại hội thảo.


----------------------------------

BTV Tiếng Dân
15/08/2018

Giải mã Gạc Ma

Xung quanh biến cố Gạc Ma năm 1988, cựu chiến binh Phan Trí Đỉnh đã chia sẻ trên Facebook cá nhân một số trích đoạn được cắt từ một thước phim ghi hình cuộc nói chuyện của Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm.

Trong những đoạn trích này, Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm cho biết một số thông tin cụ thể về tình hình Biển Đông và Gạc Ma năm 1988, sự chuẩn bị và những khó khăn của Hải quân Việt Nam khi đó, cũng như quan điểm của ông về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. 
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm khẳng định, biến cố Gạc Ma không phải là một trận hải chiến mà là một cuộc thảm sát mà lực lượng Trung Quốc với vũ khí, tàu chiến hiện đại gây ra đối với lực lượng tàu vận tải của Việt Nam.

Đọc thêm bài phỏng vấn Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm được báo Thanh Niên thực hiện năm 2014 với nhiều thông tin chi tiết: Từ thảm sát Gạc Ma đến mộng bá chủ Biển Đông.
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm từng là Phó tham mưu trưởng Hạm đội 171, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 61, Tham mưu phó phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam. Ông là người trực tiếp phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988. Hiện ông là Chủ tịch Hội Khoa học – Kỹ thuật và Kinh tế biển TP.HCM.

Diễn biến thực địa và thái độ các bên

Tiếp tục câu chuyện về việc Trung Quốc cảnh báo phi cơ của các nước khi bay qua các khu vực mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Biển Đông, mới đây tướng Carlito Galvez, Tư lệnh quân đội Philippines nói, Trung Quốc vẫn đe doạ tàu và máy bay nước ngoài hàng ngày ở Biển Đông.

“Và phi công của chúng tôi chỉ trả lời: Chúng tôi chỉ đang thực hiện chuyến bay thường lệ của mình trong phạm vi quyền hạn và lãnh thổ của chúng tôi,” tướng Galvez cho biết.

Trong một buổi họp báo, Harry Roque, Phát ngôn viên Tổng thống Philippines cũng khẳng định mạnh mẽ: “Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục các chuyến bay. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền của chúng tôi. Và nếu cần, các phi công Philippines sẽ sẵn sàng hy sinh cho chủ quyền của chúng tôi“.

Hôm 13 tháng 8, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cũng cảnh báo việc triển khai lực lượng đóng quân ở Biển Đông trong một bài trả lời phỏng vấn truyền thông: “Chúng tôi ủng hộ việc các tàu biển, kể cả chiến hạm, di chuyển qua Biển Đông, nhưng phản đối việc triển khai lực lượng đóng quân tại đó. Đây là lời cảnh báo tới tất cả các nước, đừng gây ra căng thẳng không cần thiết“, AP dẫn lời Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad.

Tuyên bố của Thủ tướng Mahathir được đưa ra trong bối cảnh Malaysia liên tục phát đi những thông điệp thể hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

“Trung Quốc đã triển khai nhiều tàu hải cảnh lớn không khác gì tàu chiến tới những khu vực giàu tài nguyên và gây bất an cho các nước láng giềng”, Ngoại trưởng Malaysia Abdullah Saifuddin phát biểu hồi cuối tháng 7. Ông cho rằng chính phủ tiền nhiệm hiếm khi chỉ trích Trung Quốc, dù tàu hải cảnh Trung Quốc đã tiến gần lãnh hải nước này và Bắc Kinh liên tục bồi đắp, triển khai trái phép nhiều loại vũ khí tới các đảo nhân tạo trên Biển Đông.

Thủ tướng Mahathir đang tìm cách giảm bớt ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đối với Malaysia bằng cách đánh giá lại các dự án đầu tư. Chính phủ của ông đã đình chỉ một dự án đường sắt trị giá nhiều tỷ USD, vốn là trọng tâm trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, cùng hai dự án đường ống dẫn khí để thương thảo những điều khoản tốt hơn.

Giải pháp cho Biển Đông 

Trên Tuần Việt Nam có bài viết “Biển Đông: TQ tham vọng kép, Mỹ cần hành động khẩn?” trong đó tổng hợp đề xuất của các học giả quốc tế về những việc Mỹ cần phải làm để chặn đứng tham vọng của Trung Quốc.

Trước tiên, Mỹ cần mở rộng năng lực áp đặt mức phạt đối với những vi phạm nghiêm trọng các chuẩn mực khu vực và quy định trong và ngoài Biển Đông. Trung Quốc vươn xa như vậy cho thấy đã không có mức phạt đủ nghiêm khắc chống lại chiến lược “lát cắt salami” mà Trung Quốc đang tăng cường ở Biển Đông.

(Nói về “Lát cắt salami”, đây vốn là thuật ngữ được phương Tây sử dụng. Tuy nhiên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có lẽ là người đầu tiên nhìn ra chiến lược này của Trung Quốc từ hơn bảy trăm năm trước, mà ông gọi là chiến lược “tằm ăn dâu”.)

Thứ hai, Mỹ cần nỗ lực gấp đôi, cả ở quy mô quốc gia và trong sự phối hợp với các nước khác có cùng chí hướng, nhằm cải thiện một nhóm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có chung ý thức về hàng hải. Cuộc khủng hoảng bãi cạn Scarborough năm 2012 lẽ ra đã được ngăn ngừa nếu Manila được thông tin tốt hơn về tương quan lực lượng trong khu vực.

Thứ ba, Mỹ cần ủng hộ việc thiết lập một đội tàu đa quốc gia nhằm phát hiện các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng trong khu vực. Một mô hình liên minh hàng hải có thể là Lực lượng hỗn hợp đặc biệt 150 (CTF 150), một nhóm quốc tế tìm cách phá vỡ các chiến dịch khủng bố tại một số hải trình đông đúc nhất thế giới quanh Vịnh Aden và Biển Đỏ. Chỉ huy lực lượng này có thể luân phiên giữa một số nước Đông Nam Á.

Mục đích cao nhất của một lực lượng hàng hải mới này là tạo một bức tường thành chống lại tình trạng gia tăng quân sự hóa tại Biển Đông và các hành động phạm pháp khác. Hơn nữa, các nước bên ngoài Đông Nam Á phụ thuộc vào hải trình qua Biển Đông, như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Pháp, Anh,… cũng có thể tham gia các chiến dịch của lực lượng này.

Trung Quốc cũng được hoan nghênh nếu chấp nhận các quy định mà lực lượng đặt ra. Hơn nữa, lực lượng này có thể giúp thực thi Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) khi nó ra đời.

Cuối cùng, đã đến lúc ngăn Trung Quốc lập luận vô nghĩa rằng Bắc Kinh tuân thủ luật hàng hải quốc tế trong khi Washington chế giễu văn kiện này. Đó là Mỹ nên phê chuẩn Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển.

Bốn bước trên chưa tạo nên một chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương toàn diện, nhưng kết hợp với nhau, chúng có thể là sự khởi đầu của một mạng lưới đối tác mạnh hơn và tạo ra phương tiện ngăn cản bất cứ quốc gia nào đơn phương đặt ra quy định cho thế giới, bài báo kết luận.

--------------------------------                                                                                                                                                                   

BÀI CŨ








No comments: