Hun
Sen đã làm gì để Việt Nam quay lưng? – Tiếng Việt
Dư Lan / RFA
2025.08.01
https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/08/01/campuchia-thai-lan-xung-dot-viet-nam/
Sự
im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm
lẫn.
https://www.rfa.org/resizer/v2/FTZFGNHNKVFTLHMYNHURQMJDBQ.jpg?smart=true&auth=142087a705beea7ed77d8c7d550f60fb84ad38b266e3c7ebab3f89ead61f144a&width=1600&height=1066
Ông
Hun Sen gặp với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm hồi tháng 4 năm
2025. (TTXVN)
Tối
ngày 28 tháng Bảy, 2025, Campuchia và Thái Lan tuyên bố thỏa thuận ngừng bắn. Ngay sáng hôm sau, Phó thủ tướng - Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn thăm Thái Lan, gặp người đồng cấp Maris Sangiampongsa, tái
khẳng định mối quan hệ "Đối tác Chiến lược Toàn diện“.
Nhưng
điều giới quan sát chú ý không nằm ở những gì đã diễn ra ở Bangkok, mà ở những
gì đã không diễn ra.
Không
có một chuyến thăm tương tự nào đến Phnom Penh.
Sau
chuyến thăm đến Bangkok, Ngoại trưỏng Bùi Thanh Sơn đón Đại sứ Campuchia ở Hà Nội.
Không có sự kiện tương tự xảy ra ở Phnom Penh.
Trước
khi cuộc xung đột giữa Thái Lan và Campuchia nổ ra ở cấp độ quân sự, Tư lệnh
quân đội Thái Lan cũng sang thăm Việt Nam.
Khi
đặt hai sự kiện này cạnh nhau – một cuộc đối thoại quốc phòng cấp cao với Thái
Lan ngay trước khi xung đột được đẩy lên cấp độ quân sự và một chuyến thăm ngoại
giao cấp cao tới Bangkok ngay sau thỏa thuận ngừng bắn, trong khi hoàn toàn phớt
lờ Phnom Penh – một bức tranh chiến lược rõ ràng hiện ra.
Campuchia
là láng giềng có chung đường biên giới dài hơn một ngàn km và có mối quan hệ lịch
sử phức tạp với Việt Nam. Sự
im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm
lẫn.
Hà
Nội, dù công khai duy trì một chính sách ngoại giao cân bằng và chuẩn mực, trên
thực tế đã thực hiện một sự “xoay trục”, “quay lưng” với chính quyền của gia tộc
Hun Sen ở Campuchia và nghiêng về phía Thái Lan.
Đây
không phải là một phản ứng tức thời trước cuộc xung đột biên giới, mà là đỉnh
điểm của một quá trình tích tụ lâu dài, hệ quả của một chuỗi các hành động từ
Phnom Penh vốn thách thức một cách có hệ thống các lợi ích an ninh quốc gia cốt
lõi của Việt Nam.
Bề
ngoài trung lập, thực tế nghiêng trục
Trao
đổi với RFA, Giáo sư Carlyle A. Thayer đã chỉ ra cách Việt Nam cẩn trọng xây dựng hình ảnh trung lập, cách tiếp cận công bằng đối với cuộc
xung đột liên quan đến hai quốc gia đều là thành viên ASEAN.
Đây
là một chính sách ngoại giao giúp Việt Nam duy trì vai trò xây dựng trong khối,
tránh bị lôi kéo vào tranh chấp của các nước láng giềng và giữ vững hình ảnh một
thành viên có trách nhiệm.
Tuy
nhiên, đằng sau bức màn của những tuyên bố ngoại giao chuẩn mực này là một thực
tế chiến lược hoàn toàn khác.
Khi
phân tích sâu hơn các hành động và xu hướng chiến lược của Việt Nam trong giai
đoạn trước và sau xung đột, sự “công bằng” trong các tuyên bố công khai bắt đầu
mờ nhạt, nhường chỗ cho một sự tính toán chiến lược rõ ràng nghiêng về phía
Thái Lan.
Hà
Nội chính thức nâng cấp quan hệ với Bangkok lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 5 năm 2025, chỉ
hai tháng trước cuộc xung đột, là một minh chứng rõ ràng nhất cho thấy sự tin cậy
chiến lược đã được củng cố từ trước.
Trong
khi đó, mối quan hệ với Campuchia lại bị phủ bóng bởi hàng loạt các vấn đề an
ninh nghiêm trọng, từ Biển Đông, căn cứ Ream, kênh đào Phù Nam cho đến các vấn
đề an ninh phi truyền thống.
Sự
tương phản này cho thấy lựa chọn của Việt Nam không phải là một quyết định bộc
phát, ngẫu nhiên.
Thách
thức có hệ thống của Campuchia đối với an ninh Việt Nam
Thái
độ của Hà Nội đối với Phnompenh là phản ứng tất yếu trước một loạt các chính
sách của gia đình Hun Sen trong những năm gần đây. Chúng tạo ra một chuỗi các
thách thức có hệ thống và ngày càng nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia của
Việt Nam.
Những
hành động này, trải dài trên nhiều lĩnh vực từ địa chính trị, quân sự, môi trường
đến an ninh phi truyền thống, đã làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin. Nó buộc Việt
Nam phải đánh giá lại toàn bộ mối quan hệ với người láng giềng phía Tây Nam.
Thái
độ của Campuchia đối với tranh chấp Biển Đông
Campuchia,
một thành viên của khối ASEAN đã nhiều lần hành động như một “con ngựa thành
Troy”, phá vỡ sự đồng thuận của ASEAN từ bên trong. Đó là trao đổi của một
chuyên gia ở Hà Nội với RFA.
Năm
2012, lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của mình, ASEAN đã không thể ra được một Tuyên bố chung sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao (AMM) vì Campuchia, thuận theo chính sách của Bắc Kinh, đã từ
chối đưa các nội dung liên quan đến các vụ đối đầu cụ thể ở Biển Đông, như vụ
bãi cạn Scarborough, vào văn kiện.
Sự
việc này lặp lại vào năm 2016 khi Campuchia một lần nữa ngăn chặn một tuyên bố chung mạnh mẽ của ASEAN về phán
quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” của
Trung Quốc.
Trao
đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza, một chuyên gia về an ninh Đông Nam Á tại Đại
học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ, nhận định một cách thẳng thắn: “Về mặt
ngoại giao, Phnom Penh đi theo sự dẫn dắt của Bắc Kinh và thường làm theo ý
Trung Quốc khi nói đến ASEAN hoặc Biển Đông.” Bởi vì, theo GS Zachary,
Hun Sen hay Hun Manet sẽ không bao giờ “đi ngược lại lợi ích của Trung
Quốc ở Biển Đông”, và họ “không thấy lý do gì để thúc đẩy vai trò
trung tâm của ASEAN trong vấn đề này.”
Bằng
cách làm suy yếu mặt trận chung của ASEAN, Campuchia đã giúp Trung Quốc thực hiện
chiến lược “chia để trị”, làm giảm hiệu quả của các nỗ lực ngoại giao đa phương
nhằm bảo vệ công lý trên Biển Đông và sự tuân thủ Luật biển Quốc tế. Campuchia
đẩy các nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc chèn trên Biển Đông vào thế phải đối
mặt song phương với một đối thủ lớn hơn rất nhiều.
Căn
cứ Hải quân Ream là “mũi dao của Trung Quốc kề vào “vùng bụng mềm” của Việt Nam
Đó
là trao đổi với RFA của ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á,
Trung tâm CSIS.
Nếu
như chính sách đối với Biển Đông của Campuchia là đòn đánh vào chiến lược ngoại
giao của Việt Nam, thì việc Campuchia cho phép Trung Quốc hiện diện quân sự tại
Căn cứ Hải quân Ream là một mối đe dọa quân sự trực tiếp và hữu hình.
Ream
mằm ở vị trí chiến lược trên Vịnh Thái Lan, chỉ cách đảo Phú Quốc của Việt Nam khoảng 30 km đường biển,
cách Kiên Giang khoảng 70 km đường bộ.
Từ
năm 2019, Wall Street Journal đã đưa tin về một thỏa thuận bí mật cho phép Trung Quốc độc quyền sử dụng
một phần căn cứ Ream trong 30 năm đã xuất hiện, dù chính quyền Hun Sen liên tục
phủ nhận. Tuy nhiên, như một báo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
(CSIS) đã chỉ ra, các hành động sau đó đã nói lên tất cả. Campuchia đã
phá dỡ các cơ sở do Mỹ tài trợ tại Ream để thay thế bằng các cơ sở do Trung Quốc
tài trợ để hiện đại hóa toàn bộ căn cứ.
Các
phân tích hình ảnh vệ tinh từ Trung tâm CSIS cho thấy quân cảng Ream có những
cơ sở hạ tầng, bao gồm cầu cảng nước sâu, các nhà kho, khu nhà, cơ sở sửa chữa
tàu. Đáng lo ngại hơn, kể từ tháng 12 năm 2024, hai tàu hộ vệ của Hải quân Quân
giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã hiện diện gần như liên tục tại cầu cảng mới này. Các
tàu Trung Quốc là những tàu duy nhất được phép sử dụng cơ sở hạ tầng hiện đại
này. Trong khi đó, các tàu hải quân Nhật Bản khi đến thăm Campuchia đã phải
chuyển hướng đến cảng dân sự Sihanoukville thay vì Ream như thỏa thuận ban đầu.
Giáo
sư Abuza nói với RFA rằng tình hình này cho thấy Trung Quốc có “quyền
tiếp cận đặc quyền - nếu không muốn nói là hiện diện bán thường trực” tại
Ream.
Đối
với Việt Nam, điều này tạo ra một cơn ác mộng chiến lược.
Trao
đổi với RFA, ông Greg Poling, Giám đốc Chưong trình Đông Nam Á ở Trung tâm
CSIS, cho rằng nó phá vỡ thế bố trí phòng thủ của Việt Nam ở phía Nam. Bởi lẽ,
nếu đặt các trạm radar ở Ream, Trung Quốc có thể theo dõi mọi chuyển động của
Việt Nam ở Miền Nam.
Như
lời của Giáo sư Abuza, Việt Nam “giờ đây cảm thấy bị Trung Quốc bao vây tứ
phía”. Một sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Ream, ngay sát “vùng bụng mềm”
của Việt Nam, buộc Hà Nội phải phân tán lực lượng, đối mặt với nguy cơ bị tấn
công từ hai hướng (phía Bắc và phía Tây Nam) trong trường hợp xảy ra xung đột,
và làm thay đổi hoàn toàn cán cân quân sự trong khu vực.
Kênh
đào Phù Nam Techo
Dự
án kênh đào Phù Nam Techo, một siêu dự án trị giá 1.7 tỷ USD
do công ty nhà nước Trung Quốc China Road and Bridge Corporation (CRBC) thực hiện
theo hình thức Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao (BOT), là thách thức song trùng mới
nhất mà Campuchia đặt ra cho Việt Nam.
Nó
vừa là một quả bom hẹn giờ về môi trường, vừa là một đòn bẩy địa chính trị nguy
hiểm.
Về
mặt môi trường, kênh đào dài 180 km này sẽ nối sông Mê Kông (từ
một nhánh của nó là sông Bassac) ra Vịnh Thái Lan. Các chuyên gia thủy văn và
môi trường quốc tế đã gióng lên nhiều hồi chuông báo động về những tác động thảm khốc tiềm
tàng của nó đối với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và thậm chí cho chính
Campuchia.
ĐBSCL
không chỉ là nơi sinh sống của hàng chục triệu người dân Việt Nam mà còn là vựa
lúa, vựa trái cây và vựa thủy sản, đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước và
đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu. Bất kỳ sự tổn hại nào đến vùng đất này đều
là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam.
Về
mặt địa chính trị, mục tiêu công khai của Campuchia là giảm sự phụ thuộc
vào các cảng của Việt Nam, vốn đang xử lý khoảng một phần ba lượng hàng hóa xuất
nhập khẩu của họ. Bằng cách tạo ra một lối đi riêng ra biển, Campuchia sẽ loại
bỏ một trong những quan hệ kinh tế quan trọng nhất mà Hà Nội đang có đối với
Phnom Penh.
Như
Giáo sư Abuza nhận định, đây không chỉ là một dự án kinh tế, mà là một “vấn đề
an ninh”. Nó cho phép Campuchia tự do hành động hơn trong các chính sách đối
ngoại mà không cần quá bận tâm đến phản ứng của Việt Nam.
Điều
làm tăng thêm sự lo ngại là thái độ thiếu minh bạch, có phần lừa dối của
Campuchia. Trong thông báo gửi đến Ủy hội sông Mê Kông (MRC), Campuchia đã phân
loại dự án này là một dự án “nhánh sông” (tributary). Trong đó, như một báo cáo
của Stimson Center đã chỉ ra, kênh đào này kết nối trực tiếp
với hai kênh thuộc dòng chính của sông Mê Kông.
Việc
phân loại sai này giúp Phnom Penh tránh được quy trình “Tham vấn Trước” (Prior
Consultation) nghiêm ngặt theo Hiệp định Mê Kông 1995, một quy trình đòi hỏi phải
có đánh giá tác động xuyên biên giới toàn diện và sự đồng thuận của các nước
thành viên khác. Điều này cho thấy Hun Sen và Hun Manet không có ý định hợp tác
một cách thiện chí và sẵn sàng phớt lờ những lo ngại chính đáng của Việt Nam.
Thiên
đường cho tội phạm xuyên quốc gia
Như
RFA đã thông tin, trong những năm gần đây, Campuchia đã trở thành một trong những trung tâm lớn nhất thế giới của ngành công
nghiệp lừa đảo trực tuyến, một hình thức tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức với quy mô và mức độ
tàn bạo chưa từng có.
Các thành phố như Sihanoukville, Poipet và Bavet đã biến
thành những “công viên lừa đảo” (scam park), nơi hàng trăm ngàn người, chủ yếu
là người nước ngoài, bị lừa đảo, bắt cóc, tra tấn để ép buộc làm việc trong điều kiện bị tra tấn
như nô lệ giữa thời hiện đại.
Nạn
nhân của các mạng lưới này đến từ khắp nơi trên thế giới. Một phần lớn những
người bị bắt cóc, đưa đến các trại lừa đảo, bị tra tấn, ép buộc “làm việc” lại
là công dân của các nước láng giềng như Việt Nam, Lào và Thái Lan.
Theo
ước tính của Viện Hòa bình Hoa Kỳ, ngành công nghiệp lừa đảo này tạo ra doanh
thu hơn 12.5 tỷ USD mỗi năm ở Campuchia, tưong đương một nửa GDP chính thức của nước này.
Quy
mô khổng lồ này không thể tồn tại nếu không có sự bảo kê ở cấp cao nhất.
Cả
hai chuyên gia Nguyễn Thế Phương và Zachary Abuza đều có chung nhận định rằng
các trung tâm lừa đảo không chỉ là vấn đề tội phạm đơn thuần, mà đã trở thành một
bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế - chính trị Campuchia.
Theo
ông Nguyễn Thế Phương, việc Hun Sen cho phép các hoạt động này tồn tại là vì
ông ta “phải ‘nuôi’ các gia đình chính trị của Campuchia”. Lợi
ích kinh tế từ các sòng bạc và trung tâm lừa đảo, vốn do các tổ chức tội phạm
Trung Quốc điều hành, được bảo kê sau hậu trường của nhiều “gia đình chính trị”
trong mạng lưới bảo trợ chính trị rộng lớn của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP),
giúp gia đình Hun Sen duy trì quyền lực. Do đó, việc dẹp bỏ các trung tâm này
là “gần như rất khó”.
Giáo
sư Zachary Abuza có cùng nhận định với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương. Ông
Zachary trao đổi với RFA:
“Chính quyền Hun Sen/Hun Manet là một tổ
chức tội phạm (criminal enterprise). Cỗ máy bảo trợ chính trị của họ, thứ mang
lại cho Đảng CPP gần như độc quyền quyền lực, lại được tài trợ bởi các trung
tâm lừa đảo. Nếu loại bỏ những trung tâm lừa đảo đó, thì bộ máy chính trị của Đảng
CPP sẽ không còn tiền, và thế độc quyền quyền lực của họ có thể sụp đổ.”
Điều
đó giải thích lý do những nỗ lực chống lại các “trung tâm lừa đảo” này của
chính người Campuchia trung thực đã bị thất bại. Mech Dara là một nhà báo trẻ nổi tiếng của Campuchia.
Anh từng nhận đưọc giải thưởng của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhờ những bài phóng sự
điều tra phanh phui sự thật trần trụi về các trung tâm lừa đảo, bắt cóc và ép
buộc nạn nhân phải lừa đảo. Chính quyền Campuchia đã đối xử với anh như thế
nào? Anh bị bắt giữ, phải xin lỗi chính quyền công khai vì “kích động trên mạng.”
Đối
với Việt Nam, sự bùng nổ của các trung tâm lừa đảo ngay sát biên giới tạo ra một
thách thức an ninh phi truyền thống vô cùng nghiêm trọng.
Trong
các trung tâm lừa đảo của Campuchia đã được báo chí quốc tế điểm mặt chỉ tên,
có Poipet nằm sát biên giới Thái Lan và Bavet nằm sát biên giới Việt Nam. Bavet là
một thành phố, đặc khu kinh tế cửa khẩu. Cửa khẩu đối diện phía Việt Nam là Mộc
Bài, Tây Ninh. Bavet cách Tp. HCM chỉ hơn 70 km.
Nó
gây ra những vấn đề xã hội nhức nhối khi hàng ngàn công dân Việt Nam bị bắt
cóc, tra tấn và ép buộc phạm tội.
Nó
tạo gánh nặng khổng lồ cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc giải cứu nạn
nhân và truy bắt tội phạm.
Hơn
nữa, kế hoạch xây dựng một “đặc khu kinh tế” dọc theo kênh đào Phù Nam, trong
đó có thêm một đặc khu nữa, chỉ cách tỉnh Tây Ninh của Việt Nam khoảng 50 km,
có thể tạo ra một nỗi lo sợ có thật rằng một “Bavet thứ hai” – một ổ tội phạm
và bất ổn – sẽ mọc lên ngay tại cửa ngõ của Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm
kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
Trạng
thái “bình thường mới” trong quan hệ Việt Nam - Campuchia?
Liệu
“mối quan hệ đặc biệt” trong quá khứ giữa Hà Nội và Phnompenh giờ đây chỉ còn
là một hoài niệm lịch sử?
Như
nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương, Hà Nội có thể vẫn coi chế độ hiện
tại ở Phnom Penh là “lựa chọn ít tồi tệ nhất” so với các kịch bản hỗn loạn
khác. Điều đó có nghĩa là Hà Nội đã sẵn sàng ứng phó với nhiều kịch bản khác
nhau.
Cuộc
xung đột vũ trang kéo dài hai tháng giữa Thái Lan và Campuchia vào mùa hè năm
2025 vừa tạm ngưng bằng một lệnh ngừng bắn, rồi ngay lập tức hai bên giao chiến
trở lại. Chắc hẳn cuộc chiến này sẽ không dai dẳng. Tuy vậy, những dư chấn địa
chính trị mà nó tạo ra sẽ còn kéo dài.
Đối
với Việt Nam, cuộc khủng hoảng này đã đóng vai trò như một chất xúc tác, đẩy
nhanh một quá trình chuyển dịch chiến lược vốn đã âm ỉ từ lâu.
Sự
“quay lưng nhẹ nhàng” của Hà Nội đối với chính quyền Hun Sen ở Phnom Penh, được
thể hiện qua những tín hiệu ngoại giao và quân sự tinh tế nhưng rõ ràng, không
phải là một phản ứng cảm tính hay nhất thời.
Mối
quan hệ Việt Nam - Campuchia, do đó, đã bước vào một giai đoạn mới, một “trạng
thái bình thường mới”, trong đó Việt Nam đã sẵn sàng đối diện với những bất ổn,
trạng thái thiếu tin cậy và tiềm ẩn nhiều rủi ro.