Trần
Tiến Dũng: Chết vì mở cửa hậu cho Trung Quốc
Tháng
Tư, là tháng 50 trước những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, trước tháng
4-2025 hai nước Việt-Mỹ đã có vài thập niên bang giao, hoà hoãn; và giờ đây trớ
trêu thay lại bắt đầu chiến tranh thuế quan giữa Việt Nam và Mỹ (chính quyền Tổng
thống Trump).
Không
bàn về cụm từ được dịch sang tiếng Việt mà ông Trump sử dụng: “Ngày Giải
phóng”, bởi 50 năm qua người Việt thấm thía sự chia rẽ giữa bên hân hoan và bên
đau khổ quanh cụm từ: ngày giải phóng này.
Việc
chính quyền Trump áp thuế đối ứng lên hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam đang làm
chấn động dư luận và tâm trạng người Việt Nam. Không cần phải nhắc lại con số
thuế đối ứng cao khủng hoảng mà Mỹ vừa công bố áp đặt ngày 2-4-2025; chỉ cần đừng
để mất trọng tâm về sự kiện, sự việc đen tối này.
Vậy
trọng tâm thuế đối ứng của Mỹ là gì? Rõ ràng là nhắm hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ
từ Việt Nam. Hãy coi cách mà Mỹ định thuế đối ứng với Lao và Cambodia cao hơn cả
Việt Nam dù hàng hoá từ hai quốc gia này xuất sang Mỹ có thâm thụt thương mãi với
Mỹ chẳng có chút đáng kể nào so với Việt Nam. Như vậy, đường thoát của hàng hoá
xuất khẩu đến Mỹ từ Việt Nam nếu mượn cửa hậu Lào, Cambodia đã bị khoá. Nhớ lại
trong chiến tranh Việt nam, Bắc Việt chính nhờ mượn được đường Lao và Cambodia
nên thông đường đến thắng lợi.
Không
hề sai khi cho rằng mục đích của chính quyền Trump là khoá cửa hậu của hàng hoá
Trung Quốc thông qua Việt Nam và giờ đây cửa hậu của hàng hoá Việt Nam nếu qua
cử hậu Lao và Cambodia cũng không thoát thuế đối ứng kinh khủng của Mỹ. Không
bàn chuyện tương lai khi Mỹ và Việt Nam thương lượng lại về mức thuế đối ứng
46%. Vấn đề trong tâm ở đây là dù có kéo mức thuế trên xuống được vài phần trăm
hoặc được huỷ bỏ trăm phần trăm thì trong chiến lược chiến tranh thuế quan này
đã lộ rõ mồn một: Hàng hoá Việt nam bị bao vây với thân phận cá nằm trên thớt.
Ý nghĩa lớn hơn là: Hàng hoá xuất khẩu đi Mỹ của Việt Nam do bởi cửa hậu Trung
Quốc và sẽ chết vì Trung Quốc.
Tất
nhiên nếu cho rằng đích nhắm chiến tranh thuế quan của Mỹ là Trung Quốc thì
cũng hiểu rằng còn khuya Trung Quốc mới chết vì các đòn thuế từ Mỹ.
Tác
động và hậu quả của đòn thuế đối ứng nhắm vào kinh tế, xã hội Việt Nam khó có
thể đo lườngg hết nguy nan. Nhưng hệ trọng hơn là chính quyền Việt Nam hiện
hành ứng phó ra sao trước sự phá sản chiến lược điều hành kinh tế. Làm sao lại
có thể mê ngủ để cười đắc thắng hoài với con số hàng trăm tỷ đô la thâm thụt mậu
dịch với Mỹ. Suốt nhiệm kỳ của chính phủ đảng Dân Chủ Tổng thống Biden họ mở
kho báu thâm hụt mậu dịch để Việt Nam rớt vô bằng hàng hoá từ Việt Nam và cả từ
cửa hậu Trung Quốc. Thiển nghĩ ông Tổng thống Biden giăng bẫy, tới lúc Tổng thống
Trump bắt mồi chắc cũng không quá đáng.
Và
giờ đây… bước tiếp ra sao để có “kỷ nguyên mới!”. Có người nói: Không lo, người
cộng sản cầm quyền Việt Nam rất giỏi, Ừ thì mong họ không mê ngủ tự sướng nữa,
nếu may mắn thoát được không sứt mẻ nhiều trong cái bẫy thuế đối ứng Mỹ lần
này, thì sự thoát đó, chính quyền Mỹ của Trump đương nhiên là không cho không.
Biết đâu tháng sau ông Trump nói đẩy đưa với Hà Nội. Hi, mấy ông nghĩ sao về hiệp
định tay đôi khai thác khoáng sản đất hiếm giống như với Ukraine hi!
Sài
Gòn
4-4-2025
***
Lê
Công Định: Thuế quan, chủ nghĩa biệt lập và vẻ đẹp “Mỹ”
Ngày
2/4/2025 vừa qua, chính quyền Tổng thống Donald Trump đã tuyên bố áp thuế nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập vào thị trường Mỹ từ nhiều quốc gia khác nhau trên
thế giới. Riêng Việt Nam mức thuế suất đối ứng (thực chất là trả đũa) là 46%.
Điều
này gây ảnh hưởng bất lợi đến các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang
thị trường Mỹ, nghiêm trọng hơn cả khi họ phải đối diện các vụ điều tra chống
bán phá giá (anti-dumping investigations) do Bộ Thương mại Mỹ thực hiện theo
yêu cầu của các nhà sản xuất nội địa Mỹ từ 22 năm qua.
Như
vậy, Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Donald Trump đã chính thức đoạn tuyệt chính
sách cổ suý thương mại tự do (free trade) và toàn cầu hóa (globalization) từ
sau Đệ nhị Thế chiến, để quay về với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch (trade
protectionism) bằng biện pháp thuế quan.
Trong
cuộc phỏng vấn trước khi nhậm chức vào tháng 1/2025, ông Trump đã tuyên bố
chính sách “làm nước Mỹ vĩ đại trở lại” (MAGA) có thể tóm gọn trong ba chữ là
“Tariff, tariff and tariff” (!).
Cũng
nên nhắc lại rằng, sau khi trải qua hai cuộc thế chiến, nhiều nhà lãnh đạo quốc
gia của gần 80 năm về trước đã dần tin rằng chỉ có thương mại tự do mới giúp
duy trì phần nào hòa bình thế giới và phát triển kinh tế quốc gia.
Thương
mại tự do là chính sách không phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu hoặc can thiệp
vào xuất khẩu bằng cách áp dụng thuế quan (tariffs) (đối với hàng nhập khẩu) hoặc
trợ cấp (subsidies) (đối với xuất khẩu). Tuy nhiên, thương mại tự do không nhất
thiết ngụ ý rằng một quốc gia phải từ bỏ mọi quyền kiểm soát và đánh thuế hàng
xuất nhập khẩu.
Đối
lập với thương mại tự do là chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Trong khi thương mại tự
do thúc đẩy dòng hàng hóa và dịch vụ không bị hạn chế xuyên biên giới, thì chủ
nghĩa bảo hộ tìm cách bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh
tranh từ nước ngoài bằng cách áp đặt các rào cản thương mại (trade barriers),
dưới hình thức thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu hoặc các biện pháp phi thuế
quan như hạn ngạch, trợ cấp, hàm lượng nội địa và điều tra chống bán phá giá và
chống trợ giá.
Các
cuộc điều tra chống bán phá giá (anti-dumping) và chống trợ giá
(countervailing) dần trở thành những biện pháp pháp lý phổ biến thay thế các
rào cản thương mại truyền thống, chủ yếu là thuế quan, vốn bị lên án trong tiến
trình tự do hóa thương mại toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những
người ủng hộ thương mại tự do lập luận rằng việc loại bỏ các rào cản thương mại
sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và đáp ứng lợi ích của người tiêu dùng. Còn bên
chủ trương bảo hộ mậu dịch tin rằng chính sách bảo hộ sẽ giúp bảo vệ nhân công
và các ngành công nghiệp trong nước, cùng lợi ích an ninh quốc gia. Việc vận dụng
hai khuynh hướng đối lập nhau như vậy tất nhiên mang đầy màu sắc chính trị, chứ
không đơn thuần thương mại.
Nhìn
con số 90% mà chính quyền Trump cho rằng đó là thuế suất mà Việt Nam đã áp dụng
để đánh thuế nhập khẩu lên hàng hóa mà doanh nghiệp Mỹ xuất khẩu vào Việt Nam,
tôi không khỏi ngạc nhiên, bởi lẽ con số 90% đó ở đâu ra khi mọi biểu thuế nhập
khẩu theo luật pháp Việt Nam hiện hành đều không quy định như vậy?
Hóa
ra con số 90% ấy là kết quả của một phép tính riêng dựa trên một công thức do
chính quyền Trump tự ấn định, chứ không phải là mức thuế suất do chính phủ Việt
Nam quy định trong luật hoặc áp dụng trên thực tế đối với hàng hóa nhập khẩu từ
Mỹ.
Có
thể tóm tắt công thức ấy như sau: các quan chức thông thái Mỹ lấy thâm hụt
thương mại của Mỹ với một quốc gia nhất định chia cho giá trị hàng xuất khẩu của
quốc gia đó sang thị trường Mỹ. Thương số của phép chia này chính là “thuế suất”
mà ông Trump tin rằng quốc gia đó đã áp đặt lên hàng hóa Mỹ (?). Rồi ông chia
đôi thương số của phép chia đó, cộng trừ thêm bớt một chút để thành mức thuế trả
đũa lại hàng hóa của nước đó xuất khẩu vào Mỹ (!). Đó là lý do vì sao Việt Nam
bị áp thuế suất 46%, thay vì 45%.
Cách
tính toán ra con số 90% gọi là “thuế suất” đó tuy được thực hiện theo một công
thức trông có vẻ phức tạp và mầu nhiệm, pha chút thông thái huyền bí, có thể
nói là nguỵ tạo không hơn không kém. Sự nguỵ tạo đó khiến người ta nhớ lại cách
tính biên độ phá giá (dumping margins) trong các vụ điều tra chống phá giá của
Mỹ, vì xét về bản chất chúng cũng là những con số nguỵ tạo, theo cách thức cũng
mầu nhiệm và huyền bí như vậy!
Nhân
đây xin tường thuật lại cách tính biên độ phá giá đối với những quốc gia có “nền
kinh tế phi thị trường” như Việt Nam dựa trên logic [phi lý] như sau:
Giá
cả hàng hóa xuất khẩu từ một nền kinh tế phi thị trường được mặc định là không
phản ánh đúng thực tế, nên Bộ Thương mại Mỹ phải lấy các số liệu về mặt hàng
tương tự từ một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường, nhưng có chỉ số phát triển
kinh tế tương đương với nước xuất khẩu, để làm căn cứ tính giá thị trường [giả
định] của mặt hàng ấy, rồi từ đó xác định biên độ phá giá, cũng chính là mức
thuế chống bán phá giá áp đặt lên mặt hàng nhập khẩu có liên quan.
Chẳng
hạn, trong cuộc điều tra chống bán phá giá đối với mặt hàng Cá Da Trơn phi lê
đông lạnh từ Việt Nam (thường được biết đến với tên gọi “vụ kiện cá Ba Sa”) 22
năm trước, Bangladesh đã được Bộ Thương mại Mỹ chọn làm nước thay thế
(surrogate country) theo logic nêu trên, và họ đã sử dụng các số liệu về sản xuất
sản phẩm cá phi lê đông lạnh tương tự ở Bangladesh để tính giá thành sản xuất
[giả định] của mặt hàng Cá Da Trơn phi lê đông lạnh tại Việt Nam (?). Kết quả
hiển nhiên là hoàn toàn bất lợi cho các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam lúc bấy
giờ.
Nếu
như các cuộc điều tra chống bán phá giá ít ra còn được chấp nhận như một phương
tiện pháp lý, mà WTO và các nước thành viên công nhận để duy trì biện pháp bảo
hộ mậu dịch phi thuế quan, thì chính sách áp đặt thuế quan không che đậy rõ
ràng đi ngược lại sứ mệnh ban đầu của WTO mà Mỹ khởi xướng là thúc đẩy thương mại
tự do, giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động thương mại quốc tế,
thông qua việc bãi bỏ hoặc cắt giảm hàng rào thuế quan và tiến tới xóa bỏ hàng
rào phi thuế quan, nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng và không phân
biệt đối xử.
Tóm
lại, thuế quan là một quan niệm lạc hậu và méo mó về thương mại quốc tế, vốn chỉ
được đánh giá cao và sử dụng rộng rãi hơn 80 năm trước. Vai trò của thuế quan
đã giảm thiểu dần cùng với chiều hướng văn minh hóa ngày càng tăng của loài người
trong tiến trình phát triển lịch sử của mình. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, vì vậy,
đã bị nhân loại từ bỏ và bị thay thế bằng chính sách tự do thương mại theo xu
thế toàn cầu hóa.
Do
đó, từ sau khi ông Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, cả thế giới đã đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác và rơi vào tình trạng chao đảo khi chính quyền Trump
tuyên bố quay về với những quan niệm lỗi thời của quá khứ và sử dụng thuế quan
như một công cụ làm nước Mỹ vĩ đại trở lại (?).
Tách
khỏi toàn cầu hoá và rời bỏ các giá trị từng làm nên danh giá của nước Mỹ trong
hơn 80 năm qua để theo đuổi chủ nghĩa biệt lập (isolationism) về kinh tế, chính
trị, ngoại giao và quân sự chỉ có thể biến Mỹ, lẽ ra mang ý nghĩa là “đẹp”, trở
thành xấu, thậm chí xấu xa mà thôi.
*****
Ngô
Mạnh Hùng: Thuế quan dưới thời Trump và vai trò của Stephen Miran
Các
chính sách kinh tế của chính quyền Trump, đặc biệt là chế độ thuế quan, đã trở
thành chủ đề gây tranh cãi và được theo dõi kỹ lưỡng. Một trong những nhân vật
trung tâm của các chính sách này là Stephen Miran, người được Trump bổ nhiệm
làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế. Ảnh hưởng của Miran thể hiện rõ trong những
nỗ lực đầy tham vọng và gây tranh cãi nhằm tái cấu trúc hệ thống thương mại
toàn cầu.
Bối
Cảnh Lịch Sử và Hiệp Định Bretton Woods
Để
hiểu được các đề xuất của Miran, cần nhìn lại Hiệp định Bretton Woods năm 1944,
vốn thiết lập đồng đô la Mỹ làm đồng tiền dự trữ toàn cầu. Hệ thống này, sau đó
được điều chỉnh bởi cú sốc Nixon năm 1971, đã mang lại cho Hoa Kỳ những lợi thế
tài chính đáng kể, như chi phí vay mượn thấp và khả năng chi phối tài chính
toàn cầu. Tuy nhiên, nó cũng dẫn đến cái gọi là “nghịch lý Triffin” – mâu thuẫn
giữa chính sách tiền tệ trong nước và sự ổn định của đồng tiền toàn cầu.
Khi
GDP toàn cầu tăng trưởng nhanh hơn GDP của Mỹ, gánh nặng cung cấp tài sản dự trữ
thông qua thâm hụt thương mại kéo dài ngày càng gây hại cho các ngành xuất khẩu
của Mỹ. Nghịch lý này chính là nền tảng cho các đề xuất của Miran, với mục tiêu
giải quyết những mất cân đối mang tính cấu trúc thông qua một cuộc cải tổ toàn
diện hệ thống tài chính toàn cầu.
Các
Đề Xuất của Miran và “Hiệp Ước Mar-a-Lago”
Tài
liệu “Hướng Dẫn Cải Tổ Hệ Thống Thương Mại Toàn Cầu” của Miran đề ra một chiến
lược toàn diện nhằm thay đổi chế độ tiền tệ hiện tại. “Hiệp ước Mar-a-Lago” được
đề xuất hình dung một hệ thống thương mại hai tầng, trong đó các quốc gia sẽ buộc
phải chia sẻ chi phí vận hành hệ thống thương mại toàn cầu, nếu không sẽ bị loại
khỏi những lợi ích của nó. Các đồng minh sẽ phải chấp nhận điều chỉnh tỷ giá có
lợi cho sản xuất của Mỹ, tự chi trả chi phí quốc phòng, đầu tư vào sản xuất tại
Mỹ, và chuyển đổi trái phiếu kho bạc Mỹ ngắn hạn sang trái phiếu dài hạn với
lãi suất thấp. Những quốc gia ngoài hệ thống này sẽ đối mặt với thuế quan cao,
không có bảo đảm an ninh và tiếp cận hạn chế tới thị trường Mỹ.
Tuyên
bố của chính quyền về chi tiêu quốc phòng, chính sách đồng đô la, việc xóa bỏ
thâm hụt và thương mại đều hướng đến chiến lược thống nhất nội tại này. Kế hoạch
nhằm giảm thâm hụt thông qua nguồn thu trực tiếp từ thuế quan, một quỹ tài sản
quốc gia, chia sẻ gánh nặng tài chính và tái nội địa hóa sản xuất. Tuy nhiên, kế
hoạch này cũng ẩn chứa nhiều rủi ro nghiêm trọng, bao gồm nguy cơ trả đũa từ
Trung Quốc, lạm phát cao, và chuỗi phản ứng hoảng loạn thị trường – khủng hoảng
an ninh toàn cầu.
Tác
Động Đối Với Nền Kinh Tế Toàn Cầu
Việc
thực hiện các đề xuất của Miran sẽ có những hệ lụy sâu rộng. Vai trò của đồng
đô la Mỹ như đồng tiền dự trữ toàn cầu đã cho phép Mỹ thể hiện sức mạnh thông
qua các căn cứ quân sự và trừng phạt tài chính. Tuy nhiên, các chính sách của
Trump đang có nguy cơ làm đảo lộn sự ổn định này khi đồng thời nhắm đến thương
mại toàn cầu, đầu tư, đồng đô la Mỹ và hệ thống an ninh.
Đối
với những quốc gia nhỏ và yếu hơn như Ấn Độ, tác động có thể mang tính thảm họa.
Xuất khẩu của Ấn Độ sang Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm và dịch vụ phần
mềm, sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn nữa, nguy cơ suy thoái kinh tế tại Mỹ,
có thể trầm trọng hơn bởi các đề xuất cắt giảm chi tiêu chính phủ của Elon
Musk, có thể làm gia tăng bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu.
Phân
Tích Phê Bình và Kịch Bản Giả Tưởng
Các
đề xuất của Miran, dù về mặt kỹ thuật là hợp lý, nhưng không phải không có khiếm
khuyết. Sự thành công của kế hoạch phụ thuộc vào việc các quốc gia khác có sẵn
lòng chấp nhận các điều khoản bất lợi hay không – điều này rất khó xảy ra. Khả
năng xảy ra một đợt bán tháo trái phiếu kho bạc và một cuộc khủng hoảng tài
chính lớn là điều không thể bỏ qua. Thêm vào đó, cách tiếp cận chính sách đầy đối
đầu và thiếu ổn định của chính quyền có thể dẫn đến những hậu quả ngoài ý muốn,
chẳng hạn như khủng hoảng lạm phát đình trệ (stagflation) giống như trong các
thập niên 1970 và 1980.
Trong
một kịch bản giả tưởng, Trung Quốc có thể trả đũa “Hiệp ước Mar-a-Lago” một
cách nhanh chóng và dữ dội, đặc biệt khi nước này đang nắm giữ hàng nghìn tỷ đô
la trái phiếu Mỹ. Khủng hoảng an ninh toàn cầu tiếp theo đó có thể dẫn đến sự
hoảng loạn trên thị trường, làm trầm trọng thêm hỗn loạn kinh tế. Cách tiếp cận
chính sách mang tính dân tộc chủ nghĩa và ứng biến của chính quyền càng khiến
tương lai trở nên bất định.
Vai
trò của Stephen Miran trong việc định hình chính sách kinh tế của chính quyền
Trump là then chốt. Các đề xuất của ông nhằm giải quyết những mất cân đối mang
tính cấu trúc trong hệ thống thương mại toàn cầu, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro. “Hiệp ước Mar-a-Lago”, nếu được triển khai, sẽ là cú sốc lớn nhất đối với
thương mại toàn cầu kể từ sau cú sốc Nixon. Khi chính quyền tiến hành kế hoạch
của mình, cả thế giới đang nín thở theo dõi những hệ quả tiềm tàng và tương lai
của sự ổn định kinh tế toàn cầu.
Tóm
lại, mặc dù các đề xuất của Miran đưa ra một chiến lược kỹ thuật hợp lý nhằm giải
quyết nghịch lý Triffin, việc thực hiện chúng đi kèm với những rủi ro lớn có thể
làm rối loạn kinh tế toàn cầu. Thành công của các chính sách này sẽ phụ thuộc
vào khả năng điều hướng bối cảnh địa chính trị phức tạp của chính quyền, cũng
như mức độ sẵn sàng chấp nhận các điều khoản của các quốc gia khác. Tương lai của
thương mại toàn cầu đang bị treo lơ lửng, và kết quả của các chính sách này sẽ
để lại ảnh hưởng lâu dài lên trật tự kinh tế quốc tế.
Và
kịch bản giả tưởng đã thành sự thật. Hôm nay Trung quốc đã công bố thuế suất mới
để đáp trả mức thuế bổ sung 34% đối với toàn bộ hàng hóa Mỹ từ ngày 10.4.
Đồng
thời Trung quốc cũng công bố các biện pháp kiểm soát xuất khẩu các loại đất hiếm
gồm samarium, gadolinium, terbium, dysprosium, lutetium, scandium và yttrium
sang Mỹ, có hiệu lực ngay trong ngày 4.4.
Bây
giờ quả bóng lại nằm trong chân của Trump. Chấp nhận chiến tranh thương mại
toàn diện hay là lùi lại đàm phán để hạ nhiệt?. Chúng ta sẽ biết điều này trong
tuần sau.
No comments:
Post a Comment