Wednesday, May 21, 2025

TÌNH CA SAU 1975 | TRÚC HỒ MUSIC | 4K PROGRAM | WWW.TRUCHOMUSIC.COM (SBTNOfficial)

 



 

TÌNH CA SAU 1975 | Trúc Hồ Music | 4K Full Program | www.truchomusic.com

SBTNOfficial

Sep 18, 2022

https://www.youtube.com/watch?v=dSAAK4HwHEs

 

187,825 views Premiered Sep 18, 2022 #TrucHoMusic #SBTN #SBTNgo

Trúc Hồ Music trân trọng giới thiệu

Tình Ca Sau 75 - Love Songs After 1975

 

Producer: Trúc Hồ

Director: Pierre SeguinSeguin

Production manager: Guy Conger

Scenic designer: John Calkins

Lighting designer: Mark Matzkanin

Technical director: HBN

Sound Engineer: Hiền Vũ

Music arrangers: Sỹ Đan, Trúc Sinh, Trúc Hồ, Mai Thanh Sơn

 

0:00:00 TỪ TIẾNG HÁT TIẾP NỐI | TRÌNH BÀY: CÁC CA SĨ & CA ĐOÀN NGÀN KHƠI | SÁNG TÁC: TRẦM TỬ THIÊNG | HÒA ÂM: TRÚC HỒ

0:13:26 10 NĂM TÌNH CŨ | TRÌNH BÀY: LÂM NHẬT TIẾN | SÁNG TÁC: TRẦN QUẢNG NAM | HÒA ÂM: SỸ ĐAN

0:22:24 RIÊNG MỘT GÓC TRỜI | TRÌNH BÀY: DIỄM LIÊN | SÁNG TÁC: NGÔ THỤY MIÊN | HÒA ÂM: MAI THANH SƠN

0:34:24 ANH LÀ TIA NẮNG TRONG EM | TRÌNH BÀY: NINI & VINA UYỂN MI | SÁNG TÁC: TRÚC SINH & LÊ ĐỨC LONG | HÒA ÂM: TRÚC SINH

0:40:21 DĨ VÃNG | TRÌNH BÀY: PHILIP HUY | SÁNG TÁC: TRỊNH NAM SƠN | HÒA ÂM: SỸ ĐAN REFLECT | SÁNG TÁC & TRÌNH BÀY: BEE UYÊN PHƯƠNG

0:53:18 VINH DANH BEE UYÊN PHƯƠNG (NEW ARTIST OF THE YEAR 2021)

0:59:37 VÙNG BIỄN VẮNG | TRÌNH BÀY: SỸ ĐAN | SÁNG TÁC: SỸ ĐAN | HÒA ÂM: SỸ ĐAN 1:08:57 ANH CÒN YÊU EM | TRÌNH BÀY: NGUYÊN KHANG | THƠ: PHAN THÀNH TÀI | NHẠC: ANH BẰNG | HÒA ÂM: TRÚC HỒ

1:15:38 10 NĂM YÊU EM | TRÌNH BÀY: THẾ SƠN | SÁNG TÁC: TRẦM TỬ THIÊNG | HÒA ÂM: TRÚC HỒ

1:21:56 KHÁT KHAO YÊU | TRÌNH BÀY: ANGEL GIA HÂN | SÁNG TÁC: SỸ ĐAN | HÒA ÂM: SỸ ĐAN

1:27:11 TIỄN ĐƯA | TRÌNH BÀY: TUẤN VŨ | THƠ: ĐẶNG HIỀN | NHẠC: LÊ ĐỨC LONG | HÒA ÂM: TRÚC SINH

1:37:58 HELLO, LOST EYES | TRÌNH BÀY: LILIAN & SỸ ĐAN | NHẠC: TRÚC HỒ | LỜI: LALA, LÝ BẠCH, THỤC MINH, TRÚC HỒ | HÒA ÂM: TRÚC HỒ

1:45:17 ĐỪNG XA EM ĐÊM NAY | TRÌNH BÀY: TÚ ANH | SÁNG TÁC: ĐỨC HUY | HÒA ÂM: MAI THANH SƠN

1:54:14 CHO EM QUÊN TUỔI NGỌC | TRÌNH BÀY: AVY | SÁNG TÁC: LAM PHƯƠNG | HÒA ÂM: SỸ ĐAN

2:00:56 DAYS AND NIGHTS OF MISSING YOU | TRÌNH BÀY: ĐOÀN PHI | SÁNG TÁC: TRÚC HỒ & SHAYLA | HÒA ÂM: SỸ ĐAN

2:07:25 CÒN GÌ NỮA ĐÂU | TRÌNH BÀY: MAI THANH SƠN | SÁNG TÁC: MAI THANH SƠN | HÒA ÂM: MAI THANH SƠN

2:11:05 VINH DANH LÊ VĂN KHOA (LIFETIME ACHIEVEMENT)

2:20:53 NHỚ EM | TRÌNH BÀY: NGỌC HÀ | SÁNG TÁC: LÊ VĂN KHOA | HÒA ÂM: LÊ VĂN KHOA

2:27:07 TRÚC ĐÀO | TRÌNH BÀY: ĐÀO TRÍ LỘC | THƠ: NGUYỄN TẤT NHIÊN | NHẠC: ANH BẰNG | HÒA ÂM: TRÚC SINH

2:32:16 RONG RÊU | TRÌNH BÀY: ANH TUẤN | SÁNG TÁC: NGUYỄN TÂM | HÒA ÂM: TRÚC SINH

2:36:35 VINH DANH NAM LỘC (LIFETIME ACHIEVEMENT)

2:56:11 TÌNH YÊU TÌNH NGƯỜI | TRÌNH BÀY: THẾ SƠN, AVY & CA ĐOÀN NGÀN KHƠI | SÁNG TÁC: TRÚC HỒ | HÒA ÂM: TRÚC HỒ

 

Ủng hộ TRÚC HỒ MUSIC - Bảo tồn âm nhạc Việt Nam tại hải ngoại

Mail: P.O Box 127, Garden Grove, CA 92843

Credit Card: www.benemdangcota.com

Paypal: info@benemdangcota.com

Venmo: @truchomusicinc | (657) 263-8775

Patreon: patreon.com/TrucHoMusic

Youtube membership: Bấm vào JOIN để vào Youtube membership

    / truchomusicinc  

Để mua sản phẩm của Trúc Hồ Music: www.truchomusic.com

 

Subscribe - Ghi Danh TRUC HO MUSIC Channel: https://bit.ly/3b5Vs4L

 

Follow TRÚC HỒ MUSIC - Nghe nhạc từ Trúc Hồ Music miễn phí

Spotify: https://open.spotify.com/artist/70REu..

Apple Music:    / artist  

 

Amazon Music: https://music.amazon.com/artists/B09B..

 

Tidal Music: https://tidal.com/browse/artist/27420008

 

Youtube Music: https://www.youtube.com/channel/UC6We...

 

© Truc Ho Music Inc., All Rights Reserved. \

 

#TrucHoMusic #SBTN #SBTNgo

 

Quý vị hãy ủng hộ SBTN bằng cách liên lạc với các hãng Cable địa phương hoặc Directv ở số 1 866 687 7109 để bắt đài SBTN hoặc có thể xem SBTN qua hệ thống SBTN GO với giá $9.99 một tháng hoặc $99.99 một năm. Xin hãy vào trang nhà WWW.SBTNGO.COM để biết thêm chi tiết. Quý vị có thể download SBTN Go App trên Iphone, Ipad, Android phone, Chromecast, Apple TV, Android TV, Amazon Fire TV, Roku TV và Xbox One.

 

Những sản phẩm lưu niệm của SBTN. quý vị có thể mua ủng hộ để chúng tôi tiếp tục gìn giữ và bảo tồn văn hóa Việt Nam tại hải ngoại. www.sbtnhomeshopping.com  https://teespring.com/stores/sbtn

#SBTN #SBTNgo

 

 

 




PLAYLIST HÀNH TRÌNH 50 NĂM | ĐÊM THẮP NẾN & LỄ TƯỞNG NIỆM 50 NĂM 30/4/1975 (TRÚC HỒ MUSIC)

 



Playlist Hành Trình 50 Năm | Đêm Thắp Nến & Lễ Tưởng Niệm 50 Năm 30/4/1975

TRÚC HỒ MUSIC

10K views 1 day ago

New

May 18, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=t_20DOI67xs

 

10,168 views Premiered May 18, 2025 #TrucHoMusic #SBTNgo #SBTN

Ủng hộ TRÚC HỒ MUSIC - Bảo tồn âm nhạc Việt Nam tại hải ngoại

Mail: P.O Box 127, Garden Grove, CA 92843

Credit Card: www.benemdangcota.com

Paypal: info@benemdangcota.com

Zelle: (657) 263-8775

Venmo: @truchomusicinc | (657) 263-8775

Patreon: patreon.com/TrucHoMusic Y

outube membership: Bấm vào JOIN để vào Youtube membership

    / truchomusicinc  

Để mua sản phẩm của Trúc Hồ Music: www.truchomusic.com

 

Subscribe - Ghi Danh TRUC HO MUSIC Channel: https://bit.ly/3b5Vs4L

 

Follow TRÚC HỒ MUSIC - Nghe nhạc từ Trúc Hồ Music miễn phí

Spotify: https://open.spotify.com/artist/70REu...

Apple Music:    / trúc-hồ-music  

Amazon Music: https://music.amazon.com/artists/B09B...

Tidal Music: https://tidal.com/browse/artist/27420008

Youtube Music:     / trúc hồ - topic  

© Truc Ho Music Inc., All Rights Reserved.

 

#TrucHoMusic #SBTN #SBTNgo

TRÚC HỒ MUSIC

101K subscribers

 

 





HÀNH TRÌNH NỬA THẾ KỶ / 1975-2025 : PHAN NHẬT NAM / KIM NHUNG SHOW (SBTNOfficial)

 



Hành Trình Nửa Thế Kỷ (1975 - 2025): PHAN NHẬT NAM | Kim Nhung Show

SBTNOfficial

May 17, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=Ha_VrjzV-0Q

 

3,271 views Premiered May 17, 2025 #SBTNgo #SBTN

 

 

NGHE & XEM >>>>>   

 

 

 





VĂN HỌC MIỀN NAM : TỔNG QUAN  (Võ Phiến | Tiền Vệ)

 



VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN  (biên khảo - phê bình) 

Võ Phiến
tienve.org, 2005

https://www.tienve.org/home/books/viewBooks.do?action=viewArtwork&artworkId=18196

 

1. Lời nói đầu

 

2. Khái quát

 

3. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Nhà văn

 

4. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Độc giả

 

5. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Xuất bản

 

6. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Bối cảnh

 

7. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & chính trị

 

8. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tôn giáo / triết học

 

9. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách cực đoan

 

10. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & vai trò của miền Nam

 

11. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách tự do

 

12. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Đối chiếu thành tích

 

13. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình trước 1954

 

14. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình từ 1954

 

15. Giai đoạn 1954-1963: Văn học

 

16. Giai đoạn 1964-1975: Bối cảnh

 

17. Giai đoạn 1964-1975: Văn học

 

18. Các bộ môn: Tiểu thuyết

 

19. Các bộ môn: Tuỳ bút

 

20. Các bộ môn: Thi ca

 

21. Các bộ môn: Kịch

 

22. Các bộ môn: Ký

 

23. Kết

 

                                                             *****

 

 

Lời giới thiệu:

 

        Trong lãnh vực nghiên cứu văn học ở hải ngoại từ sau năm 1975, bộ Văn Học Miền Nam gồm 7 tập của Võ Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và dù mắc một số hạn chế nhất định, vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa như thế, bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu, “Tổng quan”, đã được đón nhận nồng nhiệt. Cuốn sách đã được tái bản nhiều lần.

 

        Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, nhất là những bạn đọc ở xa các trung tâm thương mại của người Việt ở hải ngoại, và được sự đồng ý của nhà văn Võ Phiến, Tiền Vệ đăng lại cuốn Văn Học Miền Nam: Tổng Quan thành nhiều kỳ.

 

        Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, cuốn Văn Học Miền Nam: Tổng Quan gồm có ba phần chính:

 

        I. Khái quát: Trong phần này, Võ Phiến khảo sát một số yếu tố chính trong sinh hoạt văn học miền Nam như: nhà văn, độc giả, và xuất bản; sau đó, ông lần lượt trình bày các giai đoạn chính và phân tích những đặc điểm nổi bật nhất; cuối cùng, đối chiếu sơ lược văn học miền Nam với văn học miền Bắc và văn học “tiền chiến”.

 

        II. Các giai đoạn: Võ Phiến đi sâu vào các đặc điểm nổi bật trong từng giai đoạn: 1954-63 và 1964-75.

 

        III. Các bộ môn: Võ Phiến phân tích năm bộ môn chính: tiểu thuyết, tuỳ bút, thi ca, kịch và ký. Ở mỗi bộ môn, ông cố gắng nhận điện những đặc điểm và những thành tựu chính.

 

        Ðể bạn đọc dễ theo dõi, mỗi kỳ chúng tôi sẽ đăng một chương. Nếu có chương quá dài, chúng tôi tách ra làm hai hay làm ba kỳ.

 

Tiền Vệ

Australia, tháng 1/2005

 

                                                           *****

 

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

 

KẾT

 

Trong hai mươi năm văn học — từ cuối 1954 đến đầu 1975 — ba phần tư thời gian Miền Nam bị chìm trong xáo trộn, trong chiến tranh. Nhưng loạn lạc không ngăn trở sự phát triển của văn học: Ở Miền Nam Việt Nam trong thời kỳ ấy đã phát triển một nền văn học xứng đáng về phẩm lẫn lượng.

 

Nhớ hồi đầu thập kỷ 40 Nguyễn Tuân viết Ngọn đèn dầu lạc, đang ngon trớn nói chuyện hút xách bỗng dưng tác giả nổi hứng cao giọng luận qua văn chương và con người miền Nam: “... ở xứ nhiệt đới Nam kỳ, người trong ít làm thơ ca du dương và hay có tính gây lộn và chém chặt nhau là phải. Khí hậu! Ảnh hưởng.” Sau câu nhận định nọ, vào thập kỷ 50 tiếp liền theo, trong khung cảnh những cuộc vùi dập nhau, chém chặt nhau hung tợn xảy ra hàng ngày xung quanh ông Nguyễn để thực thi chính sách cải cách ruộng đất, thơ văn Miền Bắc có phần đóng góp lớn. “Chém chém chém — Giết giết giết — Bàn tay không phút nghỉ” v.v... những hô hào gào thét như thế, thứ ngôn ngữ văn chương thiếu du dương như thế, ông Nguyễn còn lạ gì. Khi ấy, ở trong Nam (xứ nhiệt đới) là thời kỳ thơ văn của những Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Hoàng Ngọc Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên v.v... Du dương? Có nhiều đấy. Ngoài ra còn thêm nhiều thứ khác: thiền vị, triết vị, thiên nhiên, nhân sự, bảy tình, đủ cả. Ngoại trừ cái chém chặt.

 

Cuối thời tiền chiến, Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học ba mươi năm. Kể từ lớp các nhà văn tiên phong cho đến lớp sau cùng, trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi, ông chỉ đếm được có ba tác giả trên phần đất từ vĩ tuyến 17 trở vào: một Hồ Biểu Chánh ở Nam phần, và Thanh Tịnh với Nguyễn Vỹ ở Trung phần. Cả ba người đều chỉ viết truyện. Ở các bộ môn kịch, ký, tùy bút: không có ai cả.

 

Cuối thời 1954 – 1975, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về một bộ môn tiểu thuyết trong hai mươi năm ở Miền Nam. Theo ông, số người viết truyện xấp xỉ hai trăm; trong ấy trên dưới sáu chục người có giá trị. “Có giá trị”, lời lẽ nghe có phần mông lung. Tuy nhiên, lấy ba vị kể trên làm căn cứ, thì ước lượng của ông Cao không có gì quá đáng. Sáu chục so với ba: số lượng tiểu thuyết gia ở Miền Nam trong vòng hai mươi năm sau nhiều gấp hai chục lần so với số lượng của ba mươi năm trước.

 

Sự phát triển ở địa hạt tiểu thuyết chưa ngoạn mục bằng ở nhiều địa hạt khác: Trước, không hề có một ai viết kịch, viết ký, viết tùy bút; sau 1954 ở khắp các bộ môn này, Miền Nam đều có những thành tích khả quan.

 

Số văn nhân thi sĩ tăng cao, địa bàn hoạt động văn học nghệ thuật mở rộng, thể loại văn chương phát triển thêm, mà cái sáng tác bấy giờ lại hào hứng, mạnh mẽ. Ở Miền Bắc, trong thời kỳ hai mươi năm “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, từ 1954 đến 1975, chỉ có 570 tác phẩm văn xuôi (gồm 397 cuốn truyện ký và 173 cuốn tiểu thuyết) ra đời[1]. Nguyễn Hiến Lê trong Hồi ký cho rằng ngoài Bắc “sách báo in chỉ bằng một phần năm trong Nam”, rằng “trong hai chục năm sau ngày tiếp thu Hà Nội, không có nhà văn nào cho ra được chín, mười tác phẩm, trung bình chỉ được một, hai”. Cùng một thời kỳ ấy, trong Nam có đến 150 nhà xuất bản in sách rầm rập theo nhịp độ tự do cạnh tranh; có tác giả như chính ông Nguyễn Hiến Lê cho ra đời liên tiếp cả trăm nhan sách (trong đó có những bộ nhiều cuốn tổng cộng một đôi nghìn trang). Bảo rằng hơn kém nhau theo tỉ lệ bên một bên năm, ước lượng của ông Nguyễn quá dè dặt.

 

Viết nhiều, tuy vậy, không phải lúc nào cũng hay. Nhiều có năm bảy cách nhiều. Xua nhau viết ào ào mà thơ nào văn nấy toàn một điệu tung hô lãnh tụ ca ngợi chế độ, tấm tắc kêu chiến sĩ ta giỏi khủng khiếp, từng đánh sụm cả hàng không mẫu hạm Mỹ ở bến Bạch Đằng v.v..., viết mà cả “đội ngũ” văn nghệ cứ rập ràng như thế quanh năm, thì giá trị của cái viết ít thôi.

 

Ở Miền Nam, bao nhiêu dạng vẻ khác nhau tha hồ tự phô bày; các tìm tòi từ hình thức, kỹ thuật, đến nội dung, đề tài, tha hồ xuất hiện. Thơ tự do, tiểu thuyết mới, kịch phi lý, siêu thực, mọi xu hướng đều có kẻ say mê đeo đuổi. Những băn khoăn, trầm tư về thân phận con người, về chế độ chính trị, về ý nghĩa cuộc sống v.v... thấm sâu vào tác phẩm văn nghệ. Tất nhiên có những cái quá lố. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời thượng lộng hành; và nó bị chế giễu.

 

Tuy vậy, chắc chắn nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì bất đồng ý thức hệ. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống? sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho một nhóm lãnh đạo, tin chết vào lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xúc động ở Tây phương; phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một từng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.

 

Gác qua mọi ý định so sánh, một nền văn học — bất luận hay dở cao thấp — tự nó vẫn quí, vẫn đáng trân trọng ở chỗ nó phản ảnh cái sinh hoạt của dân tộc vào một thời nào đó, ở một nơi nào đó. Ngoại trừ trường hợp bị chế độ độc tài điều khiển chặt chẽ một chủ trương gian dối, xuyên tạc sự thực, thì văn học luôn phản ảnh sinh hoạt: Sinh hoạt vật chất và tinh thần, sinh hoạt trí thức và tình cảm. Qua tác phẩm văn nghệ chúng ta bắt được hình ảnh của người dân xứ ta các thời trước, họ đã từng ăn ở làm lụng sinh sống ra sao, buồn vui yêu ghét ra sao. Từ cốt cách hào hùng Lý Thường Kiệt, nét thanh cao của Nguyễn Trãi, đến cái mười thương chất phác của anh nông dân, mỗi mỗi đều ghi dấu trong văn thơ. Mất đi một văn phẩm là mất dấu một cốt cách.

 

Mới đây một hôm đọc cuốn hồi ký của ông Huỳnh Văn Lang xuất bản năm 1999 ở Hoa Kỳ, thấy có câu chuyện xảy ra ở nhà lao Tam Hiệp (tại Biên Hòa). Ông Huỳnh năm ấy (1965) bị giam cầm một thời gian. Tù được người nhà thăm nuôi mỗi tháng hai lần. Nhiều tù nhân giữ quần áo dơ lại, chờ hai tuần một lần gửi người nhà đem về giặt, kỳ thăm sau đem lại. Anh bạn tù nằm cạnh ông Huỳnh, trước khi vợ vào thăm lại tự mình giặt đồ cho sạch, chờ trao vợ mang về, mặc qua để lấy hơi trước khi đem vào trả cho chồng. Anh ta giải thích: “Không có hơi hám của vợ, tôi không làm sao ngủ được.” Ối! Đưa hơi vào tù để chồng đêm đêm an giấc ngủ, tất nhiên là quá cỡ; mà nguyên một chuyện mang quần áo tù về giặt gỵa đều đều, thăm nuôi như vậy không phải quá ra rít sao? Vợ chồng ra rít là một chuyện, chế độ lao tù này cũng có thể thêm vào một cái để suy nghĩ nữa.

 

Chốn lao tù còn thế, ngoài xã hội tự do, trong các gia đình ắt còn đậm đà hơn. Quả có vậy. Trong nhiều cuốn truyện của Nhã Ca, của Doãn Quốc Sỹ, những cha mẹ, con cái, chú cháu, chị em quấn quít nhau, đùa giỡn với nhau, thật rộn ràng. Anh con trai (trong truyện của Nhã Ca) ngoài mặt trận viết thư về mẹ, nhắc tới “ông già Tây đen bạn thân của mẹ” (tức ống kem đánh răng Hynos), thư về cho cha hỏi thăm các cô ở sở của ba đã có cô nào lên cân bằng mẹ chưa. Đám trẻ trong xóm hẻm Thành Thái (truyện của Doãn Quốc Sỹ) vây lấy ông chú giáo sư đại học để hát ghẹo: “Vợ chú Ba trông giống đầm tây, vợ chú Ba cổ cao ba ngấn tóc mây rậm rì” v.v... Ai nấy hồn nhiên, ăn nói tự do thân mật. Họ khác hẳn các nhân vật tiểu thuyết thời Nhất Linh Khái Hưng, nhất là nhân vật của Nguyễn Tuân chẳng hạn. Vào thời 54-75, ảnh hưởng Nho giáo đã phai lạt nhiều, những tai biến khôn lường liên tiếp xảy đến trong hoàn cảnh bất an của đất nước, làm cho mối thâm tình giữa các thành phần trong gia đình càng thêm nồng nàn, các hình thức tôn ti lễ mễ được loại bỏ dần. Cái độ “ấm” trong các tổ ấm Việt Nam xưa nay dễ không bao giờ được thế.

 

Tình gia đình như vậy, tình nam nữ cũng trải qua những thay đổi sâu xa. Cho đến Tố Tâm – Đạm Thủy, trai gái yêu nhau bằng con tim. Qua thời Nhất Linh, chàng Trương đê mê với chiếc áo lót của cô Thu, ông Giáo Đông Công Ích Tin Lành chịu cái mùi của chiếc khăn cô Bé; nhưng về phía nữ thì các cô vẫn còn dè dặt, còn nặng về cảm xúc mà úy kỵ cảm giác. Vào thời Nguyễn Thị Hoàng, cô giáo Trâm yêu “thằng” Minh, cô đã để các giác quan của cô phát biểu mạnh mẽ: người nữ đã phát giác ra cái yêu bằng mũi bằng mắt.

 

Mặt khác, trong hoàn cảnh chiến tranh, mỗi nơi mỗi lúc con người cũng có tâm lý khác nhau, thái độ khác nhau. Cái quyết liệt của những chiến sĩ gọi phi cơ dội bom xuống ngay đầu mình như đã xảy ra tại đồn Dakseang theo lời thuật lại của phi công Lê Xuân Nhị; cái oái oăm trong trường hợp những người lính trở về hành quân ngay nơi làng quê của mình, hướng mũi súng vào chính xóm nhà của mình, chạy vào làng bồng lấy đứa cháu đeo nó theo trên lưng trước giờ khai hỏa trên trang sách Phan Nhật Nam; tâm trạng lạ lùng của người binh sĩ trong một cuộc chiến tranh ý thức hệ, cuộc chiến trên quê hương giữa đôi bên cùng một nòi giống, trước giờ lâm trận kẻ bên này thầm gọi người phía kia là “chú mày” trong những câu thơ Nguyễn Bắc Sơn v.v...

 

Chao ôi, bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu nông nỗi của một thời!

 

Nhất là khi nó được phản ảnh trung thành, chân thực trong văn chương. Phản ảnh tự do.

Ở ta, không cứ trong những thời gian ngoại thuộc, mà ngay lúc nước nhà độc lập, ngay dưới các chế độ dân chủ cộng hòa, cộng hòa xã hội, vẫn chưa từng có tự do phát biểu. Được ban phát rộng rãi nhất thường chỉ có một cái tự do ca ngợi bề trên.

 

Nhưng ở Miền Nam, giữa chiến thời, trên sách báo vẫn nở rộ những tràng cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa giỡn những phần tử xấu xa. Những phần tử ấy không thuộc hạng Xã Xệ – Lý Toét: Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo. Mặt khác, những mất mát, lo lắng, đau đớn, kinh hoàng, đều tha hồ bày tỏ, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có, mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, đều được phô bày. Trước và sau thời 54-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên nước ta văn học được phát triển trong hoàn cảnh cởi mở như vậy.

 

Cái sinh hoạt của một thời như thế rồi bị xóa lấp dấu vết trong lịch sử dân tộc; nền văn học nghệ thuật đã phản ảnh cái sinh hoạt ấy, phản ảnh cái tâm tình cùng suy tưởng của hơn hai chục triệu người rồi bị chôn vùi, do chính người mình hủy diệt ngay trên đất nước mình: chuyện thật quái dị. Vậy mà chuyện quái dị cứ xảy ra.

 

Phân tranh và chiến tranh Nam Bắc, ở nước ta sự việc ấy không phải chỉ xảy ra một lần. Trước kia, sau khi Trịnh thắng Nguyễn, Lê Quí Đôn được cử vào Thuận Hóa. Ở đây sáu tháng, ông vừa lo việc quan vừa viết sách. Trong cuốn Phủ biên tạp lục ông chê vua chúa Nguyễn chểnh mảng việc giáo dục, không biết chuộng văn học, nhưng ông cho rằng văn nhân trong Nam “Văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm.” Ông khen chung chung, rồi ông lại cẩn thận tìm hiểu mà khen từng người: Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh, Mạc Thiên Tứ, Nguyễn Quang Tiền, Trần Thiên Lộc... Ông sưu tầm ghi chép, thơ văn mỗi người để lưu lại đời sau. Thậm chí có kẻ như Ngô Thế Lân quyết ẩn cư, mời mãi không chịu đến, ông vẫn không tiếc lời xưng tụng.

 

Hầu hết những kẻ được Lê Quí Đôn nêu cao tên tuổi, trân trọng tác phẩm, là những kẻ từng có địa vị cao quan tước lớn, từng có công với các chúa Nguyễn, tức từng là đối địch của ông Lê.

 

Đối phương với đối phương, thái độ của Lê Quí Đôn hai trăm năm trước (1775) là thế. Và hai trăm năm sau, giả sử hồi 1975 mà Nam thắng Bắc, thiết tưởng đối với văn nhân và văn học Miền Bắc nhà cầm quyền Miền Nam cũng có thể, rất có thể, học theo thái độ Lê Quí Đôn.

 

Hãy tưởng tượng: Những thứ truyện Người mẹ cầm súng, Sống như anh (được ông Phạm Văn Sĩ trằm trồ như danh phẩm), những truyện bịa anh này chị nọ mẹ kia đánh giặc giỏi, bịa đặt thô sơ dễ dãi, những thơ “đầu lòng con gọi”, “con quì trước Bác mênh mông” v.v..., những loại tác phẩm nghệ thuật như vậy, chính quyền chiến thắng có cần phải vội vàng thu giấu, tiêu hủy không? những văn nhân nghệ sĩ từng theo sự dìu dắt mà lập sự nghiệp như thế có cần phải tóm cổ nhốt tù cấp kỳ không? Chắc chắn không cần thiết đâu. Và không cần thiết phải xúi giục cán bộ dưới quyền viết bài xuyên tạc phỉ báng đâu. Cũng như báo chí Nhân Văn – Giai Phẩm, cũng như bao nhiêu thơ truyện của Phan Khôi, Trần Dần... đều nên phục hồi cả. Mọi thứ tha hồ được phơi bày y nguyên trước sự phán đoán của thiên hạ đời đời.

 

Nhà cầm quyền Miền Nam có gì để ngần ngại? Cái xấu cái sai, những vết tích thương đau trong đời sống tinh thần dân tộc dưới một thời mê muội bạo tàn, há dám coi thường mà để phôi pha? Còn những phản ứng can trường dưới sự áp bức, dĩ nhiên càng nên trân trọng giữ gìn.

 

Vậy mà tại Miền Nam Việt Nam vào cuối thế kỷ XX đã xảy ra một trận tiêu diệt văn học. Việc làm ấy có liên lụy đến mạng người, đến xương máu. Hăm ba năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, tạp chí Khởi Hành (ở California), số tháng 4-1998, đăng một danh sách dài những văn nghệ sĩ đã mất mạng từ 30-4-1975 đến nay, và cho rằng trong vòng trên hai mươi năm qua số người bị sát hại nhiều hơn trong trăm năm Pháp thuộc. Trăm năm đô hộ của giặc Tây thì thế; lại còn trong nghìn năm đô hộ của giặc Tàu, liệu có sử gia nào liệt kê được một bản danh sách nạn nhân dài bằng danh sách này chăng?

 

Mạng người là quí, đã mất là mất vĩnh viễn. Một nền văn học đã mất vẫn còn hi vọng được phục hồi, đã trót bị dìm vào cố ý quên lãng còn có thể được cố gắng nhớ lại phần nào.

 

Sách này không phải viết để chống quên. Sách không mong có khả năng ấy. Một tập tổng quan, cái chứa của nó có là bao; mà cả bộ dăm bảy cuốn sách cũng chẳng trình bày được gì đáng kể. Cuộc sống vật chất và tinh thần của dân tộc (hay một nửa phần dân tộc) nó phản ảnh trong mọi công trình văn nghệ một thời, trong nghìn vạn pho sách lớn nhỏ dày mỏng một thời thuộc đủ môn loại. Hình ảnh của một thời, ai mà độc lực thu gọn được? Sách một thời cần được khôi phục đầy đủ.

 

Vậy không có sách chống “quên”. Chẳng qua sách chỉ mong nêu lên cái ý chống quên. Cái ý muốn rằng người Việt Nam hãy đừng “quên” mất một mảng đời Việt Nam.

 

Viết xong tại Los Angeles tháng 5-1986

 

Sửa và thêm, tháng 7-1999

 

-----------

Đã đăng:

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [1. Lời nói đầu]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [2. Khái quát]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [3. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Nhà văn]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [4. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Độc giả]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [5. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Xuất bản]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [6. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Bối cảnh]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [7. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & chính trị]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [8. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tôn giáo / triết học]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [9. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách cực đoan]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [10. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & vai trò của miền Nam]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [11. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tính cách tự do]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [12. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Đối chiếu thành tích]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [13. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình trước 1954]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [14. Giai đoạn 1954-1963: Bối cảnh – Tình hình từ 1954]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [15. Giai đoạn 1954-1963: Văn học]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [16. Giai đoạn 1964-1975: Bối cảnh]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [17. Giai đoạn 1964-1975: Văn học]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [18. Các bộ môn: Tiểu thuyết]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [19. Các bộ môn: Tuỳ bút]

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [20. Các bộ môn: Thi ca]

 

 

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [21. Các bộ môn: Kịch]

VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [22. Các bộ môn: Ký]

_________________________

[1]Phan Cự Đệ, tạp chí Văn Nghệ, số ra ngày 8-12-1985.

 

                                                         ***

 

TienVe   -  Tiền Vệ

https://tienve.org/home/activities/viewActivities.do;jsessionid=49BA27CD3E3323CA75A4139E1122AF2C

 

 

 

 




NGHỊCH NƯỚC (Nguyễn Hoàng Văn / Báo Tiếng Dân)

 



Nghịch nước  

Nguyễn Hoàng Văn

21-05-2025

https://baotiengdan.com/2025/05/21/nghich-nuoc/

 

Ấy trước ông cha mua để lại

Mà sau con cháu lấy làm chơi

(“Vịnh Bức Dư Đồ Rách”, Tản Đà, năm 1921)

 

Không phải những em bé vô tư cười như nắc nẻ bên mấy vòi nước đang bắn ra tung tóe mà là những chính trị gia oai vệ bên những xấp hồ sơ dày cộm việc nước. Mặt mày nghiêm trọng, hai hàm răng nghiến chặt, họ không hề đùa thế nhưng cũng chẳng khác gì đang nghịch, với những việc nước cũng bắn tung, bắn tóe.

 

Như cái sự “tung tóe” của những diên cách địa lý mà con cháu sau này, trăm năm hay ngàn năm sau, khi tìm về cội nguồn, sẽ lắc đầu thắc mắc, tại sao đất nước lại có một cái thời như thế. Nước non thấm máu tổ tiên mà mỗi địa danh là cả một trầm tích lịch sử với những hồn cốt văn hóa, thế nhưng, trong cái trầm tích sâu dày này, lại lạc loài một cái “vỉa” nhàn nhạt và vô duyên, vô lý và vô lối, cực kỳ tùy tiện.

 

Đó chính là thời của chúng ta khi nước non ngàn dặm mà chẳng khác gì đồ chơi sắp hình của trẻ em, chán hình này thì xóa, sắp thành hình khác, xóa sắp và xóa sắp, cơ hồ không dứt. Đất nước đang bị nghịch một cách vô tội vạ và trước đợt “nghịch” hiện tại thì trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ, đã tung tóe như thế đến những tám lần.

 

Như thể là một biến tấu từ câu chuyện thần tiên “Cây tre trăm đốt”. Hô “khắc nhập, khắc nhập” thì cây tre 72 đốt – như là 72 tỉnh/ thành vào năm 1975 – biến thành cây tre 38 đốt. Chán 38 đốt thì “khắc xuất, khắc xuất” để dày ra với 39, 40, 44, 53, 61, 63 rồi, bây giờ, sau khi ê chề với “xuất” lại quay về với “nhập” để, từ 63 đốt, đất nước sẽ chuyển mình gọn ghẽ với 34 đốt! [1].

 

Họ làm chúng ta nghĩ đến những “cải cách” xoành xoạch trong giáo dục, từ chữ viết đến chương trình, từ cách thi cử đến việc phân ban, biên soạn sách giáo khoa v.v… Cải cách, cải cách nữa, cải cách mãi. Cải cách vô tội vạ. Cải cách từ lớp một đến lớp mười hai mà, nếu không ổn thì, tròn một vòng thập nhị niên, lại cải cách tiếp, bắt đầu từ lớp một. Như cuộc cải cách chữ viết, một phần trong chương trình cải cách giáo dục từng quảng bá rất xôm tụ vào đầu thập niên 1980.

 

Tôi còn nhớ, rất rõ, vào thời ấy, từ trên truyền hình, một trong những tác giả của cuộc cải cách thao thao bất tuyệt về thứ chữ viết “hiện đại, phù hợp với tác phong công nghiệp trong thời đại mới”, nói là xây dựng dựa trên sự tham khảo rất nhiều chữ viết, đặc biệt là chữ Nga. Họ đi trước thời đại đến độ những học trò mẫu giáo, để “phù hợp với tác phong công nghiệp, phải thao tác như một cái máy in 3-D dẫu nó chưa ra đời: Chỉ để viết một từ đơn giản thôi, các em phải ngắt nét và nhấc bút đến mấy lần khi phải bỏ đi nét hất, nét sổ bởi chữ viết phải đơ cứng như… in. Rồi trật tự a, b, c quen thuộc, một cách trái khoáy, bị chuyển hóa thành e, b, c, a v.v…

 

Với kiểu cải cách quái gỡ này thì không phải đợi lâu, phải tròn một chu kỳ 12 lớp mà, chỉ vài năm thôi, khi cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi với lối tra tấn “tác phong công nghiệp”, chương trình đã bị khai tử không có đám ma, trong khi những nhà cải cách mạnh mồm ngày nào thì im thin thít như những tên đào ngũ.

 

Bây giờ là công cuộc “khắc nhập” đang gây nhốn nháo mà lý do, nói theo nhà văn trào phúng Thỗ Nhĩ Kỳ Aziz Nesin “Nước thế mới gọi là nước”: Do nhiều tỉnh/ thành không đủ “tiêu chuẩn về dân số và diện tích” [2], thì phải sắp xếp lại để tạo dựng cho chúng một… “dáng đứng tỉnh/ thành”. Nhưng đây, bất quá, chỉ là tiêu chí định lượng. Cao hơn mấy bậc là tiêu chí về phẩm chất của dịch vụ công, của năng lực quản trị tài nguyên, của sự an toàn và công bằng xã hội, của khả năng ứng phó với tình trạng khẩn cấp hay dự phóng cho tương lai v.v…

 

Như thế, nếu đã đặt vấn đề “dáng đứng tỉnh/ thành” thì cũng phải nhìn cao hơn với “dáng đứng chính quyền” để, nói theo Nesin, có được một nước đáng gọi là… nước. Nhưng chỉ xoàng xoàng là tiêu chí định lượng thôi cũng khó mà chiêm ngưỡng được, bởi, đã qua tám đợt đầy hoang phí mà sao vẫn phải hoang phí? Bao nhiêu trụ sở sẽ bị bỏ hoang? Bao nhiêu “nội lực” sẽ bị vung vít vào việc chính trị bè phái khi guồng máy bị tinh giản? [3] Và bao nhiêu phiền toái sẽ ập lên đầu người dân khi phải thay đổi giấy tờ?

 

Cả từ phần nổi nhất của cuộc cải cách định lượng này, vấn đề danh tính, vẫn không thấy được “dáng” ấy nên nhiều thức giả mới trăn trở, lên tiếng [4]. Mỗi địa danh, như đã nói, là cả một trầm tích lịch sử với những hồn cốt văn hóa nhưng việc giản lược lại quá tùy tiện khiến thế hệ sau, nếu nhìn lại, sẽ não nề thất vọng.

 

Nếu sự tùy tiện có thể là di căn của não trạng tiểu nông thì vấn đề còn có thể là hệ lụy của những tranh đua chính trị gay gắt theo tinh thần địa phương chủ nghĩa, như có thể thấy từ Quảng Nam, là vùng đất sẽ bị mất tên khi phải “khắc nhập” vào Đà Nẵng.

 

Như hai cái tên, Quảng Nam và Đà Nẵng đều có trầm tích lịch sử của riêng mình, nhưng hiện tại khi hồn cốt văn hóa trong cái tên Quảng Nam bị gạt qua một bên thì liệu, sự thể, có dây dưa gì với tình thế bất an của nhà chính trị đình đám nhất đất Quảng thời đương đại, ông cựu thủ tướng và chủ tịch, hiện đang thúc thủ dưới cái bóng đè của lưỡi gươm Damocles?

 

Hãy nhớ lại lúc Quảng Nam, như một trong những tỉnh nghèo nhất nước, vắt kiệt tài nguyên, để dựng lên pho tiểu tự sự bằng đá, “Mẹ anh hùng” với niềm tự hào “to nhất Đông Nam Á”. Để đề cao tính chính danh thì nhà cầm quyền nào cũng kể lể “công lao lịch sử”, hay nói cách khác là nhấn mạnh đến pho “đại tự sự” của mình. Cũng một ý đồ như thế, vùng miền nào cũng tìm cách để đề cao “tiểu tự sự” của riêng mình.

 

Và hãy nhớ lại không khí nóng bỏng của vũ đài chính trị quốc gia theo cuộc cạnh tranh trong mô thức phân quyền Bắc – Trung – Nam ở cơ cấu quyền lực cao nhất, giữa hai nhân vật đình đám của hai vùng đất. Để nhấn mạnh tư thế “đại diện miền Trung” thì phải khai thác đến mức tối đa “tiểu tự sự” của mình. Nếu “tiểu tự sự” của Đà Nẵng được cụ thể hóa ở tượng Mẹ Nhu bằng đồng, chỉ tay ra biển từ thì, đối lại, Quảng Nam cũng phải, mọi giá, phải có một “Mẹ” như thế, phải hơn chứ không thể nào bằng, đừng nói là thua.

 

Đây là phân tích mà tôi đã đưa ra trong “Quảng Nam, tiểu tự sự của một tiểu cộng hòa xã hội chủ nghĩa”, khi tượng đài khánh thành vào năm 2015:

 

“Thì hãy tạm chấp nhận lý sự của những nhà tuyên truyền tỉnh lẻ rằng bà mẹ liệt sĩ ấy đã mất mát quá lớn, rằng tượng đài thể hiện một ý nghĩa lịch sử, một bài học để nhắc nhở tương lai phải nhìn về quá khứ. Nhưng nếu đã nêu ra một ý nghĩa xuyên suốt lịch sử như thế thì hãy tạm tưởng tượng đất Quảng cái ngày thực sự xứng danh “đất linh” và “đất học”, một trung tâm học thuật mà đến mùa thi, sĩ tử toàn quốc và thậm chí cả từ các nước lân cận nườm nượp kéo về; một trung tâm khoa học hay tài chính mà những nhân tài xuất chúng tìm về để thi thố, nghĩa là một Quảng Nam có thừa tư cách và tài nguyên để sở hữu một công trình mỹ thuật mang tính lịch sử với kích thước “hàng đầu”.

 

Nhưng cả khi đó thì người con xứng đáng nhất để vinh danh phải là một nhân vật với tầm cỡ quốc gia như Phan Chu Trinh, nhà văn hoá và nhà ái quốc vĩ đại với một nhân cách vĩ đại mà cái chết vào năm 1926, dẫu bị cấm đoán và đàn áp, đã tự động trở thành quốc tang, gây ảnh hưởng cả một thế hệ và hâm nóng lên cả một phong trào yêu nước. Nhưng quan trọng hơn là tầm nhìn của Phan Chu Trinh. Đất Quảng chỉ có thể khá lên một khi đất nước đã khá lên. Mà muốn khá lên như thế thì đất nước hẳn đã chọn con đường mà ông đã vạch ra cách đây trên một thế kỷ là chấn hưng dân khí và dân trí để tự lực, tự cường: “Không bạo động, bạo động tất chết! Không trông người nước ngoài, trông người nước ngoài tất ngu! Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi xin có một vật rất quý báu tặng cho đồng bào, là “Chi Bằng Học”.

 

Nhưng thay vào đó là là một “Mẹ anh hùng”, của một vùng đất có đến 11.677 mẹ anh hùng. Đó là những bà mẹ đáng thương trong một cuộc chiến đáng tiếc, cái cuộc chiến mà mãi tới nay, 50 năm sau ngày kết thúc, hệ thống chính trị chủ xướng vẫn ấp a, ấp úng, không dám nói ra sự thật cho dù sự thật ê chề ấy đã phơi bày rành rành.

 

Cuộc chiến bị phát động theo sự giật dây của Trung Quốc, như một hình thức “phên dậu”. Cuộc chiến lại diễn ra với niềm tin tưởng tuyệt đối vào tình hữu nghị của kẻ xúi bẩy thâm độc ấy. Và cuộc chiến lại diễn ra với dự phóng ngất ngây về một tương lai hậu chiến với hình ảnh của một Việt Nam rạng rỡ theo mô hình Liên Xô, là thứ đã bị đào thải trong trong hố rác của lịch sử. Những bà mẹ đáng thương, như thế, không chỉ là những nạn nhân đau đớn, mà còn là một sản phẩm oan khiên của một chọn lựa “tất chết” và “tất ngu”. Chọn một biểu tượng đau đớn và oan khiên như thế, thực chất là chọn lựa của chủ nghĩa ăn vạ và chủ nghĩa công thần.

 

Nếu kẻ công thần nằng nặc đòi hỏi phải đền đáp xứng đáng cho công trạng của mình thì kẻ ăn vạ gân cổ làm toáng lên về những mất mát của mình. Khi “phì đại hoá” nỗi đau riêng của một bà mẹ như thế, cái chính quyền con của đất Quảng Nam đã ăn vạ với cái chính quyền mẹ về những mất mát chung cho vùng đất của mình, cái vùng từng được khoác cho danh hiệu “đi đầu diệt Mỹ”.

 

Nếu mất mát riêng của bà mẹ là bằng chứng cao nhất cho những thương đau mà vùng đất đã gánh chịu thì cái thông điệp về sự “đền đáp xứng đáng” với bà cũng ngụ ý một thông điệp song trùng về một sự “đền đáp” xứng đáng về chính trị hay kinh tế cho cả vùng đất…” [5]

 

Khi tượng đài dựng lên, hoành tráng, như là tiểu tự sự của vùng đất thì con của Mẹ, nhà chính trị đất Quảng nói trên, cũng hoành tráng nổi lên trong tư thế đại diện cho một vùng đất đầy công lao ở cơ cấu quyền lực cao nhất. Và bây giờ, khi ông ta đã bị knocked out ra khỏi vũ đài một cách nhục nhã thì, phải chăng, tư thế “đại diện” của vùng đất này cũng bị knocked out theo trong việc chọn tên?

 

Đó, dẫu sao, chỉ là giả thuyết của riêng tôi. Nhưng rõ ràng là, nếu sau mỗi cái tên là cả một tự sự, một hồn cốt văn hóa, thì sau mỗi quyết định xóa tên, chắc hẳn phải có những uẩn khúc thế sự và những toan tính chính trị nào đó chứ? Và trong cái uẩn khúc này, Mẹ Thứ ở Quảng Nam, dẫu “to nhất Đông Nam Á”, đã bị Mẹ Nhu qua mặt.

 

Mẹ Nhu đang sừng sững ở Đà Nẵng với cánh tay chỉ về hướng biển. Và nếu Tố Hữu, vào tháng 8 năm 1945, trên đường từ Việt Bắc trở về Hà Nội, vô cùng lạc quan và tự tin “Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!” thì bây giờ, xem ra, nếu còn lại, “chí” ấy cũng chỉ “lớn” như những “resort trước mặt” là cùng. Những bờ biển đẹp nhất, đáng tự hào nhất, và cả xung yếu nhất, không chỉ của Đà Nẵng mà là bao nhiêu thành phố khác, đang ken dày những “khu nghỉ dưỡng” nước ngoài và đây, xét cho cùng, cũng là một trò nghịch nước.

 

Nước non đã và đang bị đùa nghịch với những dự án tùy tiện, kém bền vững, không mảy may chú ý đến đến những tác hại xã hội và môi trường, đến cái giá mà thế hệ tương lai phải trả. Đất nước, qua những trò nghịch như thế, đã trở thành dung nhan của những người đàn bà nạ dòng thừa tiền nhưng thiếu tự tin về nhan sắc, nên liên tiếp vung tiền cho lưỡi dao thẩm mỹ. Xẻo chỗ này chán thì đắp chỗ kia, xẻo đắp mãi cho đến giới hạn cuối cùng, bị… xì ra thì mới giật mình báo động để tự hạ giá, xoay chuyển từ mục tiêu “phải đẹp hơn” thành “không được xấu hơn”.

 

Đất nước bây giờ, xem ra, cũng bị  mắc bẫy trong cái khó đó, khi bất cứ ai, nếu có một chút tấm lòng với nước non, cũng đều chạnh lòng như là Tản Đà của hơn một thế kỷ trước khi đối diện với tấm dư đồ rách, để rồi xót xa là phải giữ làm sao để nó đừng rách nát, bệ rạc thêm.

 

--------------

Tham khảo:

1. https://luatvietnam.vn/hanh-chinh/nhung-lan-sap-nhap-va-chia-tach-tinh-thanh-570-101445-article.html

 

2. Tôi thuật lại theo trí nhớ, từ cuốn “Những người thích đùa” của Aziz Nesin, bản dịch Lê Huy Viễn.

 

3. Nhà báo Bùi Tín đã đề cập đến điều này trong cuốn Hoa Xuyên Tuyết, Chương II, “Nhìn nhận”:

 

“Trong xây dựng đất nước ông (Lê Duẫn) ít có sáng kiến đáng kể. Đến nay người ta vẫn còn kêu về ông, nhất là về hai chủ trương ghép một số tỉnh và lấy huyện làm đơn vị chiến lược về kinh tế. […] Việc hợp tỉnh rất tốn kém, lại gây nên mất đoàn kết kéo dài. Bí thư với phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, các giám đốc sở xếp rất gay go. Phải mặc cả tỉnh cũ này giữ ghế này, tỉnh cũ kia giữ ghế kia cho thăng bằng! Rồi ông này bênh tỉnh cũ của mình, bà kia “trù” cán bộ của tỉnh (cũ) kia cứ như thế công việc lằng nhằng, chỉ đối phó nhau trong nội bộ đã mất thời gian và mất sức!”

https://vntrungtam.info/thuvien/sach/hoa-xuyen-tuyet

 

4. https://boxitvn.online/?p=93554

https://luatkhoa.com/2025/05/nhap-tinh-bo-huyen-gop-xa-va-nhung-dau-hoi-lon/

 

5. https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=18730