Trà
Mi dịch
Posted on February
7, 2020
Cả hai cường quốc đã cho những quốc gia ASEAN lý do để nghi ngờ cam kết của
họ ở khu vực. Dưới áp lực phải đứng cùng với lợi ích của Mỹ hay Trung Hoa,
chính sách trung lập (không liên kết) của Đông Nam Á có vẻ ngày càng không vững.
Hai phái đoàn Trung
Hoa và Hoa Kỳ, do chủ tịch Tập Cận Bình và tổng thống Donald Trump, tham dự một
bữa ăn tối làm việc tại Buenos Aires, Argentina, vào tháng 12 năm 2018, sau hội
nghị thượng đỉnh G20. Để mối quan hệ quốc tế tiến lên trên một quỹ đạo tích cực
hơn, hai cường quốc hàng đầu thế giới cần phải giải quyết các vấn đề về cam kết
và lòng tin đang ảnh hưởng đến cả hai. Ảnh: Reuters
Một cuộc tranh luận đang diễn ra về quan hệ Mỹ-Trung
xoay quanh việc Mỹ hợp tác với Trung Hoa là sai hay liệu Washington và Bắc Kinh
có nên nỗ lực tái hợp tác hay ít nhất là đồng ý về một hình thức tương nhượng lẫn
nhau nào đó. Đối với Đông Nam Á, hợp tác Trung-Mỹ đổi mới hứa hẹn sẽ giảm bớt
áp lực chiến lược và thậm chí ngăn được xung đột giữa Washington và Bắc Kinh.
Kết quả như vậy rõ ràng được các quốc gia ở Đông Nam
Á, hoan nghênh vì họ đã hưởng lợi nhờ có hợp tác Mỹ-Trung. Tuy nhiên, giống như
không thể quay ngược đồng hồ bốn mươi năm lịch sử, dường như không có những
điều kiện cho sự hội tụ Mỹ-Trung. Tốt hơn là Đông Nam Á có thể xét lại nhưng lựa
chọn của họ về cách đối phó với một tương lai khắc nghiệt hơn.
Để Mỹ, Trung Hoa và Đông Nam Á tiến lên một quỹ đạo
tích cực hơn, hai cường quốc hàng đầu cần giải quyết các vấn đề về cam kết và
niềm tin đag gây ảnh hưởng cho cả hai bên. Các câu hỏi về cam kết và niềm tin
là đáng kể đối với các cường quốc, khi mất mát tương đối thấp đối thấp khi thất
hứa; chúng có thể đặc biệt nghiêm trọng với ngày hôm nay đối với Hoa Kỳ và
Trung Hoa.
Vẫn còn nhiều nghi ngờ về việc liệu Washington và Bắc
Kinh sẽ giữ các cam kết của họ đối với các đối tác giả định ở Đông Nam Á cũng
như đối với nhau. Thật vậy, có thể có lý do chính đáng để lo ngại về quyết tâm
chính trị ở Bắc Kinh và Washington dể họ có thể có những nhượng bộ có ý nghĩa.
Bất kể giá trị của việc rút khỏi Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương, việc Washington bỏ đi cho thấy rằng nó có thể không phải
là một đối tác kiên định như giới lãnh đạo Hoa Kỳ đôi khi muốn tỏ ra như thế.
Ấn tượng mà hành động đó gây ra là các chính khách Hoa
Kỳ không thể giữ lời hứa, dựa trên một số hiểu lầm cơ bản của chính họ hoặc sự
tự tin thái quá và tính toán sai lầm nghiêm trọng.
Sau đó, có những yêu cầu đột ngột và công khai để
đàm phán lại các cam kết liên minh, như với Nhật Bản và Nam Hàn. Rằng Washington
sẵn sàng làm hỏng cơ chế giải quyết tranh chấp trong Tổ chức Thương mại Thế giới
— một tổ chức mà Mỹ đã giúp xây dựng và duy trì — làm hại thêm uy tín của Hoa Kỳ.
Nhiều người coi hành vi bất nhât của người Mỹ dễ dàng lặp lại trong các vấn đề
khác.
Bắc Kinh cũng không khá hơn. Việc đắp đảo ở vùng biển
đang tranh chấp và việc vũ trang hóa những hòn đảo này sau đó, mặc dù đã hứa hẹn
khác, cũng như từ chối không để trọng tài quốc tế giúp hòa giải ở Biển Đông và
chê bai tiến trình đó, cũng không tạo được niềm tin đối với ai cả.
Vùng tránh châp ở
Biern Đông. Nguồn: CSIS/SCMP
Có nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Hoa đã nhiều lần
gây áp lực với ASEAN để họ không đưa ra được tuyên bố chung về ứng xử của Trung
Hoa ở Biển Đông.
Việc ban đầu ngăn chặn thông tin về coronavirus Vũ
Hán và tiếp tục loại Đài Loan khỏi Tổ chức Y tế Thế giới củng cố niềm tin rằng
Bắc Kinh sẵn sàng đổi lợi ích cơ bản toàn cầu như sức khỏe cộng đồng với khuynh
hướng chính trị của họ.
Những hành động như vậy cho thấy Trung Hoa không sẵn
lòng chấp nhận những hạn chế hợp lý đối với hành động của mình, mặc dù tuyên bố
rằng nó khác với các cường quốc khác.
Những người kêu gọi giới lãnh đạo Trung Hoa và Hoa Kỳ
chấm dứt tình trạng bế tắc Mỹ-Trung thường dẫn các ví dụ về Mao Trạch Đông,
Richard Nixon, Đặng Tiểu Bình và Jimmy Carter đã chuyển đổi bàn cờ chiến lược.
Tuy nhiên, vì thách thức mà Liên Xô đặt ra cho cả Washington và Bắc Kinh đã tạo
điều kiện để Trung Hoa và Hoa Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao trong những năm
1970.
Hơn nữa, Hoa Kỳ đã cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ (của
Trung Hoa) rút khỏi Việt Nam, để đạt được “hòa bình trong danh dự”, trong bối cảnh
kinh tế bất ổn kéo dài. Bắc Kinh, khi đó, đang phải đối phó với mối đe dọa ngày
càng tăng từ Moscow trong khi phải vật lộn với sự thái quá của cuộc Cách mạng
Văn hóa.
Hoàn cảnh hiện tại không có những điều kiện tương tự,
khuyến khích hai bên thỏa hiệp để được món lợi lớn mới. Trung Hoa và Mỹ dường
như chưa sẵn sàng chấp nhận thỏa hiệp, đặc biệt là quyền tự do hành động của họ.
January 17, 2020
Chiến
tranh kỹ thuật Mỹ-Trung làm lu mờ thỏa thuận thương mại giai đoạn một
Làm thế nào Mỹ và Trung Hoa có thể tin tưởng lẫn
nhau đủ để đạt được sự khoan dung đối ứng sâu sắc, đặc biệt là không rõ ràng vì
những e ngại lẫn nhau. Nhiều người ở Mỹ ngày nay tin rằng Trung Hoa đang muốn
xói mòn vị trí của Mỹ ở châu Á, nếu không phải là muốn cuối cùng Mỹ phải rút
lui. Dường như những tiếng nói có ảnh hưởng của Trung Hoa đã thuyết phục rằng
Hoa Kỳ mong muốn ngăn chặn Trung Hoa và muốn cản trở sự trỗi dậy của nó.
Hơn nữa, chính sách “không liên kết” của một
Campuchia thân Trung Hoa khác hẳn với chính sách của các nước Việt Nam hay Thái
Lan muốn tự trị, một đồng minh của Hoa Kỳ tìm liên hệ chặt chẽ với Trung Hoa. Sự
khác biệt trong thái độ “không liên kết” này khuyến khích Bắc Kinh và
Washington cạnh tranh giành liên kết khu vực để tránh một bất lợi chiến lược.
Quản lý ổn định sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Hoa ở
Đông Nam Á đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề cam kết quyền lực lớn theo cách kết
hợp đầy đủ hơn các mối quan tâm của các nước trong khu vực. Cả Mỹ và Trung Hoa
đều phải chứng minh một cách đáng tin cậy rằng họ sẽ liên tục tự kiềm chế và
tuân theo các quy tắc đã được thiết lập.
Một việc có thể làm là có thành phần thứ ba độc lập,
thiết lập, giám sát và thực thi các thủ tục chung này, ngay cả phân xử hoặc hòa
giải các tranh chấp có thể xẩy ra. Để làm được như vậy, những thanh phần thứ ba
cần có đủ lý do và lợi ích để chịu tốn kém và rủi ro liên quan trong một thời
gian dài. Những điều kiện này là thách thức để thực hiện đối với các quốc gia
Đông Nam Á và hai cường quốc hàng đầu.
“Không liên kết” mà không đưa ra bất kỳ lựa chọn
thay thế rõ ràng nào cho thấy sự thụ động và sự không sẵn sàng đi bước đầu
tiên. Ngoài ví dụ một phần về việc chấp nhận Thỏa thuận toàn diện và tiến bộ đối
tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) do Nhật Bản dẫn đầu, các quốc gia Đông Nam Á
dường như sẵn sàng nhượng lại cho Bắc Kinh và Washington đi bước đầu tiên.
Những khuynh hướng như vậy không có gì đáng ngạc
nhiên vì sự đa dạng và tương đối yếu kém của các quốc gia Đông Nam Á gây ra các
vấn đề hành động chung nghiêm trọng và dai dẳng.
Nếu sự chấp nhận lẫn nhau tiếp tục không đến với Mỹ
và Trung Hoa, “không liên kết” ngày càng trờ nên một lựa chọn khó có thể có ở
Đông Nam Á. Các quốc gia trong khu vực cần nghiêm túc xem xét những phản ứng của
mình khi một hoặc cả hai cường quốc gây áp lực để liên kết.
---------------
Chong
Ja Ian là phó giáo sư khoa học chính trị tại Đại học
Quốc gia Singapore và Học giả thỉnh giảng Harvard-Yenching 2019-2020. Đây là
quan điểm riêng của tác giả
© 2020 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn:
7 Feb 2020.
No comments:
Post a Comment