Sunday, August 3, 2025

VẤY BẨN CUỘC ĐỜI MỘT NGƯỜI THẦY BẰNG TỘI "THAM Ô", ĐÓ LÀ HÀNH ĐỘNG BẤT NHÂN (Hoàng Nguyên Vũ / Facebook)

 



 

Vấy bẩn cuộc đời một người thầy bằng tội “tham ô”, đó là hành động bất nhân!

Hoàng Nguyên Vũ 

Posted on 03/08/2025 by Boxit VN

https://boxitvn.online/?p=94535

 

Chẳng hiểu sao thầy bị truy tố về tội “Tham ô”. Bởi vì tham ô theo điều 353 Bộ luật hình sự thì: “Tham ô tài sản là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, chiếm đoạt tài sản mà mình quản lý”.

 

HÌNH :

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNS7DJP6s8zZc8u_DA7uIhFogNcDJbiHM8bHUD5CxpfjPEdJSGYRQ_4_COIUlhSdChuXx8qOffCgBwjb6ezTB9b5k8Q2wFBz67DFMcRqCPCHFoblUSWhT01IRYsPlKVsqD1TOjO2Ym3bifhakHHjxG6QARC3-a0SsVzyQx-9pbrqrOKhYdjT7yId-iCogj/s698/gv_16.jpg

 

 Theo đó, mức tuyên 2-7 năm dành cho đối tượng: Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, đã bị kết án mà chưa được xóa án tích. Còn mức án từ 7-15 năm, sẽ dành cho đối tượng: Có tổ chức, phạm tội 2 lần trở lên, dùng thủ đoạn xảo quyệt, nham hiểm, gây thiệt hại từ 1 t đến dưới 3 t đồng…

 

Xét ở những quy định trên, thì việc kết án thầy Tâm tội “tham ô” là sai, và mức tuyên phạt 7 năm lại càng sai. Thậm chí, đã sai phạm về mặt tố tụng.

 

Với những thông tin của hiện tại, thì thầy Tâm chỉ sai về mặt thủ tục (mua hóa đơn khống, không báo cáo tập thể về khoản thu – chi). Số tiền mà toà cấp huyện đưa ra để buộc tội thầy – 10,7 triệu đồng, hiện nằm trong số vật dụng mà trường đang dùng, mà trong những vật dụng đó có cả công sức của thầy.

 

Hóa đơn thì khống, nhưng đồ dùng là thật. Tiền thừa thầy cho cho việc công cũng là thật. Hơn nữa, thầy lấy tiền những thứ thầy làm ra cho tập thể dùng, không thể gọi là chiếm đoạt. Nhưng việc này đã bị bỏ qua ở phiên sơ thẩm, khiến bản chất vụ việc bị thay đổi, và mức án 7 năm thành oan nghiệt.

 

 

Cơ sở đâu để tuyên thầy Tâm đến 7 năm? 

 

Thường những trường hợp bị xử như thế này, hoặc có đơn tố cáo, hoặc có kết luận sai phạm từ thanh tra. Đơn tố cáo có thể sai hoặc có thể có kẻ có chủ ý triệt hạ người khác; và kết luận thanh tra, ở một số trường hợp không hẳn đúng. Nhưng đã ra đến tòa, thì phải xử đúng người đúng tội, để đảm bảo tính công minh của pháp luật. 

 

Việc truy tố thầy Tâm theo khoản 2, điều 353 BLHS, thì khung hình phạt 7-15 năm tù thuộc loại “tội phạm rất nghiêm trọng”, nếu soi chiếu trên các quy định, hoàn toàn khiên cưỡng, áp đặt, máy móc và dễ dẫn đến oan sai.

 

Đấy chưa kể, thầy có quá nhiều tình tiết giảm nhẹ: Có nhiều thành tích trong công tác, vượt khó để làm tất cả mọi thứ cho trường nghèo, nhân thân tốt, không bỏ trốn, không tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội, thì căn cứ vào đâu để truy tố người ta với mức “nghiêm trọng”?

 

Bên cạnh đó, nếu truy tố bị can với “tội phạm rất nghiêm trọng” thì phải chứng minh sự thiệt hại. Đồ vẫn trong trường, tiền thầy không bỏ túi mà chi cho trường, thậm chí đồ đạc còn công sức của thầy nữa, thì thiệt hại ở đây là gì? Nếu không chứng minh được mà đẩy một con người vào vòng lao lý, thì đó không phải là “thiếu nhân văn”, mà là bất nhân. 

So sánh với những kẻ tham ô cả chục, cả trăm t vào túi cá nhân, không vì một mục đích nào cho tập thể, thì 7 năm của thầy Tâm nó nghiêm khắc đến độc ác, thậm chí, vi phạm về mặt tố tụng.

 

Tham ô là vết nhơ, đừng lấy điều này để vấy bẩn một cuộc đời

 

Nhiều học trò cũ kể rằng, thầy Tâm có lần được học sinh tặng quà, thầy không nhận. Hàng xóm cũng ghi nhận thầy có tâm và không tham lam. Có người còn nói, thầy truyền nghề hàn sắt cho một cách vô tư không lấy đồng nào. Họ tin rằng, thầy Tâm không phải người “tham ô”.

 

Và nếu “tham ô”, có ai “tham ô” 10 triệu đồng không? Có lẽ là không.

 

Tội tham ô là một vết nhơ, không chỉ là đạo đức mà còn là cả trách nhiệm xã hội. Dúi người khác vào tội này, nếu dúi sai, đó là sự vấy bẩn cuộc đời một công dân, mà công dân đó lại là người làm thầy – một hình mẫu được xã hội trân trọng.

 

Rồi đây vụ án sẽ điều tra lại, nhưng nếu toà sơ thẩm sai về tố tụng, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

 

H.N.V.

Nguồn: FB Hoàng Nguyên Vũ

 

 




HUNSEN ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ VIỆT NAM QUAY LƯNG? (Dư Lan / RFA)

 



Hun Sen đã làm gì để Việt Nam quay lưng? – Tiếng Việt

Dư Lan  /  RFA

2025.08.01

https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/08/01/campuchia-thai-lan-xung-dot-viet-nam/

 

Sự im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm lẫn.

 

https://www.rfa.org/resizer/v2/FTZFGNHNKVFTLHMYNHURQMJDBQ.jpg?smart=true&auth=142087a705beea7ed77d8c7d550f60fb84ad38b266e3c7ebab3f89ead61f144a&width=1600&height=1066

Ông Hun Sen gặp với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm hồi tháng 4 năm 2025. (TTXVN)

 

Tối ngày 28 tháng Bảy, 2025, Campuchia và Thái Lan tuyên bố thỏa thuận ngừng bắn. Ngay sáng hôm sau, Phó thủ tướng - Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn thăm Thái Lan, gặp người đồng cấp Maris Sangiampongsa, tái khẳng định mối quan hệ "Đối tác Chiến lược Toàn diện“.

 

Nhưng điều giới quan sát chú ý không nằm ở những gì đã diễn ra ở Bangkok, mà ở những gì đã không diễn ra.

 

Không có một chuyến thăm tương tự nào đến Phnom Penh.

 

Sau chuyến thăm đến Bangkok, Ngoại trưỏng Bùi Thanh Sơn đón Đại sứ Campuchia ở Hà Nội. Không có sự kiện tương tự xảy ra ở Phnom Penh.

 

Trước khi cuộc xung đột giữa Thái Lan và Campuchia nổ ra ở cấp độ quân sự, Tư lệnh quân đội Thái Lan cũng sang thăm Việt Nam.

 

Khi đặt hai sự kiện này cạnh nhau – một cuộc đối thoại quốc phòng cấp cao với Thái Lan ngay trước khi xung đột được đẩy lên cấp độ quân sự và một chuyến thăm ngoại giao cấp cao tới Bangkok ngay sau thỏa thuận ngừng bắn, trong khi hoàn toàn phớt lờ Phnom Penh – một bức tranh chiến lược rõ ràng hiện ra.

 

Campuchia là láng giềng có chung đường biên giới dài hơn một ngàn km và có mối quan hệ lịch sử phức tạp với Việt Nam. Sự im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm lẫn.

 

Hà Nội, dù công khai duy trì một chính sách ngoại giao cân bằng và chuẩn mực, trên thực tế đã thực hiện một sự “xoay trục”, “quay lưng” với chính quyền của gia tộc Hun Sen ở Campuchia và nghiêng về phía Thái Lan.

 

Đây không phải là một phản ứng tức thời trước cuộc xung đột biên giới, mà là đỉnh điểm của một quá trình tích tụ lâu dài, hệ quả của một chuỗi các hành động từ Phnom Penh vốn thách thức một cách có hệ thống các lợi ích an ninh quốc gia cốt lõi của Việt Nam.

 

Bề ngoài trung lập, thực tế nghiêng trục

 

Trao đổi với RFA, Giáo sư Carlyle A. Thayer đã chỉ ra cách Việt Nam cẩn trọng xây dựng hình ảnh trung lập, cách tiếp cận công bằng đối với cuộc xung đột liên quan đến hai quốc gia đều là thành viên ASEAN.

 

Đây là một chính sách ngoại giao giúp Việt Nam duy trì vai trò xây dựng trong khối, tránh bị lôi kéo vào tranh chấp của các nước láng giềng và giữ vững hình ảnh một thành viên có trách nhiệm.

 

Tuy nhiên, đằng sau bức màn của những tuyên bố ngoại giao chuẩn mực này là một thực tế chiến lược hoàn toàn khác.

 

Khi phân tích sâu hơn các hành động và xu hướng chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn trước và sau xung đột, sự “công bằng” trong các tuyên bố công khai bắt đầu mờ nhạt, nhường chỗ cho một sự tính toán chiến lược rõ ràng nghiêng về phía Thái Lan.

 

Hà Nội chính thức nâng cấp quan hệ với Bangkok lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 5 năm 2025, chỉ hai tháng trước cuộc xung đột, là một minh chứng rõ ràng nhất cho thấy sự tin cậy chiến lược đã được củng cố từ trước.

 

Trong khi đó, mối quan hệ với Campuchia lại bị phủ bóng bởi hàng loạt các vấn đề an ninh nghiêm trọng, từ Biển Đông, căn cứ Ream, kênh đào Phù Nam cho đến các vấn đề an ninh phi truyền thống.

 

Sự tương phản này cho thấy lựa chọn của Việt Nam không phải là một quyết định bộc phát, ngẫu nhiên.

 

 

Thách thức có hệ thống của Campuchia đối với an ninh Việt Nam

 

Thái độ của Hà Nội đối với Phnompenh là phản ứng tất yếu trước một loạt các chính sách của gia đình Hun Sen trong những năm gần đây. Chúng tạo ra một chuỗi các thách thức có hệ thống và ngày càng nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia của Việt Nam.

 

Những hành động này, trải dài trên nhiều lĩnh vực từ địa chính trị, quân sự, môi trường đến an ninh phi truyền thống, đã làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin. Nó buộc Việt Nam phải đánh giá lại toàn bộ mối quan hệ với người láng giềng phía Tây Nam.

 

 

Thái độ của Campuchia đối với tranh chấp Biển Đông

 

Campuchia, một thành viên của khối ASEAN đã nhiều lần hành động như một “con ngựa thành Troy”, phá vỡ sự đồng thuận của ASEAN từ bên trong. Đó là trao đổi của một chuyên gia ở Hà Nội với RFA.

 

Năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của mình, ASEAN đã không thể ra được một Tuyên bố chung sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (AMM) vì Campuchia, thuận theo chính sách của Bắc Kinh, đã từ chối đưa các nội dung liên quan đến các vụ đối đầu cụ thể ở Biển Đông, như vụ bãi cạn Scarborough, vào văn kiện.

 

Sự việc này lặp lại vào năm 2016 khi Campuchia một lần nữa ngăn chặn một tuyên bố chung mạnh mẽ của ASEAN về phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc.

 

Trao đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza, một chuyên gia về an ninh Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ, nhận định một cách thẳng thắn: “Về mặt ngoại giao, Phnom Penh đi theo sự dẫn dắt của Bắc Kinh và thường làm theo ý Trung Quốc khi nói đến ASEAN hoặc Biển Đông.” Bởi vì, theo GS Zachary, Hun Sen hay Hun Manet sẽ không bao giờ “đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông”, và họ “không thấy lý do gì để thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong vấn đề này.”

 

Bằng cách làm suy yếu mặt trận chung của ASEAN, Campuchia đã giúp Trung Quốc thực hiện chiến lược “chia để trị”, làm giảm hiệu quả của các nỗ lực ngoại giao đa phương nhằm bảo vệ công lý trên Biển Đông và sự tuân thủ Luật biển Quốc tế. Campuchia đẩy các nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc chèn trên Biển Đông vào thế phải đối mặt song phương với một đối thủ lớn hơn rất nhiều.

 

 

Căn cứ Hải quân Ream là “mũi dao của Trung Quốc kề vào “vùng bụng mềm” của Việt Nam

 

Đó là trao đổi với RFA của ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm CSIS.

 

Nếu như chính sách đối với Biển Đông của Campuchia là đòn đánh vào chiến lược ngoại giao của Việt Nam, thì việc Campuchia cho phép Trung Quốc hiện diện quân sự tại Căn cứ Hải quân Ream là một mối đe dọa quân sự trực tiếp và hữu hình.

 

Ream mằm ở vị trí chiến lược trên Vịnh Thái Lan, chỉ cách đảo Phú Quốc của Việt Nam khoảng 30 km đường biển, cách Kiên Giang khoảng 70 km đường bộ.

 

Từ năm 2019, Wall Street Journal đã đưa tin về một thỏa thuận bí mật cho phép Trung Quốc độc quyền sử dụng một phần căn cứ Ream trong 30 năm đã xuất hiện, dù chính quyền Hun Sen liên tục phủ nhận. Tuy nhiên, như một báo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) đã chỉ ra, các hành động sau đó đã nói lên tất cả. Campuchia đã phá dỡ các cơ sở do Mỹ tài trợ tại Ream để thay thế bằng các cơ sở do Trung Quốc tài trợ để hiện đại hóa toàn bộ căn cứ.

 

Các phân tích hình ảnh vệ tinh từ Trung tâm CSIS cho thấy quân cảng Ream có những cơ sở hạ tầng, bao gồm cầu cảng nước sâu, các nhà kho, khu nhà, cơ sở sửa chữa tàu. Đáng lo ngại hơn, kể từ tháng 12 năm 2024, hai tàu hộ vệ của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã hiện diện gần như liên tục tại cầu cảng mới này. Các tàu Trung Quốc là những tàu duy nhất được phép sử dụng cơ sở hạ tầng hiện đại này. Trong khi đó, các tàu hải quân Nhật Bản khi đến thăm Campuchia đã phải chuyển hướng đến cảng dân sự Sihanoukville thay vì Ream như thỏa thuận ban đầu.

 

Giáo sư Abuza nói với RFA rằng tình hình này cho thấy Trung Quốc có “quyền tiếp cận đặc quyền - nếu không muốn nói là hiện diện bán thường trực” tại Ream.

 

Đối với Việt Nam, điều này tạo ra một cơn ác mộng chiến lược.

 

Trao đổi với RFA, ông Greg Poling, Giám đốc Chưong trình Đông Nam Á ở Trung tâm CSIS, cho rằng nó phá vỡ thế bố trí phòng thủ của Việt Nam ở phía Nam. Bởi lẽ, nếu đặt các trạm radar ở Ream, Trung Quốc có thể theo dõi mọi chuyển động của Việt Nam ở Miền Nam.

 

Như lời của Giáo sư Abuza, Việt Nam “giờ đây cảm thấy bị Trung Quốc bao vây tứ phía”. Một sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Ream, ngay sát “vùng bụng mềm” của Việt Nam, buộc Hà Nội phải phân tán lực lượng, đối mặt với nguy cơ bị tấn công từ hai hướng (phía Bắc và phía Tây Nam) trong trường hợp xảy ra xung đột, và làm thay đổi hoàn toàn cán cân quân sự trong khu vực.

 

 

Kênh đào Phù Nam Techo

 

Dự án kênh đào Phù Nam Techo, một siêu dự án trị giá 1.7 tỷ USD do công ty nhà nước Trung Quốc China Road and Bridge Corporation (CRBC) thực hiện theo hình thức Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao (BOT), là thách thức song trùng mới nhất mà Campuchia đặt ra cho Việt Nam.

 

Nó vừa là một quả bom hẹn giờ về môi trường, vừa là một đòn bẩy địa chính trị nguy hiểm.

Về mặt môi trường, kênh đào dài 180 km này sẽ nối sông Mê Kông (từ một nhánh của nó là sông Bassac) ra Vịnh Thái Lan. Các chuyên gia thủy văn và môi trường quốc tế đã gióng lên nhiều hồi chuông báo động về những tác động thảm khốc tiềm tàng của nó đối với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và thậm chí cho chính Campuchia.

 

ĐBSCL không chỉ là nơi sinh sống của hàng chục triệu người dân Việt Nam mà còn là vựa lúa, vựa trái cây và vựa thủy sản, đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu. Bất kỳ sự tổn hại nào đến vùng đất này đều là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam.

 

Về mặt địa chính trị, mục tiêu công khai của Campuchia là giảm sự phụ thuộc vào các cảng của Việt Nam, vốn đang xử lý khoảng một phần ba lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của họ. Bằng cách tạo ra một lối đi riêng ra biển, Campuchia sẽ loại bỏ một trong những quan hệ kinh tế quan trọng nhất mà Hà Nội đang có đối với Phnom Penh.

 

Như Giáo sư Abuza nhận định, đây không chỉ là một dự án kinh tế, mà là một “vấn đề an ninh”. Nó cho phép Campuchia tự do hành động hơn trong các chính sách đối ngoại mà không cần quá bận tâm đến phản ứng của Việt Nam.

 

Điều làm tăng thêm sự lo ngại là thái độ thiếu minh bạch, có phần lừa dối của Campuchia. Trong thông báo gửi đến Ủy hội sông Mê Kông (MRC), Campuchia đã phân loại dự án này là một dự án “nhánh sông” (tributary). Trong đó, như một báo cáo của Stimson Center đã chỉ ra, kênh đào này kết nối trực tiếp với hai kênh thuộc dòng chính của sông Mê Kông.

 

Việc phân loại sai này giúp Phnom Penh tránh được quy trình “Tham vấn Trước” (Prior Consultation) nghiêm ngặt theo Hiệp định Mê Kông 1995, một quy trình đòi hỏi phải có đánh giá tác động xuyên biên giới toàn diện và sự đồng thuận của các nước thành viên khác. Điều này cho thấy Hun Sen và Hun Manet không có ý định hợp tác một cách thiện chí và sẵn sàng phớt lờ những lo ngại chính đáng của Việt Nam.

 

 

Thiên đường cho tội phạm xuyên quốc gia

 

Như RFA đã thông tin, trong những năm gần đây, Campuchia đã trở thành một trong những trung tâm lớn nhất thế giới của ngành công nghiệp lừa đảo trực tuyến, một hình thức tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức với quy mô và mức độ tàn bạo chưa từng có.

 

Các thành phố như Sihanoukville, Poipet và Bavet đã biến thành những “công viên lừa đảo” (scam park), nơi hàng trăm ngàn người, chủ yếu là người nước ngoài, bị lừa đảo, bắt cóc, tra tấn để ép buộc làm việc trong điều kiện bị tra tấn như nô lệ giữa thời hiện đại.

 

Nạn nhân của các mạng lưới này đến từ khắp nơi trên thế giới. Một phần lớn những người bị bắt cóc, đưa đến các trại lừa đảo, bị tra tấn, ép buộc “làm việc” lại là công dân của các nước láng giềng như Việt Nam, Lào và Thái Lan.

 

Theo ước tính của Viện Hòa bình Hoa Kỳ, ngành công nghiệp lừa đảo này tạo ra doanh thu hơn 12.5 tỷ USD mỗi năm ở Campuchia, tưong đương một nửa GDP chính thức của nước này.

 

Quy mô khổng lồ này không thể tồn tại nếu không có sự bảo kê ở cấp cao nhất.

 

Cả hai chuyên gia Nguyễn Thế Phương và Zachary Abuza đều có chung nhận định rằng các trung tâm lừa đảo không chỉ là vấn đề tội phạm đơn thuần, mà đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế - chính trị Campuchia.

 

Theo ông Nguyễn Thế Phương, việc Hun Sen cho phép các hoạt động này tồn tại là vì ông ta “phải ‘nuôi’ các gia đình chính trị của Campuchia”. Lợi ích kinh tế từ các sòng bạc và trung tâm lừa đảo, vốn do các tổ chức tội phạm Trung Quốc điều hành, được bảo kê sau hậu trường của nhiều “gia đình chính trị” trong mạng lưới bảo trợ chính trị rộng lớn của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), giúp gia đình Hun Sen duy trì quyền lực. Do đó, việc dẹp bỏ các trung tâm này là “gần như rất khó”.

 

Giáo sư Zachary Abuza có cùng nhận định với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương. Ông Zachary trao đổi với RFA:

 

“Chính quyền Hun Sen/Hun Manet là một tổ chức tội phạm (criminal enterprise). Cỗ máy bảo trợ chính trị của họ, thứ mang lại cho Đảng CPP gần như độc quyền quyền lực, lại được tài trợ bởi các trung tâm lừa đảo. Nếu loại bỏ những trung tâm lừa đảo đó, thì bộ máy chính trị của Đảng CPP sẽ không còn tiền, và thế độc quyền quyền lực của họ có thể sụp đổ.”

 

Điều đó giải thích lý do những nỗ lực chống lại các “trung tâm lừa đảo” này của chính người Campuchia trung thực đã bị thất bại. Mech Dara là một nhà báo trẻ nổi tiếng của Campuchia. Anh từng nhận đưọc giải thưởng của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhờ những bài phóng sự điều tra phanh phui sự thật trần trụi về các trung tâm lừa đảo, bắt cóc và ép buộc nạn nhân phải lừa đảo. Chính quyền Campuchia đã đối xử với anh như thế nào? Anh bị bắt giữ, phải xin lỗi chính quyền công khai vì “kích động trên mạng.”

 

Đối với Việt Nam, sự bùng nổ của các trung tâm lừa đảo ngay sát biên giới tạo ra một thách thức an ninh phi truyền thống vô cùng nghiêm trọng.

 

Trong các trung tâm lừa đảo của Campuchia đã được báo chí quốc tế điểm mặt chỉ tên, có Poipet nằm sát biên giới Thái Lan và Bavet nằm sát biên giới Việt Nam. Bavet là một thành phố, đặc khu kinh tế cửa khẩu. Cửa khẩu đối diện phía Việt Nam là Mộc Bài, Tây Ninh. Bavet cách Tp. HCM chỉ hơn 70 km.

 

Nó gây ra những vấn đề xã hội nhức nhối khi hàng ngàn công dân Việt Nam bị bắt cóc, tra tấn và ép buộc phạm tội.

 

Nó tạo gánh nặng khổng lồ cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc giải cứu nạn nhân và truy bắt tội phạm.

 

Hơn nữa, kế hoạch xây dựng một “đặc khu kinh tế” dọc theo kênh đào Phù Nam, trong đó có thêm một đặc khu nữa, chỉ cách tỉnh Tây Ninh của Việt Nam khoảng 50 km, có thể tạo ra một nỗi lo sợ có thật rằng một “Bavet thứ hai” – một ổ tội phạm và bất ổn – sẽ mọc lên ngay tại cửa ngõ của Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam.

 

 

Trạng thái “bình thường mới” trong quan hệ Việt Nam - Campuchia?

 

Liệu “mối quan hệ đặc biệt” trong quá khứ giữa Hà Nội và Phnompenh giờ đây chỉ còn là một hoài niệm lịch sử?

 

Như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương, Hà Nội có thể vẫn coi chế độ hiện tại ở Phnom Penh là “lựa chọn ít tồi tệ nhất” so với các kịch bản hỗn loạn khác. Điều đó có nghĩa là Hà Nội đã sẵn sàng ứng phó với nhiều kịch bản khác nhau.

 

Cuộc xung đột vũ trang kéo dài hai tháng giữa Thái Lan và Campuchia vào mùa hè năm 2025 vừa tạm ngưng bằng một lệnh ngừng bắn, rồi ngay lập tức hai bên giao chiến trở lại. Chắc hẳn cuộc chiến này sẽ không dai dẳng. Tuy vậy, những dư chấn địa chính trị mà nó tạo ra sẽ còn kéo dài.

 

Đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng này đã đóng vai trò như một chất xúc tác, đẩy nhanh một quá trình chuyển dịch chiến lược vốn đã âm ỉ từ lâu.

 

Sự “quay lưng nhẹ nhàng” của Hà Nội đối với chính quyền Hun Sen ở Phnom Penh, được thể hiện qua những tín hiệu ngoại giao và quân sự tinh tế nhưng rõ ràng, không phải là một phản ứng cảm tính hay nhất thời.

 

Mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, do đó, đã bước vào một giai đoạn mới, một “trạng thái bình thường mới”, trong đó Việt Nam đã sẵn sàng đối diện với những bất ổn, trạng thái thiếu tin cậy và tiềm ẩn nhiều rủi ro.







PHÍ VISA NHẬP CẢNH VIỆT NAM TĂNG HƠN 1.000%? (Trần Kiêm Doàn / Bauxite Việt Nam)

 



 

 

Phí visa nhập cảnh du lịch Việt Nam tăng hơn 1000%?!

Trần Kiêm Đoàn

Posted on 03/08/2025 by Boxit VN

https://boxitvn.online/?p=94537#more-94537

 

Hôm nay ngày 1-8-2025 tại California, Hoa Kỳ tức là ngày 2 tháng 8 năm 2025 tại Việt Nam, sự kiện thực tế xảy ra từ “hiện trường” Tân Sơn Nhất như sau:

 

Gia đình Tran-Perez gồm vợ chồng (đều là bác sĩ Y khoa) và ba con (sinh viên đại học với khuynh hướng theo ngành Y) từ Mỹ về tình nguyện làm CÔNG TÁC THIỆN NGUYỆN tại Dak Lak (Buôn Mê Thuột) theo chương trình trợ giúp nhân đạo thuộc tổ chức SAP-VIETNAM.

SAP-VIETNAM (Social Assistance Program for Vietnam) là một tổ chức thiện nguyện phi lợi nhuận, hoạt động với mục tiêu hỗ trợ y tế và xã hội cho người dân có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam. Được thành lập từ năm 1992 tại Hoa Kỳ, tổ chức này quy tụ các bác sĩ, dược sĩ, chuyên viên y tế và thiện nguyện viên người Việt hải ngoại, thường xuyên về Việt Nam để thực hiện các chương trình khám bệnh, cấp thuốc miễn phí, phẫu thuật nhân đạo và trợ giúp cộng đồng.

 

Tương tự như tổ chức Doctors Without Borders (Médecins Sans Frontières), SAP-VIETNAM hoạt động độc lập, không vụ lợi và không phân biệt vùng miền, tôn giáo hay chính kiến. Tổ chức này đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và chăm sóc sức khỏe cho hàng chục ngàn người Việt Nam ở các vùng sâu, vùng xa trong suốt hơn ba thập kỷ qua.

 

Con cháu trong gia đình chúng tôi hiện có 9 thành viên (5 doctors chuyên ngành và 4 sinh viên đại học) đang có mặt tại Dak Lak, tự nguyện tự túc mọi chi phí và đóng góp tin bạc theo quy định. Các cháu có 3 đứa sinh ở Việt Nam, rời quê hương ở tuổi lên 10, 1 sinh tại Hong Kong, hai ngoại quốc và 4 sinh ở Mỹ. Sau hơn 43 năm định cư tại Hoa Kỳ, hầu hết các cháu lần đầu tiên về Việt Nam với tinh thần thiện nguyện và học hỏi lịch sử.

 

Tuy đã xin Visa nhập cảnh Việt Nam online nhưng thẻ visa về chưa kịp nên phải làm DỊCH VỤ VISA NHẬP CẢNH TẠI PHI TRƯỜNG (VISA ON ARRIVAL).

 

Tại đây, lệ phí cho mỗi Visa là 320 đô la Mỹ. Tống cộng: 320 x 5 = 1.600 USD tương đương với 42 triệu VND theo mệnh giá tiền Việt Nam hiện hành.

 

Tham khảo các tài liệu về Tài Chính, Hải Quan và Luật pháp Việt Nam và Quốc tế hiện đang áp dụng tại các nước lân cận thì được biết như sau:

 

Trung Quốc: 19 USD

 

Thái Lan: 20 USD

 

Việt Nam: 25 USD

 

Indonesia: 35 USD

 

Lào: 40 USD

 

Campuchia: 45 USD

 

Myanmar: 50 USD

 

Như vậy, do những nguyên tắc ứng dụng và phụ thu như thế nào và từ đâu tới mà bản thân người xin nhập cảnh chưa được cơ quan chức năng sở tại giải thích để người trả phí được hiểu rõ ràng minh bạch; thậm chí có sự suy diễn quá tầm rằng: phí Visa nhập cảnh du lịch Việt Nam tăng hơn 1000%?!

 

Sở dĩ tôi đề cập đến vấn đề lệ phí Giấy Thông Hành Nhập Cảnh là vì đang hồi hộp theo dõi chuyến về thăm Quê Hương của con rể và các cháu ngoại lần đầu tiên háo hức về thăm đất nước nguồn cội của người phối ngẫu, của Ông Bà, Cha Mẹ; cộng thêm với tinh thần từ thiện và nhân bản là tình nguyện giúp người trong cảnh khó khăn chưa hề quen biết nhưng chung nguồn huyết thống trực hay gián tiếp với bản thân mình đang cực kỳ lúng túng và thất vọng trong bước đầu nhập cảnh.

 

Khi viết những dòng này, tôi chưa có ý chỉ trích, phê phán hay kết luận “sai  đúng” về một sự kiện đang xảy ra trong mắt nhìn công khai hàng ngày của hằng triệu hành khách quốc tế. Hiện tượng chi phí bị tăng hơn 30 lần vẫn chưa được lý giải thỏa đáng như gia đình của con cháu chúng tôi đang có mặt tại Việt Nam đang nhận chịu. Dù với bất cứ lý do nào, suốt hơn 40 năm du lịch thường niên đến các quốc gia và vùng miền trên thế giới, chúng tôi chưa bao giờ gặp cảnh “thu phí bất thường” như thế này.

 

Việt Nam đang tiến những bước đầy khích lệ được thế giới kính trọng. Ngành du lịch phát triển. Không vì một lý do gì để níu lại hay làm chậm bước tiến lên đầy hứa hẹn của đất nước và dân tộc.

 

Năm 2024, được biết ngành Du lịch (Travel & Tourism) Việt Nam đã thu về cho đất nước với tổng doanh thu toàn ngành đạt khoảng 840 nghìn tỷ, tương đương khoảng 32.96 tỷ USD chiếm 6.6–7.0% GDP (so sánh với Nông  lâm  thuỷ sản ≈ 12–14%). Du lịch đóng một vai trò rất tích cực trong quốc kế dân sinh.

 

Khẩu hiệu của chính quyền Việt Nam đương đại, dưới sự lãnh đạo của TBT Tô Lâm đang được người dân Việt và cộng đồng thế giới quan tâm, mang một thông điệp đầy phấn khích là “Việt Nam cất cánh, tiến vững, tiến mạnh vào tương lai…”.

 

Mong rằng, người Việt và thế giới; đặc biệt là giới trẻ kế thừa đang từng bước nhìn thấy và trải nghiệm cuộc hành trình Việt Nam đang diễn tiến.

 

Các con, các cháu trong những ngày tới gắng làm hết khả năng để giúp cho bà con mình tại Dak Lak với niềm tin là thế hệ đàn anh tại Việt Nam có tâm và có tầm, đủ bản lĩnh sẽ níu kéo các con trở về quê hương không chỉ lần này mà còn nhiều lần tới nữa.

 

Sacramento, ngày đầu tháng Tám

T. K. Đ.

Tác giả gửi BVN

 

 

ENGLISH VERSION

 

TOURIST VISA FEE TO ENTER VIETNAM INCREASED BY OVER 1000%?!

Trần Kiêm Đoàn

 

August 1, 2025 in California, USA (August 2 in Vietnam) — A real-life incident has just occurred at Tan Son Nhat Airport, as follows:

 

The Tran-Perez family, consisting of a couple (both medical doctors) and their three children (university students intending to pursue medical careers), returned from the U.S. to volunteer in humanitarian work in Dak Lak (Buon Me Thuot) through the humanitarian assistance program of the organization SAP-VIETNAM.

 

SAP-VIETNAM (Social Assistance Program for Vietnam) is a nonprofit humanitarian organization aimed at providing medical and social support to underprivileged people in Vietnam. Established in 1992 in the United States, this organization brings together doctors, pharmacists, healthcare professionals, and overseas Vietnamese volunteers who regularly travel to Vietnam to carry out free medical exams, distribute medicine, perform humanitarian surgeries, and support local communities.

 

Much like Doctors Without Borders (Médecins Sans Frontières), SAP-VIETNAM operates independently, without profit motives or political, regional, or religious bias. Over the past three decades, it has significantly contributed to improving the quality of life and healthcare for tens of thousands of Vietnamese people in remote and underserved areas.

 

In our extended family, there are currently 9 members (5 specialized doctors and 4 university students) present in Dak Lak, who have volunteered and are self-funding all expenses, as well as contributing financially as required. Among them, three were born in Vietnam and left at age 10, one was born in Hong Kong, two in other foreign countries, and four in the U.S. After over 43 years living in the United States, most of them are returning to Vietnam for the first time, filled with a spirit of volunteering and a desire to learn about their ancestral history.

 

Although they had applied for Vietnam entry visas online, their visa cards had not arrived in time. As a result, they had to use the Visa on Arrival service at the airport.

 

There, the visa fee for each individual was 320 USD. Total: 320 x 5 = 1,600 USD, equivalent to about 42 million VND at the current exchange rate.

 

After reviewing financial, customs, and legal documents applied in Vietnam and neighboring countries, we found the following visa-on-arrival fees for comparison:

 

· China: 19 USD

 

· Thailand: 20 USD

 

· Vietnam (official online rate): 25 USD

 

· Indonesia: 35 USD

 

· Laos: 40 USD

 

· Cambodia: 45 USD

 

· Myanmar: 50 USD

 

So, what principles or surcharges have led to this increase — and where do they come from? These have not been clarified by any local authorities for the applicants to understand the reasoning transparently. Some might even speculate beyond reason that “Vietnam’s tourist visa fee has increased over 1000%”!

 

I raise the issue of entry visa fees because I am anxiously following my son-in-law and grandchildren’s first trip to their ancestral homeland — the land of their spouse, grandparents, and parents. With hearts full of excitement and compassion, they came to help strangers who share a common heritage, whether directly or indirectly. However, they have faced confusion and disappointment right at the very first step of entering the country.

 

In writing these words, I have no intention to criticize or conclude what is “right or wrong” about this situation, which is visibly experienced daily by millions of international travelers. The fact that the cost has increased more than 30 times without clear explanation is something our family is personally experiencing. In over 40 years of international travel, we have never encountered such an unusual and unexplained fee collection like this.

 

Vietnam is making inspiring strides that are gaining global recognition. Tourism is on the rise. There is no reason to slow or hinder the promising forward movement of this nation and its people.

 

In 2024, it was reported that the Travel & Tourism industry in Vietnam generated a total revenue of about 840 trillion VND, equivalent to approximately 32.96 billion USD, contributing 6.6–7.0% to the national GDP (compared to Agriculture–Forestry–Fisheries at about 12–14%). Tourism clearly plays a vital role in the country’s socio-economic development.

 

The current Vietnamese government, under the leadership of General Secretary To Lam, has promoted a slogan that is drawing attention both domestically and internationally:
“Vietnam Takes Off — Advancing Steadily and Boldly into the Future.”

 

We hope that Vietnamese people and the world — especially the younger generations — will continue to witness and participate in this evolving journey of Vietnam.

 

In the coming days, our children and grandchildren will do their best to assist the people of Dak Lak, with the belief that the elder generations in Vietnam — with both heart and vision — will be capable of encouraging them to return not just this time, but many times in the future.

 

Sacramento, August 2025

 

 

 

 


NGƯỜI NGHIÊN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ TỘI PHẠM (Tino Cao / Báo Tiếng Dân)

 



Người nghiện ma túy không phải là tội phạm

Tino Cao

01/08/2025

https://baotiengdan.com/2025/08/01/nguoi-nghien-ma-tuy-khong-phai-la-toi-pham/

 

Tôi không phải là người nghiện ma túy. Tuy nhiên, xin nói một cách thành thật, tôi từng sử dụng một số chế phẩm chiết xuất từ ma túy, hợp pháp và có kiểm soát, như một liệu pháp an thần trong những giai đoạn bất ổn tâm lý do trầm cảm.

 

Tôi cũng có nhiều năm làm việc trong lĩnh vực phát triển, điều phối các dự án hỗ trợ phục hồi chức năng và tái hòa nhập cộng đồng dành cho các nhóm yếu thế. Trong quá trình đó, tôi tiếp xúc và làm việc với không ít người từng sử dụng chất gây nghiện, cả những trường hợp lệ thuộc nặng nề lẫn những người dùng trong kiểm soát.

 

Có lẽ chính từ vị trí ấy, tôi có một góc nhìn khác, tuy không hề nhân nhượng với tác hại của ma túy nhưng cũng không đồng tình với cách xã hội nhìn người nghiện như tội đồ.

 

Tôi đọc báo trong nước, được biết, tại một phiên họp chuyên đề của Chính phủ ngày 23 tháng 7 năm 2025, thủ tướng Phạm Minh Chính đã có một phát biểu gây chú ý: “Cần thể chế hóa quan điểm mới của Đảng: Nghiện ma túy là phạm tội”. Lý do được đưa ra là để ngăn chặn nguồn cầu từ sớm, từ xa, và bảo đảm “quản lý tốt” vấn đề ma túy từ gốc. Phát biểu này đã khiến không ít người gật gù, bởi nghe thì rất hợp lý, có cung là vì có cầu, mà nếu cầu được dẹp yên bằng cách hình sự hóa người nghiện thì vấn đề coi như đã được giải quyết ổn một phần.

 

Nhưng… có thật là ổn không?

 

Với tư cách là một người có nghiên cứu xã hội học, hay nói giản dị hơn, thích mổ xẻ các rối loạn xã hội không bằng kéo lưới mà bằng cái nhìn khoa học, tôi xin phép được đi ngược dòng luận điểm này. Không phải để phản bác mà chỉ xin hỏi lại, và mời cùng suy nghĩ lại, rằng nghiện ma túy có thật sự là một tội ác?

 

Nói tới “tội phạm”, người ta thường hình dung một hành vi có chủ đích, có ý đồ gây hại, có hậu quả nghiêm trọng, có yếu tố nguy hiểm cho xã hội. Nhưng nghiện thì không hẳn vậy. Người nghiện, nhìn từ khoa học thần kinh, là người đang phải sống chung với một bệnh lý mãn tính ở não, cụ thể là rối loạn về kiểm soát hành vi và ham muốn. Việc sử dụng ma túy không còn là hành vi hoàn toàn tự nguyện mà trở thành một vòng lặp cưỡng chế, khó thoát ra, dù có nhận thức được sự nguy hiểm.

 

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) cùng hầu hết các hiệp hội y khoa trên thế giới đều thống nhất nghiện là một bệnh, chứ không phải hành vi tội phạm. Coi người nghiện là tội phạm chẳng khác nào gọi bệnh nhân ung thư là… lười biếng. Nó bỏ qua toàn bộ tiến trình sinh học, tâm lý và xã hội đã dẫn tới tình trạng nghiện; và thay vì tìm cách can thiệp, chữa trị, chúng ta lại chọn cách đẩy họ ra bên lề, đóng khung và kết án.

 

Bạn thử tưởng tượng, một người tên A, 24 tuổi, nghiện heroin. Anh ta không đi cướp, không buôn bán, không gây rối. Chỉ là dùng ma túy trong phòng trọ mỗi tối vì không chịu nổi những ký ức bị lạm dụng hồi nhỏ. Bây giờ, nếu dự thảo luật mới được thông qua, A sẽ bị coi là tội phạm, có thể bị xử lý hình sự. Hỏi thật, việc nhốt A vào tù có giúp anh ta cai nghiện không? Hay chỉ khiến anh tuyệt vọng hơn, quay cuồng trong kỳ thị và mất đi cơ hội chữa trị?

 

Điều đáng buồn là, ở Việt Nam, đa phần người nghiện chưa từng được tiếp cận đúng mức với dịch vụ y tế chuyên biệt. Các trung tâm cai nghiện công lập chủ yếu hoạt động theo mô hình “quản lý – giám sát”, thiếu nhân lực chuyên môn về sức khỏe tâm thần, thiếu thuốc điều trị thay thế và thường xuyên hoạt động giống một trại kỷ luật hơn là nơi chữa bệnh. Việc hình sự hóa sẽ chỉ làm tình hình tồi tệ hơn, ở chỗ, người nghiện sợ sẽ bị phát hiện, họ trốn tránh và mất đi cơ hội tiếp cận dịch vụ can thiệp y tế để rồi tiếp tục chìm sâu trong nghiện.

 

Từ góc nhìn xã hội học, hình sự hóa hành vi nghiện là biểu hiện của một xã hội ưa nhị nguyên hóa, thích chia người thành hai nhóm: tốt – xấu, sạch – bẩn, bình thường – lệch chuẩn. Nhưng đời không vận hành bằng hai màu trắng – đen. Người ta đến với ma túy vì muôn vạn lý do: Có người vì bế tắc, có người vì sang chấn tâm lý, có người do hoàn cảnh gia đình, có người chỉ vì thiếu hiểu biết. Việc gom tất cả vào một rọ “phạm tội” vừa đơn giản hóa một hiện tượng phức tạp, vừa khiến chính sách trở nên phi lý.

 

Bạn hãy hình dung xã hội như một hệ thống ống nước. Ma túy là rò rỉ, nghiện là nước tràn ra sàn. Bây giờ, thay vì kiểm tra van, hàn ống, ta lại đi phạt… cái sàn vì ướt. Càng phạt, càng rò rỉ mạnh hơn. Mà trừng phạt người nghiện là như thế. Nó không sửa được gốc, nó chỉ làm hậu quả thêm nặng.

 

Nếu chúng ta thật sự muốn cắt đứt “nguồn cầu”, tức giảm nhu cầu sử dụng ma túy trong xã hội, thì con đường không nằm ở bản án hình sự mà ở y tế, giáo dục và chính sách an sinh. Phòng chống nghiện hiệu quả là phải dạy trẻ em về sức khỏe tâm thần từ nhỏ, là phải tạo môi trường sống không bạo lực, là phải bảo đảm người yếu thế được tiếp cận dịch vụ hỗ trợ khi cần. Là phải biến phòng tư vấn tâm lý trở thành nơi dễ tìm như quán cà phê, chứ không phải thứ xa xỉ cho giới nhà giàu.

 

Trên thế giới, Bồ Đào Nha là hình mẫu điển hình. Năm 2001, họ đứng trước cơn khủng hoảng ma túy với hàng chục ngàn người nghiện và tỉ lệ tử vong vì sốc thuốc cao nhất châu Âu. Nhưng thay vì hình sự hóa, họ phi hình sự hóa việc sử dụng và tàng trữ ma túy với mục đích cá nhân, đồng thời đầu tư mạnh vào y tế công cộng và hỗ trợ tâm lý. Hai mươi năm sau, tỉ lệ nghiện giảm mạnh, tỉ lệ lây nhiễm HIV qua đường tiêm chích gần như về 0, tử vong do sốc thuốc giảm 75%. Đặc biệt, người nghiện được coi là người bệnh và được chăm sóc như một phần của xã hội.

 

Còn ở Việt Nam, nếu cứ khăng khăng cho rằng người nghiện là tội phạm, chúng ta không chỉ đi ngược xu thế thế giới, mà còn… đá chân phải vào chính chân trái của mình. Vì hậu quả kinh tế – xã hội sẽ lớn hơn rất nhiều so với cái cảm giác “trật tự” mà việc bỏ tù mang lại. Tưởng rằng dọn sạch được bề mặt, nhưng rác ngầm thì lại chất thành đống.

 

Tất nhiên, không ai cổ xúy cho việc sử dụng ma túy. Và cũng không ai phủ nhận rằng nghiện gây ra nhiều hệ lụy không chỉ cho cá nhân mà cho cả gia đình và cộng đồng. Nhưng thay vì xử lý như một “cái tội”, ta phải hiểu nó là một hệ quả, một triệu chứng của một xã hội có quá nhiều khe nứt. Điều xã hội cần làm không phải là trừng phạt triệu chứng mà là hàn lấp lại những vết nứt ấy bằng chính sách thông minh và lòng nhân đạo.

 

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh, giá trị nhân văn của một xã hội không nằm ở việc nó cứng rắn với ai mà nằm ở chỗ nó đối xử với người yếu thế ra sao. Người nghiện không cần sự tha thứ. Họ cần cơ hội. Họ cần điều trị. Họ cần một xã hội không quay lưng với họ.

 

Vì đôi khi, điều duy nhất nằm ở ranh giới giữa người nghiện và con đường phục hồi không phải là heroin mà chính là định kiến của cả một hệ thống đã gắn nhãn sai.

 

 


LIỆT SĨ VỊ QUỐC VONG THÂN LÀ LIỆT SĨ NÀO? (Đạng Đình Mạnh / Người Việt Online)

 




Liệt sĩ vị quốc vong thân là liệt sĩ nào?

Đặng Đình Mạnh

August 3, 2025 : 11:11 AM

 https://www.nguoi-viet.com/viet-nam/liet-si-vi-quoc-vong-than-la-liet-si-nao/

 

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, để bảo vệ nền độc lập nước nhà và mở mang bờ cõi được như ngày nay, thì đã có biết bao nhiêu thế hệ người Việt phải bỏ mạng ngoài sa trường.

 

https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/08/VN-bieu-tinh-HN-HoangSa-NguyVanTha-HoangDinhNam-AFP-011914-1920x1189.jpg

Dân chúng biểu tình tại Hà Nội ngày 19 Tháng Giêng, 2014, tưởng nhớ Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ Hải Quân VNCH trên chiến hạm HQ10 đã bỏ mình khi bảo vệ quần đảo Hoàng Sa đầu năm 1974, chống quân Trung Quốc xâm lược. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

 

Liệt sĩ, tử sĩ, chiến sĩ trận vong, vị quốc vong thân, anh hùng vô danh… đều là những danh từ để chỉ về họ, những người đã hy sinh tính mệnh của mình vì xứ sở. Tên tuổi của họ không được lưu truyền trong sử sách, hầu như người đời sau chỉ nhớ đến các chủ soái của họ như Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ…

 

Thế nhưng, không có sự hy sinh của họ, thì những vị chủ soái họ đã không thể làm nên những chiến công hiển hách tại sông Như Nguyệt, tại Bạch Đằng Giang, tại Chi Lăng, tại Đống Đa… Nhưng vĩnh viễn, họ chỉ là những anh hùng vô danh. Đúng nghĩa “nhất tướng công thành vạn cốt khô.”

 

Ngày nay, đi suốt từ Bắc chí Nam, ở mỗi địa phương, chúng ta lại thấy những cột đài bê tông cao nghễu nghệu, đường nét kiến trúc xa lạ, trên đó khắc ghi dòng chữ “Tổ quốc ghi công.” Đây là những công trình được chế độ đương thời xây dựng để ghi nhớ công ơn những người đã ngã mình hy sinh cho chế độ, cho ý thức hệ mà họ đã từng tưởng nhầm là chính nghĩa cho quê hương.

 

Hàng năm, vào ngày 27 Tháng Bảy, được đặt định là “Ngày Thương Binh Liệt Sĩ.” Trong ngày này, chế độ Hà Nội cho tiến hành các hoạt động kỷ niệm như thăm các gia đình thương binh, liệt sĩ; Viếng, dâng hương tại các nghĩa trang, tượng đài liệt sĩ và tổ chức nhiều chương trình văn nghệ kỷ niệm.

 

Chỉ có điều, những người được “Tổ quốc ghi công” bởi chế độ đương thời chưa bao giờ bao gồm những anh hùng vô danh của các triều đại quân chủ hay chính quyền trước đó, cho dù sự hy sinh của họ có khác nhau về thời điểm, nhưng vẫn chỉ cùng một mục đích vì nền độc lập của xứ sở, hay quyền lợi của dân tộc!?

 

Vào trung tuần Tháng Giêng, 2014, nhân kỷ niệm 40 năm tròn xảy ra sự kiện Trung Quốc đưa quân xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, thì công chúng đã công khai nhắc đến 74 tử sĩ vốn là binh sĩ thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong trận chiến năm đó. Họ là những liệt sĩ, dĩ nhiên, vì sự hy sinh của họ là vì mục đích bảo vệ từng tấc đất, biển đảo cha ông để lại, nhưng họ không phải là những liệt sĩ được “Tổ quốc ghi công” ở bất kỳ đài tưởng niệm nào đang tồn tại suốt từ bắc chí nam, trên xứ sở mà họ đã bỏ mình gìn giữ!

 

Cũng tương tự như thế với những chiến sĩ đã phải bỏ mình trong cuộc chiến chống quân Trung Cộng xâm lược vào năm 1979 ở phía Bắc tổ quốc, được công nhận theo cách hết sức dè dặt.

 

Trong trường hợp này, người Việt có lương tri phải thấy nghèn nghẹn: Ai mới thực sự được gọi là “liệt sĩ” sau khi ngã xuống cho quê hương, đất nước? Khi mà có người ngã xuống được dựng bia ghi danh. Nhưng cũng có người hy sinh, hương khói nguội lạnh, tên tuổi không được ai nhắc đến. Tại sao vậy?

 

Lẽ ra, người ngã xuống cho quê hương, đất nước không nên là một đề tài phụ thuộc vào “phe đúng, phe sai,” vào bộ quân phục họ mặc, hoặc màu cờ trên vai áo của họ. Vì lẽ, ở họ, chúng ta chỉ cần thấy rõ một điều chung nhất rằng: Họ là con dân nước Việt, sự hy sinh của họ giúp cho quê hương, đất nước được trường tồn. Thế thì sự phân biệt bộ quân phục họ mặc, chính quyền họ phục vụ, màu cờ trên sắc áo… để làm gì?

 

https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/08/VN-bieu-tinh-chongTQ-Hanoi-GacMa-HoangDinhNam-031416-1920x1136.jpg

Dân Hà Nội biểu tình ngày 14 Tháng Ba, 2016, nhân dịp tưởng nhớ 38 năm ngày 64 lính Việt Nam bị quân Trung Cộng giết khi bảo vệ đảo chìm Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

 

Lịch sử được viết bởi những người chiến thắng, cho nên, hãy cứ chờ cho đến khi men say chiến thắng đã giã, độc tài đã kết thúc số phận của mình, những sử gia không còn bị lệ thuộc vào những hạn chế, định kiến làm lu mờ cảm xúc, thì lịch sử sẽ được viết lại một cách công bằng, để biết ai Hữu Cầu? Ai Đình Trọng?

 

Khi ấy, ta có thể tin rằng sẽ có những tượng đài “Tổ quốc ghi công” chung cho tất cả các liệt sĩ suốt từ trong lịch sử hồng hoang dân tộc cho đến nay, hết thảy họ đã bỏ mình vì nền độc lập dân tộc, vì quê hương, xứ sở thương yêu này.

 

Sẽ có một tương lai như vậy, tương lai mà người vị quốc vong thân sẽ được gọi đầy đủ với danh xưng liệt sĩ và danh tính không bao giờ bị nhân dân lãng quên…