VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN (biên khảo - phê bình)
Võ
Phiến
tienve.org,
2005
https://www.tienve.org/home/books/viewBooks.do?action=viewArtwork&artworkId=18196
1. Lời
nói đầu
2.
Khái quát
3.
Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Nhà văn
4.
Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Độc giả
5.
Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Xuất bản
6.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Bối cảnh
7.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & chính trị
8.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tôn giáo / triết học
9.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách cực đoan
10.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & vai trò của miền Nam
11.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách tự do
12.
Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Đối chiếu thành tích
13.
Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình trước 1954
14.
Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình từ 1954
15.
Giai đoạn 1954-1963: Văn học
16.
Giai đoạn 1964-1975: Bối cảnh
17.
Giai đoạn 1964-1975: Văn học
18.
Các bộ môn: Tiểu thuyết
19.
Các bộ môn: Tuỳ bút
20.
Các bộ môn: Thi ca
21.
Các bộ môn: Kịch
22.
Các bộ môn: Ký
23.
Kết
*****
Lời
giới thiệu:
Trong lãnh vực nghiên cứu văn học ở hải ngoại từ sau năm 1975, bộ Văn Học
Miền Nam gồm 7 tập của Võ Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và
dù mắc một số hạn chế nhất định, vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó
không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ
Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về
một nền văn học ngỡ đã bị quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với
ý nghĩa như thế, bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, đặc biệt tập
đầu, “Tổng quan”, đã được đón nhận nồng nhiệt. Cuốn sách đã được tái bản nhiều
lần.
Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, nhất là những bạn đọc ở xa các trung tâm thương
mại của người Việt ở hải ngoại, và được sự đồng ý của nhà văn Võ Phiến, Tiền Vệ
đăng lại cuốn Văn Học Miền Nam: Tổng Quan thành nhiều kỳ.
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, cuốn Văn Học
Miền Nam: Tổng Quan gồm có ba phần chính:
I. Khái quát: Trong phần này, Võ
Phiến khảo sát một số yếu tố chính trong sinh hoạt văn học miền Nam như: nhà
văn, độc giả, và xuất bản; sau đó, ông lần lượt trình bày các giai đoạn chính
và phân tích những đặc điểm nổi bật nhất; cuối cùng, đối chiếu sơ lược văn học
miền Nam với văn học miền Bắc và văn học “tiền chiến”.
II.
Các giai đoạn: Võ Phiến đi sâu vào các đặc điểm nổi bật trong từng giai đoạn:
1954-63 và 1964-75.
III.
Các bộ môn: Võ Phiến phân tích năm bộ môn chính: tiểu thuyết, tuỳ bút, thi
ca, kịch và ký. Ở mỗi bộ môn, ông cố gắng nhận điện những đặc điểm và những
thành tựu chính.
Ðể bạn đọc dễ theo dõi, mỗi kỳ chúng tôi sẽ đăng một chương. Nếu có chương quá
dài, chúng tôi tách ra làm hai hay làm ba kỳ.
Tiền
Vệ
Australia,
tháng 1/2005
*****
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN
KẾT
Trong
hai mươi năm văn học — từ cuối 1954 đến đầu 1975 — ba phần tư thời gian Miền
Nam bị chìm trong xáo trộn, trong chiến tranh. Nhưng loạn lạc không ngăn trở sự
phát triển của văn học: Ở Miền Nam Việt Nam trong thời kỳ ấy đã phát triển một
nền văn học xứng đáng về phẩm lẫn lượng.
Nhớ
hồi đầu thập kỷ 40 Nguyễn Tuân viết Ngọn đèn dầu lạc, đang ngon trớn
nói chuyện hút xách bỗng dưng tác giả nổi hứng cao giọng luận qua văn chương và
con người miền Nam: “... ở xứ nhiệt đới Nam kỳ, người trong ít làm thơ ca du
dương và hay có tính gây lộn và chém chặt nhau là phải. Khí hậu! Ảnh hưởng.”
Sau câu nhận định nọ, vào thập kỷ 50 tiếp liền theo, trong khung cảnh những cuộc
vùi dập nhau, chém chặt nhau hung tợn xảy ra hàng ngày xung quanh ông Nguyễn để
thực thi chính sách cải cách ruộng đất, thơ văn Miền Bắc có phần đóng góp lớn.
“Chém chém chém — Giết giết giết — Bàn tay không phút nghỉ” v.v... những hô hào
gào thét như thế, thứ ngôn ngữ văn chương thiếu du dương như thế, ông Nguyễn
còn lạ gì. Khi ấy, ở trong Nam (xứ nhiệt đới) là thời kỳ thơ văn của những Phạm
Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Hoàng Ngọc Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên v.v...
Du dương? Có nhiều đấy. Ngoài ra còn thêm nhiều thứ khác: thiền vị, triết vị,
thiên nhiên, nhân sự, bảy tình, đủ cả. Ngoại trừ cái chém chặt.
Cuối
thời tiền chiến, Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học ba mươi năm. Kể từ
lớp các nhà văn tiên phong cho đến lớp sau cùng, trong mọi bộ môn sáng tác bằng
văn xuôi, ông chỉ đếm được có ba tác giả trên phần đất từ vĩ tuyến 17 trở vào:
một Hồ Biểu Chánh ở Nam phần, và Thanh Tịnh với Nguyễn Vỹ ở Trung phần. Cả ba
người đều chỉ viết truyện. Ở các bộ môn kịch, ký, tùy bút: không có ai cả.
Cuối
thời 1954 – 1975, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về một bộ môn tiểu thuyết
trong hai mươi năm ở Miền Nam. Theo ông, số người viết truyện xấp xỉ hai trăm;
trong ấy trên dưới sáu chục người có giá trị. “Có giá trị”, lời lẽ nghe có phần
mông lung. Tuy nhiên, lấy ba vị kể trên làm căn cứ, thì ước lượng của ông Cao
không có gì quá đáng. Sáu chục so với ba: số lượng tiểu thuyết gia ở Miền Nam
trong vòng hai mươi năm sau nhiều gấp hai chục lần so với số lượng của ba mươi
năm trước.
Sự
phát triển ở địa hạt tiểu thuyết chưa ngoạn mục bằng ở nhiều địa hạt khác: Trước,
không hề có một ai viết kịch, viết ký, viết tùy bút; sau 1954 ở khắp các bộ môn
này, Miền Nam đều có những thành tích khả quan.
Số
văn nhân thi sĩ tăng cao, địa bàn hoạt động văn học nghệ thuật mở rộng, thể loại
văn chương phát triển thêm, mà cái sáng tác bấy giờ lại hào hứng, mạnh mẽ. Ở Miền
Bắc, trong thời kỳ hai mươi năm “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, từ 1954 đến 1975,
chỉ có 570 tác phẩm văn xuôi (gồm 397 cuốn truyện ký và 173 cuốn tiểu thuyết)
ra đời[1]. Nguyễn Hiến Lê trong Hồi ký cho
rằng ngoài Bắc “sách báo in chỉ bằng một phần năm trong Nam”, rằng “trong hai
chục năm sau ngày tiếp thu Hà Nội, không có nhà văn nào cho ra được chín, mười
tác phẩm, trung bình chỉ được một, hai”. Cùng một thời kỳ ấy, trong Nam có đến
150 nhà xuất bản in sách rầm rập theo nhịp độ tự do cạnh tranh; có tác giả như
chính ông Nguyễn Hiến Lê cho ra đời liên tiếp cả trăm nhan sách (trong đó có những
bộ nhiều cuốn tổng cộng một đôi nghìn trang). Bảo rằng hơn kém nhau theo tỉ lệ
bên một bên năm, ước lượng của ông Nguyễn quá dè dặt.
Viết
nhiều, tuy vậy, không phải lúc nào cũng hay. Nhiều có năm bảy cách nhiều. Xua
nhau viết ào ào mà thơ nào văn nấy toàn một điệu tung hô lãnh tụ ca ngợi chế độ,
tấm tắc kêu chiến sĩ ta giỏi khủng khiếp, từng đánh sụm cả hàng không mẫu hạm Mỹ
ở bến Bạch Đằng v.v..., viết mà cả “đội ngũ” văn nghệ cứ rập ràng như thế quanh
năm, thì giá trị của cái viết ít thôi.
Ở
Miền Nam, bao nhiêu dạng vẻ khác nhau tha hồ tự phô bày; các tìm tòi từ hình thức,
kỹ thuật, đến nội dung, đề tài, tha hồ xuất hiện. Thơ tự do, tiểu thuyết mới, kịch
phi lý, siêu thực, mọi xu hướng đều có kẻ say mê đeo đuổi. Những băn khoăn, trầm
tư về thân phận con người, về chế độ chính trị, về ý nghĩa cuộc sống v.v... thấm
sâu vào tác phẩm văn nghệ. Tất nhiên có những cái quá lố. Có lúc triết lý tràn
lan như một món thời thượng lộng hành; và nó bị chế giễu.
Tuy
vậy, chắc chắn nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu
người vì bất đồng ý thức hệ. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống?
sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho một nhóm lãnh đạo, tin chết vào lãnh
đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xúc
động ở Tây phương; phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một từng lớp trí thức
nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
Gác
qua mọi ý định so sánh, một nền văn học — bất luận hay dở cao thấp — tự nó vẫn
quí, vẫn đáng trân trọng ở chỗ nó phản ảnh cái sinh hoạt của dân tộc vào một thời
nào đó, ở một nơi nào đó. Ngoại trừ trường hợp bị chế độ độc tài điều khiển chặt
chẽ một chủ trương gian dối, xuyên tạc sự thực, thì văn học luôn phản ảnh sinh
hoạt: Sinh hoạt vật chất và tinh thần, sinh hoạt trí thức và tình cảm. Qua tác
phẩm văn nghệ chúng ta bắt được hình ảnh của người dân xứ ta các thời trước, họ
đã từng ăn ở làm lụng sinh sống ra sao, buồn vui yêu ghét ra sao. Từ cốt cách
hào hùng Lý Thường Kiệt, nét thanh cao của Nguyễn Trãi, đến cái mười thương chất
phác của anh nông dân, mỗi mỗi đều ghi dấu trong văn thơ. Mất đi một văn phẩm
là mất dấu một cốt cách.
Mới
đây một hôm đọc cuốn hồi ký của ông Huỳnh Văn Lang xuất bản năm 1999 ở Hoa Kỳ,
thấy có câu chuyện xảy ra ở nhà lao Tam Hiệp (tại Biên Hòa). Ông Huỳnh năm ấy
(1965) bị giam cầm một thời gian. Tù được người nhà thăm nuôi mỗi tháng hai lần.
Nhiều tù nhân giữ quần áo dơ lại, chờ hai tuần một lần gửi người nhà đem về giặt,
kỳ thăm sau đem lại. Anh bạn tù nằm cạnh ông Huỳnh, trước khi vợ vào thăm lại tự
mình giặt đồ cho sạch, chờ trao vợ mang về, mặc qua để lấy hơi trước khi đem
vào trả cho chồng. Anh ta giải thích: “Không có hơi hám của vợ, tôi không làm
sao ngủ được.” Ối! Đưa hơi vào tù để chồng đêm đêm an giấc ngủ, tất nhiên là
quá cỡ; mà nguyên một chuyện mang quần áo tù về giặt gỵa đều đều, thăm nuôi như
vậy không phải quá ra rít sao? Vợ chồng ra rít là một chuyện, chế độ lao tù này
cũng có thể thêm vào một cái để suy nghĩ nữa.
Chốn
lao tù còn thế, ngoài xã hội tự do, trong các gia đình ắt còn đậm đà hơn. Quả
có vậy. Trong nhiều cuốn truyện của Nhã Ca, của Doãn Quốc Sỹ, những cha mẹ, con
cái, chú cháu, chị em quấn quít nhau, đùa giỡn với nhau, thật rộn ràng. Anh con
trai (trong truyện của Nhã Ca) ngoài mặt trận viết thư về mẹ, nhắc tới “ông già
Tây đen bạn thân của mẹ” (tức ống kem đánh răng Hynos), thư về cho cha hỏi thăm
các cô ở sở của ba đã có cô nào lên cân bằng mẹ chưa. Đám trẻ trong xóm hẻm
Thành Thái (truyện của Doãn Quốc Sỹ) vây lấy ông chú giáo sư đại học để hát ghẹo:
“Vợ chú Ba trông giống đầm tây, vợ chú Ba cổ cao ba ngấn tóc mây rậm rì” v.v...
Ai nấy hồn nhiên, ăn nói tự do thân mật. Họ khác hẳn các nhân vật tiểu thuyết
thời Nhất Linh Khái Hưng, nhất là nhân vật của Nguyễn Tuân chẳng hạn. Vào thời
54-75, ảnh hưởng Nho giáo đã phai lạt nhiều, những tai biến khôn lường liên tiếp
xảy đến trong hoàn cảnh bất an của đất nước, làm cho mối thâm tình giữa các
thành phần trong gia đình càng thêm nồng nàn, các hình thức tôn ti lễ mễ được
loại bỏ dần. Cái độ “ấm” trong các tổ ấm Việt Nam xưa nay dễ không bao giờ được
thế.
Tình
gia đình như vậy, tình nam nữ cũng trải qua những thay đổi sâu xa. Cho đến Tố
Tâm – Đạm Thủy, trai gái yêu nhau bằng con tim. Qua thời Nhất Linh, chàng
Trương đê mê với chiếc áo lót của cô Thu, ông Giáo Đông Công Ích Tin Lành chịu
cái mùi của chiếc khăn cô Bé; nhưng về phía nữ thì các cô vẫn còn dè dặt, còn nặng
về cảm xúc mà úy kỵ cảm giác. Vào thời Nguyễn Thị Hoàng, cô giáo Trâm yêu “thằng”
Minh, cô đã để các giác quan của cô phát biểu mạnh mẽ: người nữ đã phát giác ra
cái yêu bằng mũi bằng mắt.
Mặt
khác, trong hoàn cảnh chiến tranh, mỗi nơi mỗi lúc con người cũng có tâm lý
khác nhau, thái độ khác nhau. Cái quyết liệt của những chiến sĩ gọi phi cơ dội
bom xuống ngay đầu mình như đã xảy ra tại đồn Dakseang theo lời thuật lại của
phi công Lê Xuân Nhị; cái oái oăm trong trường hợp những người lính trở về hành
quân ngay nơi làng quê của mình, hướng mũi súng vào chính xóm nhà của mình, chạy
vào làng bồng lấy đứa cháu đeo nó theo trên lưng trước giờ khai hỏa trên trang
sách Phan Nhật Nam; tâm trạng lạ lùng của người binh sĩ trong một cuộc chiến
tranh ý thức hệ, cuộc chiến trên quê hương giữa đôi bên cùng một nòi giống, trước
giờ lâm trận kẻ bên này thầm gọi người phía kia là “chú mày” trong những câu
thơ Nguyễn Bắc Sơn v.v...
Chao
ôi, bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu nông nỗi của một thời!
Nhất
là khi nó được phản ảnh trung thành, chân thực trong văn chương. Phản ảnh tự
do.
Ở
ta, không cứ trong những thời gian ngoại thuộc, mà ngay lúc nước nhà độc lập,
ngay dưới các chế độ dân chủ cộng hòa, cộng hòa xã hội, vẫn chưa từng có tự do
phát biểu. Được ban phát rộng rãi nhất thường chỉ có một cái tự do ca ngợi bề
trên.
Nhưng
ở Miền Nam, giữa chiến thời, trên sách báo vẫn nở rộ những tràng cười sảng
khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa giỡn những phần tử xấu xa. Những phần
tử ấy không thuộc hạng Xã Xệ – Lý Toét: Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế
bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh
cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp
cùng trên mặt sách báo. Mặt khác, những mất mát, lo lắng, đau đớn, kinh hoàng,
đều tha hồ bày tỏ, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao
thâm có, mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, đều được phô bày. Trước và sau thời
54-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên nước ta văn học được phát triển
trong hoàn cảnh cởi mở như vậy.
Cái
sinh hoạt của một thời như thế rồi bị xóa lấp dấu vết trong lịch sử dân tộc; nền
văn học nghệ thuật đã phản ảnh cái sinh hoạt ấy, phản ảnh cái tâm tình cùng suy
tưởng của hơn hai chục triệu người rồi bị chôn vùi, do chính người mình hủy diệt
ngay trên đất nước mình: chuyện thật quái dị. Vậy mà chuyện quái dị cứ xảy ra.
Phân
tranh và chiến tranh Nam Bắc, ở nước ta sự việc ấy không phải chỉ xảy ra một lần.
Trước kia, sau khi Trịnh thắng Nguyễn, Lê Quí Đôn được cử vào Thuận Hóa. Ở đây
sáu tháng, ông vừa lo việc quan vừa viết sách. Trong cuốn Phủ biên tạp
lục ông chê vua chúa Nguyễn chểnh mảng việc giáo dục, không biết chuộng
văn học, nhưng ông cho rằng văn nhân trong Nam “Văn mạch một phương, dằng dặc
không dứt, thực đáng khen lắm.” Ông khen chung chung, rồi ông lại cẩn thận tìm
hiểu mà khen từng người: Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh, Mạc Thiên Tứ, Nguyễn
Quang Tiền, Trần Thiên Lộc... Ông sưu tầm ghi chép, thơ văn mỗi người để lưu lại
đời sau. Thậm chí có kẻ như Ngô Thế Lân quyết ẩn cư, mời mãi không chịu đến,
ông vẫn không tiếc lời xưng tụng.
Hầu
hết những kẻ được Lê Quí Đôn nêu cao tên tuổi, trân trọng tác phẩm, là những kẻ
từng có địa vị cao quan tước lớn, từng có công với các chúa Nguyễn, tức từng là
đối địch của ông Lê.
Đối
phương với đối phương, thái độ của Lê Quí Đôn hai trăm năm trước (1775) là thế.
Và hai trăm năm sau, giả sử hồi 1975 mà Nam thắng Bắc, thiết tưởng đối với văn
nhân và văn học Miền Bắc nhà cầm quyền Miền Nam cũng có thể, rất có thể, học
theo thái độ Lê Quí Đôn.
Hãy
tưởng tượng: Những thứ truyện Người mẹ cầm súng, Sống như anh (được
ông Phạm Văn Sĩ trằm trồ như danh phẩm), những truyện bịa anh này chị nọ mẹ kia
đánh giặc giỏi, bịa đặt thô sơ dễ dãi, những thơ “đầu lòng con gọi”, “con quì
trước Bác mênh mông” v.v..., những loại tác phẩm nghệ thuật như vậy, chính quyền
chiến thắng có cần phải vội vàng thu giấu, tiêu hủy không? những văn nhân nghệ
sĩ từng theo sự dìu dắt mà lập sự nghiệp như thế có cần phải tóm cổ nhốt tù cấp
kỳ không? Chắc chắn không cần thiết đâu. Và không cần thiết phải xúi giục cán bộ
dưới quyền viết bài xuyên tạc phỉ báng đâu. Cũng như báo chí Nhân Văn –
Giai Phẩm, cũng như bao nhiêu thơ truyện của Phan Khôi, Trần Dần... đều nên
phục hồi cả. Mọi thứ tha hồ được phơi bày y nguyên trước sự phán đoán của thiên
hạ đời đời.
Nhà
cầm quyền Miền Nam có gì để ngần ngại? Cái xấu cái sai, những vết tích thương
đau trong đời sống tinh thần dân tộc dưới một thời mê muội bạo tàn, há dám coi
thường mà để phôi pha? Còn những phản ứng can trường dưới sự áp bức, dĩ nhiên
càng nên trân trọng giữ gìn.
Vậy
mà tại Miền Nam Việt Nam vào cuối thế kỷ XX đã xảy ra một trận tiêu diệt văn học.
Việc làm ấy có liên lụy đến mạng người, đến xương máu. Hăm ba năm sau ngày Miền
Nam sụp đổ, tạp chí Khởi Hành (ở California), số tháng 4-1998,
đăng một danh sách dài những văn nghệ sĩ đã mất mạng từ 30-4-1975 đến nay, và
cho rằng trong vòng trên hai mươi năm qua số người bị sát hại nhiều hơn trong
trăm năm Pháp thuộc. Trăm năm đô hộ của giặc Tây thì thế; lại còn trong nghìn
năm đô hộ của giặc Tàu, liệu có sử gia nào liệt kê được một bản danh sách nạn
nhân dài bằng danh sách này chăng?
Mạng
người là quí, đã mất là mất vĩnh viễn. Một nền văn học đã mất vẫn còn hi vọng
được phục hồi, đã trót bị dìm vào cố ý quên lãng còn có thể được cố gắng nhớ lại
phần nào.
Sách
này không phải viết để chống quên. Sách không mong có khả năng ấy. Một tập tổng
quan, cái chứa của nó có là bao; mà cả bộ dăm bảy cuốn sách cũng chẳng trình
bày được gì đáng kể. Cuộc sống vật chất và tinh thần của dân tộc (hay một nửa
phần dân tộc) nó phản ảnh trong mọi công trình văn nghệ một thời, trong nghìn vạn
pho sách lớn nhỏ dày mỏng một thời thuộc đủ môn loại. Hình ảnh của một thời, ai
mà độc lực thu gọn được? Sách một thời cần được khôi phục đầy đủ.
Vậy
không có sách chống “quên”. Chẳng qua sách chỉ mong nêu lên cái ý chống quên.
Cái ý muốn rằng người Việt Nam hãy đừng “quên” mất một mảng đời Việt Nam.
Viết
xong tại Los Angeles tháng 5-1986
Sửa
và thêm, tháng 7-1999
-----------
Đã
đăng:
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [1. Lời nói đầu]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [2. Khái quát]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [3. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Nhà văn]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [4. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Độc giả]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [5. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Xuất bản]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [6. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Bối cảnh]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [7. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học
& chính trị]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [8. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học
& tôn giáo / triết học]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [9. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học
& tính cách cực đoan]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [10. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học
& vai trò của miền Nam]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [11. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học
& tính cách tự do]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [12. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Đối
chiếu thành tích]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [13. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình trước
1954]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [14. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình từ 1954]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [15. Giai đoạn 1954-1963: Văn học]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [16. Giai đoạn 1964-1975: Bối cảnh]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [17. Giai đoạn 1964-1975: Văn học]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [18. Các bộ môn: Tiểu thuyết]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [19. Các bộ môn: Tuỳ bút]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [20. Các bộ môn: Thi ca]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [21. Các bộ môn: Kịch]
VĂN
HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [22. Các bộ môn: Ký]
_________________________
[1]Phan Cự Đệ, tạp
chí Văn Nghệ, số ra ngày 8-12-1985.
***
TienVe - Tiền
Vệ
https://tienve.org/home/activities/viewActivities.do;jsessionid=49BA27CD3E3323CA75A4139E1122AF2C