Trung
Quốc không muốn Việt Nam thống nhất, tại sao mời diễu hành 30 tháng Tư?
Dư Lan | RFA
2025.04.05
https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/04/06/trung-quoc-dieu-hanh-30-thang-tu/
Trung
Quốc là một trong những tác nhân lớn gây chia cắt Việt Nam trong Hiệp định
Geneva năm 1954.
Binh
lính Trung Quốc diễu binh trong dịp kỉ niệm 70 năm kết thúc Thế chiến Thứ hai tại
Bắc Kinh, tháng 9 năm 2015. (POOL New/REUTERS)
Báo
chí nhà nước hôm Một tháng Tư, 2025 cho biết Việt Nam mời quân đội Trung Quốc,
Lào, Campuchia tham gia “diễu binh, diễu hành” kỷ niệm 50 năm ngày 30 tháng Tư.
Trung
Quốc là một trong những tác nhân lớn gây chia cắt Việt Nam trong Hiệp định
Geneva năm 1954. Các chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam thay đổi tùy từng
thời điểm, nhằm phục vụ các lợi ích chiến lược của họ.
Nước
này có vai trò to lớn trong chiến tranh Việt Nam giữa VNDCCH và VNCH, tương tự
như Hoa Kỳ. Ban đầu Trung Quốc viện trợ VNDCCH chống lại VNCH và Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, trước khi chiến tranh kết thúc, Trung Quốc nhanh chóng đảo ngược chính
sách, đề nghị giúp đỡ VNCH chống lại VNDCCH để ngăn chặn Việt Nam thống nhất.
Vậy
tại sao Việt Nam mời Trung Quốc tham gia diễu binh, diễu hành kỷ niệm ngày 30
tháng Tư năm 2025?
Vai
trò của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam
Theo
Xiaobing Li trong cuốn sách “The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in
the Vietnam War,” (“Con rồng trong rừng sâu: quân đội Trung Quốc trong chiến
tranh Việt Nam”), trong thời điểm cao nhất (năm 1967), có đến 170.000 lính
Trung Quốc hiện diện tại Việt Nam. Chen Jian, trong tác phẩm “Mao’s China
and the Cold War,” (“Trung Quốc của Mao và chiến tranh lạnh”), cũng chỉ ra
rằng Trung Quốc viện trợ vũ khí và nhu yếu phẩm với giá trị hàng tỷ USD, đưa
hàng ngàn cố vấn quân sự làm việc trực tiếp với Bộ Tổng tham mưu của Quân đội
Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các chiến
dịch tấn công và phòng ngự, đặc biệt trong giai đoạn 1965–1968.
Về
sự hiện diện thực tế của cố vấn và quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt
Nam, PGS. TS. Alex Thái Võ ở Đại học Texas Tech, cho biết theo các công trình
nghiên cứu đáng tin cậy của các học giả như King Chen, Chen Jian, Qiang Zhai,
và Xiaobing Li, dựa trên sử liệu lưu trữ Trung Quốc, thì vai trò của
Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam là cực kỳ quan trọng và sâu rộng. Có thể
nói vai trò của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam cũng tương tự như vai trò
của Mỹ đối với miền Nam. Nếu không có viện trợ từ Trung Quốc và Liên Xô, thì
VNDCCH không thể đạt được thắng lợi vào năm 1975.
Dù
Trung Quốc và Việt Nam thường nhấn mạnh rằng Trung Quốc không có binh sĩ chiến
đấu ở miền Nam như Mỹ, nhưng theo PGS. TS. Alex Thái Võ, các tài liệu lưu trữ tại
Trung Quốc, cũng như hồi ký của các cựu binh Trung Quốc, cùng với tài liệu từ
Việt Nam và Hoa Kỳ, cho thấy có một số nhóm cố vấn và đơn vị kỹ thuật của Trung
Quốc từng có mặt ở phía nam vĩ tuyến 17, thậm chí tại khu vực Tây Nguyên, Lào
và Campuchia, để hỗ trợ công tác vận tải, truyền tin và huấn luyện quanh khu vực
Sài Gòn. Mặc dù số lượng nhỏ, nhưng sự hiện diện này là có thật, và phần nào phản
ánh ý đồ chiến lược của Trung Quốc.
PGS.
TS Alex Thái cho rằng Trung Quốc đưa người vào sâu trong lãnh thổ VNCH khi đó để
kiểm soát mức độ leo thang của cuộc chiến, nhằm vừa giúp Bắc Việt đánh VNCH và
Mỹ, vừa tránh để Bắc Việt giành chiến thắng quá nhanh.
Vì
sao Trung Quốc không muốn Bắc Việt Nam thắng Nam Việt Nam quá nhanh?
Trao
đổi với RFA, Tiến sỹ sử học Jay Veith khẳng định một trong những mục tiêu của
Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam là muốn chắc chắn Việt Nam không thể thống
nhất.
Trung
Quốc không muốn Việt Nam thống nhất
Thời
Lê Duẩn, từ sau khi cuộc chiến 1979 nổ ra đến khi Việt-Trung bình thường hóa
quan hệ năm 1991, Việt Nam không nhắc đến vai trò to lớn của Trung Quốc đối với
mình. Ngược lại, ở giai đoạn đó, Việt Nam tập trung nói về những tính toán chiến
lược của Trung Quốc nhắm đến Việt Nam và Đông Nam Á.
Điển
hình là cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30
năm qua” do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào tháng 10 năm 1979. Cuốn
sách này thừa nhận Trung Quốc là bên cung cấp vũ khí cho Việt Nam (Việt Minh)
trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Việt-Pháp, tố cáo Trung Quốc sử dụng vị
thế này để đàm phán trực tiếp với Pháp trong Hiệp định Geneva năm 1954, xây dựng
những điều khoản đem lại lợi ích cho Trung Quốc và Pháp, bỏ qua lợi ích của Việt
Nam.
Cuốn
sách trên còn tố cáo, ở giai đoạn cuối của cuộc ‘kháng chiến chống Mỹ‘, Trung
Quốc đã đàm phán với Mỹ “trên lưng Việt Nam” để ngăn cản “Việt Nam thống nhất.”
Thuật lại chính sách của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam như vậy, cuốn
sách của Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1979 kết luận đó “vẫn chỉ là chính
sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính
Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.”
Trao
đổi với RFA, Tiến sỹ sử học Jay Veith cho biết trong hai cuộc phỏng vấn với ông
Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh, Phó phái đoàn hòa đàm VNCH tại Paris từ 1968
đến 1975, ông Phong cho biết Trung Quốc từng tiếp cận ông, đề nghị VNCH cho họ
thả xuống hai sư đoàn lính dù để ngăn chặn Bắc Việt Nam. Hai sư đoàn lính dù
này sẽ được ẩn trong một “lực lượng quốc tế” để tránh tạo ra hình ảnh Trung Quốc
can thiệp.
Ông
Nguyễn Đạt Thành, cựu thiếu tá Quân lực VNCH, cho biết ông được nhận được tin tức
về việc Trung Quốc muốn đưa quân vào Miền Nam Việt Nam vào giai đoạn cuối của
cuộc chiến. Khi đó, ông là trung tâm trưởng của Trung tâm hành quân của Tiểu
khu Châu Đốc, Quân đoàn IV, kiểm soát vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ông nói:
“Theo
tin tôi nhận trước 1975 thì nó (Trung Quốc) muốn gửi một đơn vị nhảy dù xuống
Xuân Lộc để chặn Bắc Việt. Nhưng mà chưa kịp thì Dương Văn Minh đã đầu hàng.
Lúc đó tôi được cái tin đó, nhưng không có bằng chứng để chứng minh nên không
nói được. Nhưng tin tức tôi nhận được khi đó là như vậy.”
Sau
1979, Việt Nam đã nói về việc Trung Quốc can thiệp chính trị ở giai đoạn cuối
cuộc chiến nhằm ngăn chặn Việt Nam thống nhất. Nhưng một kế hoạch can thiệp ở cấp
độ “quân sự”, tung hai sư đoàn lính dù vào Miền Nam Việt Nam dưới danh nghĩa “lực
lượng quốc tế” để chặn Bắc Việt là điều ít được biết đến.
Tại
sao mời Trung Quốc diễu hành?
Sau
Hội nghị Thành Đô năm 1991, Hà Nội bắt đầu nhắc đến công lao viện trợ của Trung
Quốc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của mình. Đồng thời, Việt Nam giảm nhẹ, nếu
không muốn nói là xóa hẳn ký ức về cuộc xâm lược năm 1979 khỏi sách giáo khoa lịch
sử cho học sinh.
Năm
2022, trên Diplomat, Travis Vincent cho biết “sách giáo khoa Lịch
sử lớp 12 ở Việt Nam năm 2001 chỉ dành 24 dòng cuối sách kể lại cuộc chiến
tranh, nhưng đến phiên bản năm 2018, phần kể lại cuộc chiến này chỉ còn 11
dòng.” Ngoài ra, 11 dòng này được đặt trong phần cuối của sách giáo
khoa sử lớp 12, khi học sinh trung học bước vào giai đoạn ôn thi trung học và hầu
như chỉ tập trung ôn thi. Như vậy, 11 dòng về cuộc xâm lược của Trung Quốc năm
1979 được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 chỉ để “điểm danh”. Phần đông lớp trẻ
Việt Nam ngày nay biết đến cuộc chiến này qua các nguồn khác, không phải “sách
giáo khoa chính thống.”
Năm
nay, Việt Nam muốn mời Trung Quốc tham dự diễu hành, diễu binh kỷ niệm 50 năm
cuộc chiến Nam-Bắc kết thúc.
Trao
đổi với RFA, nhà nghiên cứu về an ninh quốc tế Nguyễn Thế Phương ở Đại học UNSW
Canberra nhận xét rằng trong mối quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam phải xử lý tổng
thể tất cả các mặt “ngoại giao,” “luật pháp quốc tế” và “sức mạnh trên biển,
trên đất liền.” Việc mời Trung Quốc tham gia diễu binh, diễu hành ngày 30 tháng
Tư thuộc về “mặt trận” ngoại giao trong bài toán tổng thể đó.
Theo
ông Nguyễn Thế Phương, trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump đánh thuế mạnh
mẽ lên hàng hóa xuất vào Mỹ từ Việt Nam, kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng
nề. Việt Nam không thể cùng lúc đối phó với áp lực từ hai siêu cường cùng lúc
mà phải gửi đi một thông điệp sao cho Trung Quốc thấy Việt Nam vẫn duy trì mối
quan hệ thân thiện.
Không
chỉ Việt Nam mà cả Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có những chuyển động tương tự. Ở
Đông Bắc Á, Nhật Bản và Hàn Quốc tạm gác tranh chấp đảo Dokko/ Takshima, Trung
Quốc và Nhật Bản tạp gác vấn đề Senkaku / Điếu Ngư, cả ba nước này gặp nhau cam
kết thúc đẩy thương mại tự do. Việt Nam cũng mời Lào và Campuchia đến gặp gỡ để
thắt chặt quan hệ. Ông Nguyễn Thế Phương lưu ý trong cuộc gặp với lãnh đạo Lào
và Campuchia tại Dinh Thống Nhất (Dinh Độc lập thời VNCH), toàn bộ Bộ Chính trị
Việt Nam đã bay từ Hà Nội vào tham dự.
Trong
bối cảnh đó, quốc tế sẽ chú ý đến chuyến thăm Đông Nam Á của ông Tập Cận Bình tới
Việt Nam, Campuchia và Malaysia.
“Điều
đó cho thấy toàn bộ vùng Đông Á, Đông Nam Á đang bắt đầu được sắp xếp lại, đặc
biệt là về kinh tế và thương mại. Nó liên quan đến ông Trump. Ông Trump lên
đánh thuế gần như tất cả mọi quốc gia. Nó tác động tới động lực tăng trưởng
quan trọng của Đông Á. Họ phải tìm cách giảm thiểu tác động tiêu cực từ Mỹ.
Cách giảm thiểu tốt nhất là thương mại tự do. Mà trong thương mại tự do thì ai
là thị trường lớn nhất sau khi Mỹ đã tạo ra rào cản? Đó là Trung Quốc.
Nếu
cả Mỹ và Trung Quốc đều tăng thuế thì tất cả chết hết. Mỹ đã cho Trung Quốc
tăng ảnh hưởng trong khu vực. Khi Mỹ bỏ khu vực, tạo ra chỗ trống thì Trung Quốc
chủ động lấp chỗ trống Mỹ để lại. Chuyến thăm của Tập tới Việt Nam, Campuchia
và Malaysia nằm trong xu hướng đó.”
Do
đó, theo ông Nguyễn Thế Phương, mặc dù ngày 30 tháng Tư là một sự kiện lịch sử,
việc mời Trung Quốc, Lào và Campuchia tham dự diễu binh, diễu hành hoàn toàn phản
ánh những nhu cầu của thời điểm ngày nay, không phải mang tính chất lịch sử.
PGS.
TS. Alex Thái Võ có cùng nhận xét với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương. Dẫn lại
các nghiên cứu của Chen Jian (“Mao’s China and the Cold War”), King Chen
(“China and the Vietnam Wars, 1950–1975”), TS Alex Thái cho rằng những
thay đổi chính sách liên tục của Trung Quốc đối với Việt Nam thời chiến hoàn
toàn phục vụ cho những mục tiêu chiến lược và lợi ích dân tộc của riêng họ.
Trong toan tính địa chính trị của Trung Quốc, Việt Nam vừa là đồng minh, vừa là
công cụ, nhưng cũng là mối lo. Như Chen Jian khẳng định, Trung Quốc là một tác
nhân đầy toan tính trong chiến tranh Việt Nam, một phần của bàn cờ Chiến tranh
Lạnh. Sự ủng hộ dành cho Việt Nam là thật, nhưng theo Chen Jian, luôn đi kèm giới
hạn, và sẵn sàng đảo ngược ngay khi lợi ích chiến lược của Trung Quốc đòi hỏi cần
thay đổi.
Từ
sự thực lịch sử đó, việc mời Trung Quốc tham dự diễu binh, diễu hành ngày 30
tháng Tư năm 2025 cho thấy “ký ức lịch sử không bao giờ thuần túy, mà
luôn gắn liền với những chọn lọc mang tính chính trị và ngoại giao,” theo
nhận xét của nhà Việt Nam học đến từ Texas Tech University.
No comments:
Post a Comment