Sunday, April 27, 2025

NGUYỄN DUY - ĐỔI TÊN ĐỔI VẬN! (Nguyễn Xuân Vượng   -  Văn Việt)

 



Nguyễn Duy – Đổi tên đổi vận!    

Nguyễn Xuân Vượng   -  Văn Việt

Posted on 24 Tháng Tư, 2025 by post3

https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nguyen-duy-doi-ten-doi-van/

 

Nhà thơ Nguyễn Duy có tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn, nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, nơi có cái cầu rất bé nhưng có cái tên rất to gọi là Cầu Bố. Ông là cựu học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, một ngôi trường rất nổi tiếng đã đào tạo nhiều trí thức nổi danh ở trong và ngoài nước.

 

Nguyễn Duy làm thơ từ rất sớm, ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế trường cấp 3 Lam Sơn, ông đã có thơ gửi cho Ban biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Kỷ niệm đầu tiên của giai đoạn này là: “Gửi bài mà không được in”. Thời gian này, ông cứ mải miết làm thơ và lẳng lặng gửi đi, chỉ gửi cho báo Văn nghệ vì nghĩ, đó là tờ báo “đáng tin cậy về tiêu chuẩn nghệ thuật”. Bởi vậy, mục tiêu tấn công của ông lúc này là tờ Văn nghệ. Sau khi học xong cấp 3, ông nhập ngũ (1966), ông được biên chế trong một đơn vị làm nhiệm vụ thông tin. Ông vẫn không từ bỏ mục tiêu đeo bám là tuần báo Văn nghệ, nghĩa là ngoài thời gian luyện tập và công tác, ông vẫn tiếp tục làm thơ và tiếp tục gửi bài cho báo Văn nghệ.

 

Ông tâm sự: “Và, cố nhiên là tôi cứ lẳng lặng mà chờ đợi… Lại lẳng lặng chép, lẳng lặng gửi và lẳng lặng chờ… Nhưng ai lại đi in cái thứ mà tôi gọi là “thơ” của mình hồi đó? Hi hi… Quả thật bài thơ mà ông Nguyễn Duy đưa ra làm ví dụ, ta đọc cũng thấy buồn cười về sự ngô nghê của nó[1].

 

Những năm sáu mươi ấy, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi, từ miền Nam ra miền Bắc chỗ nào cũng bom rơi đạn nổ, chỗ nào cũng máu và nước mắt… Nguyễn Duy vẫn cặm cụi viết, gửi bài đi và chờ đợi. Cuối năm 1967 ông được in bài thơ đầu tiên trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi sau đó được xuất hiện khá thường xuyên trên báo Quân đội Nhân dân. Nhưng mơ ước xuất hiện trên trang Văn nghệ vẫn là cháy bỏng nhất.

 

Ông vẫn nén lòng chờ đợi. Ấy vậy mà báo Văn nghệ chưa có lấy một câu nhắn nhe trả lời ông gì cả. Ông không hiểu lý do gì mà họ làm vậy với ông? Càng ngày Nguyễn Duy càng cay cú và oán giận báo Văn nghệ nhiều hơn trước. Càng oán, càng cay cú, càng gửi bao thư trang trọng, giấy trắng, chép nắn nót, thỉnh thoảng lại có cả thư “Kính thưa ban biên tập” đàng hoàng, kèm luôn cả bao thư dán tem sẵn để báo trả lời cho tiện nữa… Vậy mà vẫn không ai trả lời ông 1/2 câu!

 

Giận quá, có lần ông đánh bạo xông thẳng tới toà soạn báo Văn nghệ, định bụng sẽ hỏi cho ra nhẽ, nhưng tới cổng thì sự hăng hái ban đầu cũng vừa tiêu tan hết, ông lặng lẽ đi qua, đi lại cổng toà soạn rồi chán nản bỏ về.

 

Rất may, ông vẫn luôn kiên định với thơ của mình. Ông vẫn viết, vẫn gửi và vẫn chờ đợi, trai xứ Thanh thật đáng kính nể về lòng kiên trì. Thảo nào xứ đó nhiều vua, nhiều chúa cũng phải. Ông không làm thơ mới kiểu “hiện đại” nữa mà chuyển sang làm thơ lục bát với những đề tài gần gũi với cuộc sống hơn.

 

Sau chiến dịch Đường 9 – Nam Lào 1971, ông có trong tay 10 bài thơ mới viết, khi này, ông quyết định rút ngắn tên tác giả từ ba từ xuống hai từ: Từ Nguyễn Duy Nhuệ thành Nguyễn Duy, năm đó là 1972, ông được đăng bài thơ đầu tiên trên báo Văn nghệ. Sự thể câu chuyện đó như sau:

 

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh[2] khi đó đang là Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ đã là người phát hiện ra khả năng sáng tác thơ của Nguyễn Duy, ông tìm thấy trong thơ Nguyễn Duy tính dân tộc được chảy nhuần nhuyễn trong dòng chảy hiện đại của thơ mới. Nguyễn Duy đã gửi bài thơ Khúc dân ca cho ông Hoài Thanh nhờ qua kênh Đài Tiếng nói Việt Nam chuyển giúp!

 

Khúc I

Con cò bay lả bay la

Theo câu quan họ bay ra chiến trường

Nghe ai hát giữa núi non

Mà hương đồng cứ rập rờn trong mây.

 

Khúc II

Nghìn năm trên dải đất này

Cũ sao được cánh cò bay la đà

Cũ sao được sắc mây xa

Cũ sao được khúc dân ca quê mình!

 

Khúc III

Cò bay bằng cánh trắng tinh

Lúa thơm bằng phấn hương lành ai ơi

Mây trôi bằng gió của trời

Là ta, ta hát những lời của ta!

 

Bài thơ như một sự hưởng ứng kịp thời những tư tưởng của ông Hoài Thanh trên hệ thống truyền thông lúc đó nên ngay lập tức thu hút sự chú ý của ông với một tác giả thơ chiến sỹ lạ hoắc: Nguyễn Duy!

 

Bài thơ “quê quê” của Nguyễn Duy được đại diện báo Văn nghệ đề nghị cho đăng trên trang báo của họ. Đó là điều hoàn toàn bất ngờ với Nguyễn Duy.

 

Nguyễn Duy đã kể: “Tôi ngẩn người, vừa mừng, vừa lấy làm lạ. Lúc tôi gửi bài như điên thì họ không trả lời, lúc tôi không gửi thì họ lại đề nghị cho in. Cố nhiên là tôi rất sung sướng, tôi chép ngay, không được cẩn thận như những lần trước, mấy bài thơ mới cùng mấy bài thơ cũ đã chép gửi đến chai cả tay. Tôi lại nhận được một văn bản đánh máy, dấu báo Văn nghệ đỏ tươi như hoa đào, anh Vũ Tú Nam – thư ký tòa soạn ký, mời tôi tới tòa soạn chơi, và trao đổi về việc báo sẽ in cho tôi hẳn một chùm thơ. Chao ôi, tôi có bao giờ mong được như thế đâu!”.

 

Cái tên Nguyễn Duy đã được báo Văn nghệ chắp cánh từ đó, trở thành một tác giả thơ có đời sống và tiếng nói riêng,

 

HÌNH : https://vanviet.info/wp-content/uploads/2025/04/D1-1.jpg

 

Vậy là, bài thơ đầu tiên được in trên báo Văn nghệ cách bài thơ đầu tiên Nguyễn Duy Nhuệ gửi báo Văn nghệ đúng mười năm trời – mười năm lẳng lặng viết, lẳng lặng gửi và lẳng lặng chờ đợi.

 


[1] Bài thơ ngày đó:

 

Người vợ của tôi

 

Tôi hình dung người vợ của tôi

da thịt bằng gang, tim gan bằng chì,

và ruột bằng cứt sắt

 

cái mặt nửa đỏ, nửa đen

răng lợn lòi chìa ra nhọn hoắt

 

đôi mắt là đôi đèn pha phòng không sáng quắc

khi trợn lên – mắt thiên hạ nhắm liền

 

nụ cười dịu hiền ngoác ra như hố bom

khi xuất hiện thì miệng đời méo xệ

 

và, giọng nói là xe tăng gầm ré

khi cất lên – tất cả phải im hơi…

 

Bởi rất yêu người vợ của tôi

nên tôi phải hình dung như thế!

(1963)

 

Nguyễn Duy tâm sự:

 

“Tiếc thay, hồi đó tôi đã cho rằng đấy là thơ, thơ hay nữa là khác, ít ra thì cũng hiện đại! Tôi cũng đã tốn mất mấy năm mò mẫm theo cái cách làm thơ mà tôi cho là “hiện đại hoá” này, để rồi chán nản, để rồi oán ban biên tập báo Văn nghệ là vô trách nhiệm với bạn viết…”. (Những trích dẫn lời Nguyễn Duy trong bài này là từ bài Kỷ niệm về một tờ báo (Văn nghệ số 12/2023).

 

[2] Hoài Thanh (1909-1982), quê Nghi Lộc, Nghệ An. Là nhà phê bình văn học nổi tiếng. Ông giữ chức Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện từ 1959 – 1969, giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ từ 1969 đến 1975. Ông mất năm 1982 ở Hà Nội.






No comments: