Y Chan - Luật
Khoa
19/02/2020
“Thay đổi dòng chảy của một con sông, bạn thay đổi
dòng chảy của cả sự sống”.
Đó là lời của nhà sư Phitakchai Jaruthammo ở ngôi
chùa Hai Sok trên bờ sông Mekong, trong một bài
viết đăng tải trên The New York Times vào ngày
15/2/2020 vừa qua.
Các phóng viên của tờ báo đã đi tìm hiểu về cuộc sống
của những người dân ở hạ nguồn sông Mekong từ khi con đập thủy điện Xayaburi
chính thức hoạt động vào tháng 10/2019.
Con đập lớn này nằm ở Nong Khai, đất của Lào, nhưng
do công của người Thái xây dựng. Trớ trêu thay, cả người dân Lào lẫn chính người
dân Thái ở hạ nguồn đều cùng gánh chịu nhiều thiệt hại kể từ khi nó xuất hiện.
Nếu là khách du lịch tạt ngang đi qua vùng Mekong tại
Đông Bắc Thái Lan, nằm xuôi về phía dưới con đập, bạn hẳn sẽ có cảm giác thích
thú trước con nước trong vắt tại đây. Nước trong đến nỗi ánh sáng mặt trời rọi
thẳng xuống tận đáy sông, biến cả khu vực như thành một ao thủy cung.
Nhưng đó là vấn đề.
Vào thời điểm này trong năm, nước tại đây lẽ ra phải
có màu nâu trộn lẫn với phù sa phì nhiêu. Nhưng hạn hán kéo dài và sự xuất hiện
của Xayaburi, con đập khổng lồ đầu tiên ở hạ nguồn sông Mekong, đã chặn phù sa
– nguồn sống theo nghĩa đen của toàn bộ hệ sinh thái trên dòng sông.
Một khúc sông Mekong gần Sangkhom, Thái Lan đổi sang
màu xanh, thay vì màu nâu phù sa. Ảnh: The New York Times.
Phóng sự của The New York Times cho
biết, ở một khúc quanh ngay gần đó, dòng sông Mekong thậm chí như biến mất khỏi
bản đồ. Nơi bình thường là nước bao phủ đất và cây, giờ đây là những cồn khô và
rễ cháy bao vây các đụn nước còn sót lại. Chỗ vốn dĩ là chốn sinh sản của các
loài cá, giờ đến nước cũng không còn.
Ở Nong Khai, vị trí bắt nguồn của con đập, mọi chuyện
không khá hơn là bao.
“Chúng tôi gần như chẳng bắt được con cá nào”,
Buorot Chaokhao, một ngư dân đã sinh sống kéo lưới gần nửa thế kỷ tại đây than
thở. “Chắc không còn cách nào sống tại con sông này nữa rồi.”
Khi con đập Xayaburi bắt đầu vận hành, ai có lợi gì
thì không rõ, riêng cư dân phía xuôi nguồn con sông ngay lập tức thấy răng môi
của mình chẳng còn.
Cá cạn, nước hụt, tảo bùng, lưới trống. Hạn hán kéo
dài còn khiến mực nước xuống thấp đến mức nhiều đoạn của con sông đã không còn
là “con đường thủy” mà biến thành “con đường thủy hử”, như một sa trường với
hàng cây chết yểu và các loài giáp xác cháy khô.
Khoảng 10 con đập khác tại nhánh chính hạ nguồn sông
Mekong, cùng hàng trăm cái ở những nhánh phụ của nó đang được vẽ ra trên giấy tờ.
Cổ họng của 60 triệu người sinh sống tại các khu vực này đang bị siết nghẹn.
Bao tử của hàng trăm triệu người khác cũng sẽ bị bóp nghẹt khi các vựa lúa vựa
cá vựa tôm tại đây biến mất. Kể cả những người giàu có trực tiếp hưởng “lợi” từ
việc kinh doanh thủy điện cũng sẽ không được yên ổn.
Kể từ khi Trung Quốc, nước nằm ở thượng nguồn của sông
Mekong, bắt đầu cho xây các loại đập chắn từ đầu thế kỷ này, lượng cá trên sông
đã bắt đầu sụt giảm. Đến khi các nước khác cũng đua nhau nhảy vào phong trào
xây đập thủy điện, chỉ trong vòng vài thập niên, mọi thứ thay đổi đến chóng mặt.
Bà Amkha Janlong, năm nay đã 69 tuổi, sống tại Nong
Khai, kể rằng chỉ mới cách đây không lâu, ngư dân còn bắt được những con cá dài
và nặng hơn cả người. Con to nhất, cá trê khổng lồ (catfish) trên sông Mekong,
nặng hơn một con hổ và đủ cho cả làng cùng ăn.
Ngày nay, “cá càng lúc càng nhỏ”. Từ to thế này,
Amkha dang rộng cả hai cánh tay làm dấu, giờ chỉ còn cỡ đây, bà giơ ra ngón tay
út của mình.
Cá càng lúc càng ít, nhiều nơi các ngư dân dùng đến
thuốc nổ để vét được càng nhiều càng tốt. Nhưng rồi cũng đến lúc chẳng còn gì để
vét.
Con rể của bà Amkha, Wittaya Thongnet, vẫn chưa dám
nói thật với mẹ vợ rằng cá mà anh mang về mỗi ngày cho bà ăn là mua từ chợ chứ
không phải đánh bắt được.
“Chẳng còn gì để bắt cả”, còn mẹ anh thì “vẫn chưa
biết được con sông này đã biến đổi đến mức nào”, Wittaya nói.
Bà Amkha Janlong xem TV trong lúc con rể, Wittaya
Thongnet, đi phía sau, trong ngôi nhà họ sống bên sông Mekong. Ảnh: The New
York Times.
Các ngư dân ngày trước vẫn còn có thể trồng ruộng để
đắp thêm thu nhập của mình. Giờ đây ngay cả sinh kế phụ đó cũng bị đe dọa.
Buorot Chaokhao, người đã sinh sống gần năm thập kỷ ở
vùng sông nước này, đã phải vất vả tìm cách bơm nước vào tưới ruộng vườn của
mình khi mực nước xuống quá thấp. Để rồi đùng một cái, tháng 12/2019, một đợt xả
đập từ Xayaburi nhấn chìm ruộng trồng rau diếp của ông.
“Lúc thì thiếu nước, lúc lại ngộp nước, chúng tôi chẳng
biết chuyện gì đang xảy ra”, Buorot lắc đầu than thở.
Kể từ khi Xayaburi chính thức vận hành vào tháng
10/2019, đến nay hàng triệu cư dân phía xuôi dòng vẫn như con tin, bị bịt mắt
không biết khi nào con đập ngậm miệng và lúc nào nó sẽ há to.
Chính phủ Lào cho rằng mình không có trách nhiệm
trong việc công bố thông tin về hoạt động của đập thủy điện. Họ gợi ý rằng
trách nhiệm đó thuộc về Ủy ban Sông Mekong, với các thành viên là chính phủ bốn
nước Lào, Thái Lan, Việt Nam và Cambodia.
Một nhóm vận động nhân quyền ở Nong Khai được báo là
cơ quan phụ trách thủy lợi của Thái Lan chịu trách nhiệm thông báo cho người
dân về dòng chảy của con đập. Quan chức chính phủ Thái Lan phủ nhận thông tin
đó.
Cơ quan phụ trách điện lực của Thái, nơi thu mua điện
sản sinh từ đập Xayaburi, chỉ ngón tay về phía đơn vị vận hành đập, vốn được
Thái Lan đầu tư. Đơn vị này chỉ tay về phía ngược lại. Không ai chịu trả lời
các câu hỏi về hoạt động của nó.
“Dòng sông Mekong đã khô cạn đến vậy mà không ai cung
cấp thông tin gì”, Chainarong Setthachua bình luận. Ông là giảng viên tại Đại học
Mahasarakham ở Đông Bắc Thái Lan, người đã dành ra 25 năm qua nghiên cứu về
sông Mekong.
Brian Eyler thì nhận định “khả năng cao là người ta
cố tình tạo ra tình trạng thiếu thông tin này”.
Eyler là giám đốc chương trình Đông Nam Á của Trung
tâm Stimson, tác giả của quyển sách “Những ngày cuối cùng của con sông Mekong rộng
lớn” (Last days of the mighty Mekong).
Ông lo lắng, “liệu đây có phải là điểm tới hạn
(breaking point) của sông Mekong?”. Theo Eyler, “hệ sinh thái của sông Mekong
có khả năng thích nghi và chống chọi, nhưng tôi lo là ngay cả nội lực to lớn của
nó cũng sẽ không chịu nổi tất cả những con đập cùng với thời tiết cực đoan
này.”
Nông dân trồng cây thuốc lá bên bờ sông Mekong, gần
Sangkhom, Thái Lan. Ảnh: The New York Times.
Dòng chảy bấp bênh, dưỡng chất lại cạn kiệt, những
cư dân tại đây dựa dẫm vào phân bón hóa học và thuốc trừ sâu để nuôi sống mình.
Ngày trước, Buorot Chaokhao chỉ dùng phân hóa học
cho cây thuốc lá trồng để bán, giờ đây ông dùng luôn cho cả ruộng rau gia đình
mình ăn.
“Tôi lo nó có hại cho sức khỏe của gia đình mình chứ,
nhưng chỉ còn cách này để trồng ra cây ra lá mà thôi.”
Hệ sinh thái chết dần chết mòn, nhưng dòng sông
Mekong vẫn còn thứ “hàng hot cuối cùng” cho các nhà buôn: cát dưới đáy sông.
Cát vét từ sông Mekong được dùng cho các dự án lấn
sông lấn biển và xây dựng ở khắp các đô thị, từ Singapore đến TP. Hồ Chí Minh.
Nó như nhát dao rọc đi những mảng thịt cuối cùng còn
bám lại trên khung xương trơ trọi của con sông.
Năm ngoái, một công ty khai thác cát của Thái Lan đến
đặt vấn đề nạo vét dòng sông ở Ban Nam Phrai, ngôi làng Buorot ở. Những người
dân tại đây lắc đầu. Họ không muốn thấy con sông này bị băm xẻ thêm nữa.
Sông Mekong đã suy kiệt đến mức ngay cả chính phủ
Thái Lan, bị cho là xưa nay thiếu ý thức bảo vệ môi trường, cũng phải công bố
vào ngày 5/2/2020 vừa qua, rằng họ đã từ chối các đề nghị từ phía Trung Quốc muốn
phá đá xẻ bờ con sông, mở rộng thêm đường thủy cho tàu thuyền lớn, tiện hơn cho
việc bán buôn.
Các nhóm bảo vệ môi trường đã liên tục cảnh báo, bất
kỳ hoạt động đục đẽo phá hoại thêm nào cũng sẽ dẫn đến thảm họa tại đây.
Những con đập thủy điện trên dòng sông này có cần
thiết không?
Điện sản sinh ra từ Xayaburi không giúp ích gì cho
cư dân của Lào. Ngay cả việc bán điện cho Thái cũng là dấu hỏi, khi theo các
nhà nghiên cứu Thái Lan, hệ thống điện lưới của nước này đã đủ đầy, nhiều thời
điểm trong năm còn dư đến 30%.
Quả ngọt từ các con đập thủy điện, cho dù là do người
Thái, người Việt, hay phần lớn do các công ty Trung Quốc xây dựng, đều chỉ dành
cho một nhóm rất ít người.
Chỉ có ngư dân và nông dân nghèo là phải gặm những
trái đắng nghét.
Nhờ vào các con đập, biến đổi khí hậu và hoạt động nạo
vét cát, trong vài năm qua, mỗi năm có 300.000 người ở vùng Tây Nam Mekong của
Việt Nam phải rời bỏ quê hương, theo nghiên cứu của Brian Eyler.
Họ buộc phải ra đi, tìm đường sống khác.
No comments:
Post a Comment