Cuộc Chiến tranh Lạnh mà Putin muốn
Andrei Kolesnikov
- Foreign
Affairs
https://nghiencuuquocte.org/2025/02/03/cuoc-chien-tranh-lanh-ma-putin-muon/
Tại
sao Nga muốn thay đổi chứ không phải chấm dứt xung đột ở Ukraine?
Ba
năm sau khi phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine, Tổng thống Nga
Vladimir Putin đang phải đối mặt với một lựa chọn đáng lo ngại. Trước công
chúng, ông tỏ ra lạc quan. Ông đã kéo đất nước mình trở lại từ vực thẳm, và bằng
các biện pháp quân sự, ông đã bảo vệ chủ quyền của đất nước mình, hay đúng hơn
là những thứ mà ông cho là thuộc chủ quyền của đất nước mình. Ông khẳng định rằng
nếu không làm vậy, nước Nga sẽ không còn tồn tại. Trong khi đó, GDP của Nga
đang tăng trưởng – tăng khoảng 4% vào năm 2024, theo số liệu chính thức – và tiền
lương không chỉ tăng mà còn rõ ràng là theo kịp giá cả dù tỷ lệ lạm phát hàng
năm hiện đang ở mức hơn 9%. Đằng sau lớp vỏ hào nhoáng này, ngân sách quân sự
đã tăng gấp đôi sau ba năm và tăng trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi nền kinh tế
quân sự; còn khu vực tiêu dùng, nơi lạm phát thậm chí còn cao hơn, lại đang trì
trệ.
Tuy
nhiên, cho đến nay, mọi thứ dường như vẫn có thể chấp nhận được đối với người
dân Nga. Điện Kremlin đã giành được nhiều quyền kiểm soát hơn đối với xã hội,
dù một số khía cạnh của cuộc sống riêng tư vẫn được phép tiếp tục diễn ra mà
không bị xáo trộn. Và bất chất cái giá phải trả tiếp tục tăng cao, cuộc chiến
dường như đang diễn ra theo ý muốn của người Nga: theo lời Putin, các lực lượng
Nga đã “giải phóng” ít nhất 189 khu định cư ở Ukraine vào năm 2024 và hệ thống
phòng không của phương Tây không có cơ hội nào để chống lại tên lửa mới nhất của
Nga. Dân số bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi vì chiến tranh, nhưng nhìn chung, những
báo cáo vui mừng vì thành công quân sự đã trở nên quá quen thuộc: theo dữ liệu
khảo sát từ Trung tâm Levada độc lập, sự ủng hộ thực sự hoặc giả tạo đối với
chiến dịch quân sự đặc biệt đã định ở mức khoảng 75% dân số, bao gồm 45% cho biết
họ hoàn toàn ủng hộ hành động quân sự và 30% ủng hộ phần nào. (Hơn một phần ba
người Nga cũng nói rằng sự trở lại Nhà Trắng của Donald Trump, người đã tuyên bố
sẽ nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, có thể là điều tốt cho Nga, nhưng số người
nghĩ rằng điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì thậm chí còn lớn hơn.)
Tuy
nhiên, trên thực tế, không phải mọi chuyện đều ổn khi Nga bước sang năm mới. Với
việc sử dụng quyền lực cứng, Putin đã đánh mất quyền lực mềm. Bằng cách cố gắng
xây dựng lại đế chế Nga, ông đang đánh mất ảnh hưởng của Nga đối với các lãnh
thổ trước đây của mình. Khi tìm cách gia tăng khoảng cách giữa biên giới của
Nga và NATO, ông đã mang lại điều ngược lại: liên minh xuyên Đại Tây Dương hiện
đang “ở ngay trước cổng,” như lời cảnh báo đầy u ám của Điện Kremlin. Mặt trận
trong nước cũng bất ổn không kém. Nền kinh tế ngày càng được cấu trúc theo cách
thiên về chiến tranh và nhà nước, và việc ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi
suất chuẩn cao ngất ngưởng là 21% – vốn cần thiết để kiểm soát lạm phát – đã đẩy
một số doanh nghiệp đến bờ vực phá sản. Bằng cách ưu tiên an ninh, Điện Kremlin
đã khiến cuộc sống của người dân Nga kém an toàn hơn: đối với nhiều người trong
số họ, cuộc sống giờ đây bao gồm việc chờ đợi máy bay không người lái của kẻ
thù đến mỗi ngày, hoặc đối với những người phản đối chiến tranh, là chờ tiếng
gõ cửa quyết định của chính quyền. Các chuẩn mực xã hội đã bị xói mòn bởi sự tầm
thường hóa bạo lực, và lòng yêu nước hiện được định nghĩa là sẵn sàng bán mình
cho chiến hào với cái giá ngày càng cao, dưới hình thức tiền thưởng nhập ngũ và
tiền lương hậu hĩnh. Sự kiểm duyệt từng hủy hoại các hãng tin tức độc lập của
Nga giờ đây lan sang cả giáo dục, sân khấu, phim ảnh, xuất bản sách, và thậm
chí cả chính trị bảo tàng. Nhiều nhóm xã hội đang bị kỳ thị và đàn áp, từ những
người di cư và nhà hoạt động dân sự đến các học giả và trí thức, những người
thường bị chỉ định là “điệp viên nước ngoài.” Khi so sánh với những người tiền
nhiệm Liên Xô của ông, Putin đang ở thế yếu: Liên Xô thời hậu Stalin tự hào về
Sputnik, còn nước Nga của Putin tự hào về Oreshnik, tên lửa siêu thanh mới nhất
của họ.
Một
vấn đề lớn hơn nữa là tương lai. Sau khi đã đưa đất nước đi xa đến thế này,
không rõ liệu Putin và đội ngũ của ông có thể quay lại được không. Việc phi
quân sự hóa nền kinh tế và giải tán lực lượng vũ trang có nguy cơ làm suy yếu hệ
thống giúp duy trì sự cai trị của ông. Dù cái giá phải trả có tăng cao, thì
Putin vẫn cần một cuộc chiến kéo dài để bảo vệ cái mà các nhà xã hội học ủng hộ
chính phủ gọi là “sự đồng thuận Donbas” – phần lớn người Nga ủng hộ hành động
quân sự và cách tiếp cận quyền lực ngày càng mang tính cá nhân của Điện
Kremlin. Và đó chính là tình thế lưỡng nan mà Putin phải đối mặt vào năm 2025:
chấm dứt chiến tranh cũng nguy hiểm như việc tiến hành nó.
ROME
THỨ BA?
Trong
những năm trước khi phát động chiến dịch đặc biệt, Putin và những người ủng hộ
ông đã hồi sinh một khái niệm cổ xưa của Nga về Rome Thứ Ba (Third Rome): sự tự
phụ rằng một nhà nước Nga lý tưởng có thể có ảnh hưởng quyết định đến một “thế
giới Nga” rộng lớn. Đế chế mới được cho là hùng mạnh đến mức có thể kiểm soát cả
những diễn biến nằm ngoài phạm vi “thế giới Nga.” Nhưng tầm nhìn đó đã bị lung
lay.
Hãy
xem xét sự sụp đổ nhanh chóng của Syria dưới thời Bashar al-Assad vào tháng 12
vừa qua. Suốt nhiều năm, việc Nga can thiệp vào Syria đã được trình bày như một
câu chuyện thành công để cho thấy rằng, giống như những người tiền nhiệm thời
Liên Xô, chế độ Putin có thể quyết định số phận của các quốc gia nằm cách Điện
Kremlin hàng nghìn dặm. Syria từ lâu đã được sử dụng để biện minh cho chủ nghĩa
bành trướng cứu thế của Nga, và cuộc chiến chống lại các phe phái đối đầu với
Assad đã cung cấp một khuôn mẫu cho chương trình tuyên truyền của Nga về
Ukraine. Câu chuyện đó giờ đã sụp đổ, dù, trong thời điểm hiện tại, nó vẫn chưa
làm lung lay tỷ lệ ủng hộ cao của Putin.
Nhưng
những tổn thất của Putin không chỉ giới hạn ở Syria. Từng là “đối tác chiến lược”
của Nga ở vùng Caucasus, Armenia – quốc gia vốn được Moscow bảo vệ và phụ thuộc
rất nhiều vào Nga trong một số lĩnh vực kinh tế – đã bị bỏ rơi trong đống tro
tàn của cuộc chiến gần đây với Azerbaijan: vào mùa thu năm 2023, Nga không thể
làm gì hơn ngoài việc đứng ngoài cuộc, khi các lực lượng Azerbaijan được trang
bị vũ khí tốt chiếm giữ vùng đất Nagorno-Karabakh của Armenia và có thể đã trục
xuất hơn 100.000 người Armenia chỉ sau một đêm. Giờ đây, Armenia đang xúc tiến
Hiến chương Đối tác Chiến lược với Mỹ và tìm cách gia nhập Liên minh Châu Âu.
Putin được cho là có “phản ứng hóa học” với Tổng thống Ilham Aliyev, nhà lãnh đạo
lâu năm của Azerbaijan, nhưng sau khi hệ thống phòng không Nga bị cáo buộc bắn
hạ một máy bay chở khách của Azerbaijan trên vùng trời Grozny vào cuối tháng
12, tình bạn của hai nhà độc tài đã bị đặt dấu hỏi nghiêm trọng. Chưa kể đến việc
Aliyev hiện đang liên kết chặt chẽ hơn nhiều với một nhân vật cứng rắn khác
trong khu vực, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan.
Thật
vậy, Thổ Nhĩ Kỳ là một vấn đề khác. Kể từ khi phương Tây áp đặt lệnh trừng phạt
toàn diện đối với Nga vào năm 2022, Điện Kremlin đã phụ thuộc vào mối quan hệ
thân thiện với Ankara để xử lý các giao dịch tài chính và đảm bảo nhiều mặt
hàng nhập khẩu cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Nhưng Thổ Nhĩ Kỳ không chịu
phục tùng: Erdogan đã lên tiếng kêu gọi trả lại Crimea cho Ukraine, và ở Syria,
ông ủng hộ lực lượng nổi dậy đã lật đổ đồng minh của Putin, Assad, và hiện đang
kiểm soát đất nước. Dù Erdogan đóng vai người bạn của Putin, thì ông cũng đã vượt
mặt Tổng thống Nga ở Damascus. Theo một chuyên gia Thổ Nhĩ Kỳ, nhiệm vụ của Thổ
Nhĩ Kỳ hiện là kiềm chế Nga ngay cả khi nước này được hưởng lợi từ sự hợp tác
thực dụng với Nga.
Kế
đến là Israel. Trong những năm qua, Putin thường xuyên gặp Thủ tướng Israel
Benjamin Netanyahu, người mà ông xem là một nhân vật cứng rắn. Đồng thời, chủ
nghĩa bài Do Thái trong lịch sử của Ukraine và di sản của cuộc diệt chủng
Holocaust ở nước này đã cho phép Putin, ít nhất là cho đến tháng 2/2022, giữ được
vị thế đạo đức cao trong mắt nhiều người Israel. Không có nhiều người Do Thái ở
Nga, và số lượng của họ đã giảm hơn nữa kể từ khi chiến tranh ở Ukraine bắt đầu:
nhiều trí thức Do Thái đã rời đi, trong khi những người ở lại đã xin hộ chiếu
Israel để phòng khi họ phải chạy trốn khỏi đất nước.
Theo
truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Nga trỗi dậy song hành với chủ nghĩa bài Do
Thái, dù kẻ thù chính hiện nay, theo tuyên truyền của Điện Kremlin, không phải
là người Do Thái và người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái mà là NATO và khối
“Anglo-Saxon” mà họ bị cáo buộc phục vụ. Tuy nhiên, thái độ của công chúng Nga
đối với người Do Thái và đặc biệt là đối với Israel đã xấu đi. Người Nga thường
không quan tâm đến số phận của người Palestine, nhưng trong những gì có vẻ là một
loại phản ứng phản xạ, những người ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến của Nga ở Ukraine
cũng có xu hướng ủng hộ Hamas và Hezbollah chống lại Israel. (Trong một cuộc khảo
sát chung của Levada và Hội đồng Chicago vào tháng 10/2024, 38% người Nga cho
biết Mỹ và các nước NATO chịu trách nhiệm lớn nhất cho tình trạng đổ máu và bất
ổn liên tục ở Trung Đông, và số người Nga nói rằng Israel phải chịu trách nhiệm
về cuộc xung đột đang diễn ra cao gần gấp ba so với những người đổ lỗi cho
Hamas và người Palestine.)
Ngay
cả những vệ tinh lâu năm của Nga cũng trở thành cơn đau đầu mới của Putin. Ví dụ
nổi bật là trường hợp nhỏ nhưng đáng kể của Abkhazia, một vùng ly khai của
Gruzia: vào tháng 11, khi phải đối mặt với một kế hoạch sẽ trao cho Nga ảnh hưởng
lớn hơn nữa đối với nền kinh tế của họ, người Abkhazia đã xông vào quốc hội và
lật đổ chính phủ của mình. Tất cả những gì Điện Kremlin có thể làm để đáp trả
là cấm nhập khẩu quýt Abkhazia và khuyên khách du lịch Nga không nên đến thăm
khu vực này.
Trong
khi đó, nhiều tổ chức đa phương mà Nga đã giúp khởi xướng trong hai thập kỷ qua
đang lung lay. BRICS, tổ chức của các cường quốc phi phương Tây mà Nga thành lập
cùng với Brazil, Trung Quốc, và Ấn Độ vào năm 2009, đã đón nhận thêm nhiều
thành viên hơn nhưng không tạo ra được nhiều kết quả hữu hình. Vấn đề là Putin
tuyên bố đang xây dựng một trật tự thế giới thay thế, nhưng trật tự thế giới đó
hoặc là tồn tại hoặc là không tồn tại. Nó không thể là trật tự thay thế, và
không thể tồn tại nếu không có phương Tây. Hơn nữa, các thành viên của BRICS và
các tổ chức khác được cho là để giữ các nước thuộc Liên Xô cũ trong quỹ đạo của
Putin có lợi ích đa phương của riêng họ và cũng muốn hợp tác với Trung Quốc,
Châu Âu, và Mỹ như với cựu đế quốc này. Không có quốc gia nào ngoài chính Nga
tuyên thệ trung thành với Rome Thứ Ba, ngay cả khi nó được trang bị đầy những
tên lửa siêu thanh mới. Tóm lại, sự bành trướng của đế chế tưởng tượng đã làm
suy yếu thay vì củng cố nhà nước lạc hậu của nhà độc tài.
BINH
LÍNH, KHÔNG PHẢI GIÁO VIÊN
Sau
một phần tư thế kỷ nắm quyền, Putin dường như ngày càng xa rời thực tế. Như một
người trong cuộc đã nhận xét, ông ấy đang “ở trong không gian.” Ông dường như
xem những khiếm khuyết cấu trúc ngày càng lớn của Nga là thành tựu chứ không phải
là dấu hiệu của tình trạng kinh tế kém cỏi. Các nhà kinh tế ước tính rằng lực
lượng lao động hiện đang thiếu khoảng 4,8 triệu người; cùng với sự suy giảm lâu
dài của dân số trong độ tuổi lao động, việc hàng trăm nghìn người “di dời” –
nghĩa là đã rời khỏi Nga kể từ năm 2022 – hoặc xuống chiến hào, đã làm cạn kiệt
thêm nguồn lao động. Không có số liệu thống kê đáng tin cậy nào về mức độ mất
mát, nhưng chúng sẽ ảnh hưởng đến nhân khẩu học và thị trường lao động của nước
này trong nhiều thập kỷ tới. Theo một số ước tính, riêng các trường học ở Nga
có thể thiếu gần nửa triệu giáo viên. Các vấn đề về nhân sự tương tự, dù ít
nghiêm trọng hơn đang hoành hành trong các lĩnh vực y tế và các lĩnh vực khác.
Nền
kinh tế dân sự đang suy yếu. Ngành xây dựng là một ví dụ điển hình: do nhu cầu
thấp và chi phí tăng vọt – giá vật liệu xây dựng đã tăng 64% từ năm 2021 đến
năm 2024 – tốc độ khởi công nhà ở mới đã chậm lại đáng kể. Các ngành công nghiệp
đang gặp khó khăn khác bao gồm vận tải hàng hóa, với tình hình bị trầm trọng
hơn do mạng lưới đường sắt chậm lại; vận tải đường bộ, với chi phí nhiên liệu
tăng và việc thiếu tài xế; khai thác khoáng sản; và nông nghiệp, vốn từng là niềm
tự hào của chế độ Putin. Nhìn chung, xuất khẩu không còn là nguồn của tăng trưởng
nữa. Tiêu dùng trong nước vẫn tiếp tục, nhưng triển vọng bị lu mờ bởi giá cả
ngày càng cao. Theo số liệu chính thức, lạm phát ở Nga vào năm 2024 là 9,52%.
Rõ ràng, để tạo sự thoải mái về mặt tâm lý cho người dân, chính phủ không muốn
lạm phát hàng năm tăng lên hai chữ số. Tuy nhiên, giá các sản phẩm trái cây và
rau quả đã tăng 22,1% và bơ tăng thậm chí còn cao hơn là 36,2%. Trong nhóm các
sản phẩm phi thực phẩm, giá dịch vụ tăng 11,5%; xăng tăng 11,1%; và thuốc men
tăng 10,6%. Không thể khẳng định rằng người dân không cảm nhận được tác động.
Bất
chấp điều đó, nền kinh tế chiến tranh vẫn hoạt động hết công suất. Thống kê chứng
minh sản xuất công nghiệp đang tăng tốc trong các lĩnh vực cung cấp hàng hóa
trung gian và linh kiện cho ngành công nghiệp quốc phòng: luyện kim, chế tạo
máy, xe cộ, thiết bị điện, máy tính, và điện tử. Chính phủ tiếp tục đổ tiền vào
lĩnh vực công nghiệp quân sự, hứa hẹn triển vọng nghề nghiệp được cải thiện và
mức lương ngày càng cao cho bất kỳ ai tham gia. Putin cần phải cho thế hệ trẻ
thấy rằng con đường dẫn đến sự nghiệp thành công nằm ở chiến tranh. Nhưng việc
liên tục điều động lực lượng đã phải trả giá đắt, theo ước tính, chính phủ hiện
phải chi tới 23 tỷ đô la một năm chỉ để thu hút tân binh. Kể từ đầu năm 2025, một
số khu vực đã bắt đầu tăng lương cho những người làm việc theo hợp đồng quân sự,
cho thấy mức độ mà “công việc” này không được ưa chuộng. Nhà nước cũng khuyến
khích người trẻ đăng ký vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp trung cấp, nơi đào tạo
các chuyên ngành mà nền kinh tế bán quân sự đang cần. Để đáp ứng nhu cầu về kỹ
sư trong tổ hợp công nghiệp quân sự, Điện Kremlin cũng đã thúc đẩy mạnh mẽ các
chuyên ngành kỹ thuật trong giáo dục đại học.
Tất
cả những điều này đã làm dấy lên nghi ngờ về việc dự trữ ngân sách của Nga có
thể duy trì chiến tranh trong bao lâu. Liệu các nguồn lực có bắt đầu cạn kiệt
vào năm 2025 hay không? Ngoài ra còn có nguy cơ xảy ra thảm họa do con người
gây ra khi chính phủ bỏ bê cơ sở hạ tầng dân sự ọp ẹp của đất nước. Tàu hỏa trật
bánh, hệ thống sưởi ấm hư hỏng, và các tai nạn về trang thiết bị khác, và máy
bay nội địa gặp sự cố đã trở nên thường xuyên đến mức đáng báo động. Vào tháng
12/2024, hai tàu chở dầu cũ kỹ của Nga chở đầy nhiên liệu đã bị hư hại nặng nề
do một cơn bão ở Eo biển Kerch, nơi ngăn cách Nga với Crimea, phun hàng nghìn tấn
dầu xuống biển và gây ra một thảm họa môi trường nghiêm trọng. Một trong hai
tàu chở dầu đã mắc cạn, và chiếc còn lại chỉ đơn giản là bị gãy làm đôi; cả hai
đều đã hoạt động trong khoảng 50 năm. Trong khi đó, tại các vùng biên giới
Belgorod và Kursk của Nga và các vùng nội địa như Tatarstan, các cuộc tấn công
bằng máy bay không người lái của Ukraine đang trở nên thường xuyên. Đối với người
dân Nga bình thường, không có điều gì trong số này tạo nên cảm giác an toàn.
THẾ
GIỚI ĐƯỢC PHÂN CHIA LẠI
Bằng
cách đặt cược mọi thứ vào chiến tranh, Putin đã khiến người Nga ngày càng mệt mỏi
với nó. Trong khối dân đã xuất hiện những dấu hiệu kiệt sức: các cuộc khảo sát
của Trung tâm Levada cho thấy phần lớn dân số rõ ràng ủng hộ các cuộc đàm phán
hòa bình, với con số đạt 57% vào tháng 11, gần với mức cao nhất kể từ khi chiến
tranh bắt đầu. (Con số giảm nhẹ xuống 54% vào tháng 12, nhưng tỷ lệ người Nga
nói rằng họ phản đối hòa bình vẫn không thay đổi trong nhiều tháng, ở mức 37%.)
Đối với phần lớn những người ủng hộ hòa bình, vẫn có hai điều kiện quan trọng:
Nga phải giữ lại “các vùng lãnh thổ mới” mà nước này đã giành được kể từ năm
2022 và Ukraine không được gia nhập NATO. Cuộc thăm dò cho thấy, nếu các điều
kiện này được đáp ứng, thì việc chấm dứt chiến tranh sẽ làm hài lòng một bộ phận
đáng kể dân số Nga, những người sẽ xem đó là một “chiến thắng.” Hy vọng về các
cuộc đàm phán hòa bình đã tăng lên sau chiến thắng bầu cử của Trump, dù cả dân
thường và giới tinh hoa đều bày tỏ sự hoài nghi về bất kỳ kết quả tức thời nào.
Vào tháng 10/2024, 37% số người được Trung tâm Levada khảo sát đồng ý với ý kiến
cho rằng việc Trump tái đắc cử sẽ tốt cho Nga, và một con số gần bằng – 33% –
cho rằng quan hệ giữa Nga và Mỹ có thể cải thiện dưới thời ông; nhưng một con số
thậm chí còn cao hơn, 46%, nói rằng kết quả của cuộc bầu cử Mỹ không quan trọng.
Dấu
hiệu về sự bất mãn của công chúng với một xã hội quân sự hóa không ngừng và với
những thách thức kinh tế không có nghĩa là người Nga đang quay lưng lại với
Putin. Nhưng chúng đã chứng minh rằng đại đa số những người ủng hộ chiến tranh
cũng nóng lòng muốn nó kết thúc. Theo nghĩa này, dư luận ở nước Nga của Putin
phải được hiểu, không phải như một khối đá nguyên khối bất động, mà là một dòng
dung nham di chuyển chậm có thể thay đổi hướng khi các yếu tố bên ngoài thay đổi.
Có lẽ đây là điều khiến Điện Kremlin lo lắng. Vào tháng 11/2024, các chuyên gia
tuyên truyền của Điện Kremlin đã thảo luận về cách có thể khiến “đa số bình
tĩnh” xem hòa bình là chiến thắng và đảm bảo rằng những người trở về từ chiến
hào sẽ được đối xử tử tế. Trong số những cựu chiến binh đó sẽ có nhiều tù nhân
của ngày hôm qua, những người chịu khuyết tật về thể chất, và những người mắc
chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương. Theo ý tưởng của Putin, những người
đã tham gia chiến đấu nên được cung cấp một con đường nhanh chóng để trở thành
quản lý thông qua một chương trình đặc biệt. Các quan chức dân sự hầu như không
vui mừng trước viễn cảnh cạnh tranh như vậy.
Nhiệm
vụ của Điện Kremlin vào năm 2025 là duy trì một dân số bình tĩnh. Điều này là cần
thiết bất kể Putin có tiếp tục cuộc chiến tiêu hao trong bối cảnh đình lạm và
thiếu hụt lao động hay không, hoặc liệu ông có cho phép một thỏa thuận hòa bình
có hiệu lực – mà không có sự đầu hàng hoàn toàn của kẻ thù – hay không,
và tìm ra những cách mới để củng cố đa số ủng hộ mình. Dù đối với Putin, việc
chấm dứt chiến dịch đặc biệt cũng sẽ tốn kém tương đương với việc duy trì nó,
nhưng vẫn có một lối thoát: ông có thể tiếp tục chiến tranh kéo dài với phương
Tây – bằng các biện pháp lạnh thay vì nóng. Điều quan trọng nhất là tránh bất kỳ
cảm giác thất bại nào, dù chỉ một phần. Nhưng vấn đề là, dù sớm hay muộn, một
cuộc chiến không hồi kết có thể tạo ra ấn tượng, nếu không phải là thất bại,
thì là trì trệ. Điều tương tự cũng có thể xảy ra với nền kinh tế quân sự hóa.
Vào năm 2025, dù có ngừng bắn hay không, thì cảm giác rằng Putin đang đứng trước
một ngã ba đường là điều không thể tránh khỏi. Ông có thể trì hoãn một thời
gian, nhưng ông còn bao nhiêu thời gian, ngay cả trong một xã hội đóng băng
trong sự thờ ơ?
Trong
ba năm qua, Nga đã bước vào giai đoạn cuối cùng trước khi một đế chế sụp đổ, một
giai đoạn mà trong những thế kỷ trước, không chỉ giúp nước này mở rộng lãnh thổ
của mình trên khắp châu Âu và châu Á mà còn khuất phục chính dân số của mình.
Đó là một kiểu tự thực dân hóa. Giờ đây, quá trình đó lại diễn ra một lần nữa
vì cuộc chiến hiện tại của Putin có hai mặt trận – bên ngoài và bên trong. Một
ý tưởng cũ hơn về nước Nga vẫn chưa bị phá hủy là trả thù những thế hệ mới, những
thế hệ vô tội đang hy sinh mạng sống của mình để theo đuổi sự vĩ đại không thể
phục hồi. Ngay cả khi đế chế tưởng tượng đang mở rộng và “trở lại mạnh mẽ hơn”
trong tâm trí của Putin và các cấp dưới của ông, thì nước Nga cũng không còn là
một thực thể đế quốc nữa.
Tuy
nhiên, một thỏa thuận hòa bình sẽ chỉ làm Putin hài lòng nếu ông ta có thể quyết
định rằng nước Nga cũ đã được khôi phục và thế giới một lần nữa được phân chia
giữa các siêu cường: một sự pha trộn giữa Munich và Yalta, một thỏa thuận mua
bán hòa bình và chính thức hóa cuộc chiến tranh lạnh mới. Nhưng đế chế Nga được
tái lập này sẽ chỉ là một đế chế ở trong đầu Putin. Nó sẽ bị từ chối ở mọi nơi
khác. Một thỏa thuận nhằm chấm dứt xung đột Ukraine vẫn còn rất xa vời, vì hai
bên có cách diễn giải rất khác nhau về những nhượng bộ cần thiết. Nhưng nếu thỏa
thuận đó trở thành sự thật, thì nó cũng không đủ để Putin chia lại châu Âu với
Trump, giữ Nga trong liên minh chặt chẽ với Trung Quốc, và tiếp tục chơi trò
chơi của mình với “đa số toàn cầu.” Để hoàn thiện bức tranh “công bằng” của
mình về thế giới, Putin cần Ukraine, chứ không phải các quốc gia vùng Baltic,
Phần Lan, hay Ba Lan. Nhưng với kiểu bành trướng đó, ông lại không có đủ nguồn
lực vật chất và nhân khẩu học, hoặc sự kiên nhẫn của người dân Nga.
Ngay
cả bây giờ, Putin đã bắt đầu có những mâu thuẫn của riêng mình – ông không xem
phần phía tây Ukraine là lãnh thổ “của mình” vì, không giống như Crimea và phần
phía đông Ukraine, về mặt văn hóa và lịch sử, nó là phương Tây và theo nghĩa
này, nó xa lạ với ông. Nếu một cuộc chiến tranh lạnh mới xảy ra, thì phương Tây
cũng có thể bước vào một kỷ nguyên kiềm chế mới. Nhưng đây là một tình huống phức
tạp hơn nhiều so với ngày xưa. Thay vì hai siêu cường chủ yếu là lý trí, thế giới
hiện đang bị ba nhà lãnh đạo khó lường và nguy hiểm bắt làm con tin: Putin,
Trump, và Tập.
-----------------------------
Andrei
Kolesnikov là thành viên Hội đồng Cố vấn Khoa học của Viện Quan hệ Quốc tế Phần
Lan.
Nguồn: Andrei Kolesnikov, “The Cold War
Putin Wants,” Foreign Affairs, 23/01/2025
No comments:
Post a Comment