Chiến tranh Việt
Nam, những góc nhìn từ một hội thảo tại Mỹ
Bùi Văn Phú
Gửi
cho BBC từ Đại học Texas Tech, Lubbock, Texas, Hoa Kỳ
17
tháng 4 2025
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c75dq03l3exo
Gần
50 năm sau ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, nhiều học giả, nhân chứng đã
cùng chia sẻ nghiên cứu, quan điểm và trải nghiệm của mình về giai đoạn lịch sử
khốc liệt này.
Tuần
qua, tôi đi Lubbock tham dự một hội nghị dịp kỷ niệm ngày 30/4. Khi máy bay gần
đến Denver, nhìn qua cửa sổ tôi thấy một mầu tuyết trắng.
Tuyết
tháng Tư làm tôi nhớ trong sách sử về Chiến tranh Việt Nam có ghi lại sự kiện
là vào sáng ngày 29/4/1975 trên sóng phát thanh FM ở Sài Gòn phát đi bài nhạc Mỹ:
"I'm dreaming of a white Christmas…" (Tôi đang mơ một Giáng
sinh tuyết trắng) mà tôi có biết gì đâu và chỉ nhớ ngày hôm sau, đang lênh đênh
trên biển thì nghe tiếng rè rè trên đài Sài Gòn là lệnh đầu hàng của Tướng
Dương Văn Minh, rồi lời ca: "Rừng núi giang tay nối lại biển xa…"
và bỗng dưng nước mắt tuôn trào.
Cuối
tháng Tư Sài Gòn nóng đổ lửa, phượng bừng nở báo tin mùa hè sắp đến, nhưng ca
khúc về mùa đông được đài FM phát đi phát lại là hiệu lệnh cho tất cả người Mỹ
biết cuộc di tản khỏi Việt Nam đã bắt đầu.
Trưa
ngày hôm sau, trên đài Sài Gòn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đưa ra lời kêu gọi mọi
người ở lại góp tay xây dựng trong hòa bình. Ông cất tiếng ca mộc mạc, không
đàn trống: "Mặt đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay
cuồng, trời rộng bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…"
Mạch
tự sự chủ đạo lúc bấy giờ là: Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm
đứt. Quê hương đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược.
Rồi chuyện
gì đã xảy ra sau ngày 30/4 năm đó, ở Việt Nam và ở hải ngoại? Đó là chủ đề của
hội thảo 1975: The End of the Vietnam War (1975: Kết thúc Chiến
tranh Việt Nam), tổ chức tại Đại học Texas Tech từ ngày 10 đến 13/4 vừa qua.
Dù
cuộc chiến đã chấm dứt tại mốc thời gian 30/4/1975, sau nửa thế kỷ hai tiếng
"Việt Nam" vẫn còn được nhiều người từ hai bên bờ Thái Bình Dương tiếp
tục nghiên cứu, tìm hiểu. Những học giả, sinh viên, cựu chiến binh, nhà báo,
nhà văn, nhạc sĩ, người làm từ thiện, hoạt động cộng đồng đã trình bày công
trình học thuật hay chia sẻ kinh nghiệm, kỷ niệm trong 30 buổi thảo luận.
Về
trải nghiệm của những người lính Mỹ ở Củ Chi là bài của Paloma Guerra, về tù
binh Mỹ là bài của Brian Washam. Oscar Coles nói về những gì bộ đội mang theo
khi vào nam chiến đấu, trong đó có báo Trường Sơn. Uyên Nguyễn nói về lực lượng
Địa phương quân của Việt Nam Cộng hòa.
George
"Jay" Veith nhìn lại chiến dịch quân sự của Hà Nội trong tháng Ba và
tháng Tư trước khi bộ đội cộng sản tiến vào Sài Gòn. John F. Burn nói về chiến
dịch Operation Frequent Wind (Chiến dịch Gió lốc) di tản người Mỹ và người Việt
ra khỏi Việt Nam vào phút tối hậu của chiến cuộc.
Miguel
Lechuga nói về thành công và thất bại trong việc di tản trẻ em trong chiến dịch
Operation Babylift.
Sau
di tản tháng 4/75 và vài tháng qua các trại tị nạn, 120.000 người Việt đã được
Hoa Kỳ nhận cho định cư và cộng đồng người Việt tại Mỹ hình thành từ đó.
Tại
hội thảo có Hải Cao, Steve Potts và Nghĩa M. Võ nói về những nỗ lực vươn lên của
người tị nạn trên đất mới, từ California qua Georgia, Minnesota.
Sau
cuộc chiến, nhiều vấn đề còn tồn tại và phải mất nhiều năm mới có tiến triển.
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, được mở ra năm 1995, là bài nói chuyện của Mã
Y Vân, sinh viên Đại học Fulbright Vietnam.
Một
lễ tưởng niệm ngày 30/4 của các cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa tại Westminter,
California, Mỹ
Amanda
C. Demmer, tác giả của After Saigon's Fall: A 50-Year Retrospective (Sau
ngày Sài Gòn thất thủ: 50 năm nhìn lại), ghi nhận những khó khăn và thành quả
trong quan hệ Mỹ-Việt, từ POW-MIA đến tù cải tạo, H.O., con lai; từ nhân quyền
đến thuyền nhân vượt biển, xử lí chất độc da cam.
Andrew
Wells-Dang, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, làm việc cho United States
Institute for Peace (Viện Hoa Kỳ vì Hòa bình) vừa bị chính quyền Donald Trump dẹp
bỏ, nói đến quyền lợi quốc gia của hai nước trong việc xây dựng quan hệ dựa
trên lòng tin và sự tôn trọng thể chế của nhau. Ông nói đến những trợ giúp mà
Hoa Kỳ dành cho Việt Nam qua các dự án được tài trợ bởi USAID, nay bị cắt cùng
với các chương trình Việt ngữ của đài VOA, RFA sẽ làm Hoa Kỳ mất ảnh hưởng
trong khu vực Đông Nam Á.
Việt
Nam hậu chiến tranh là những chính sách cai trị đầy bạo lực do Alex-Thái Đình
Võ, Đại học Texas Tech, trình bày. Bài về lịch sử của Điều 4 Hiến pháp là của
Alec Holcombe, Đại học Ohio. Cody J. Billock nói về Huế những tháng ngày sau
khi được giải phóng, trong đó đề cập đến những người con của Huế như Nhã Ca, Trịnh
Công Sơn, Phan Nhật Nam, Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý, người
bị giam tù, người không còn được tự do sáng tác.
Tường
Vũ, Đại học Oregon, nói về chính sách đàn áp sắt máu của Hà Nội qua vụ án Vinh
Sơn, vụ án dòng Đồng Công. Tuấn Hoàng, Đại học Pepperdine, bàn về sinh hoạt và
phát triển của giáo hội công giáo. Trinh Lưu nghiên cứu về các chính sách tiêu
diệt văn hoá miền Nam sau 1975.
Hệ
lụy của chiến tranh có bài nói chuyện của Diane Fox về chất độc da cam, bài của
Michael Peavey Đỗ nhắc đến vết thương không lành của những ai từng bị bắt đi học
tập cải tạo.
Nghĩa
trang Quân đội Biên Hòa ngày trước, nay là Nghĩa trang Nhân dân Bình An, được
ba sinh viên tuổi đôi mươi tìm hiểu, hai từ trong nước và một tại Hoa Kỳ, là Trần
Nguyễn Phương Thảo, Tạ Bảo Long từ Đại học Fulbright Vietnam và Tiana Dương từ
Đại học Dartmouth. Theo các bạn này, việc ra vào nghĩa trang còn giới hạn và
khi gặp người đi thăm, hỏi chuyện thì hầu hết không muốn trả lời vì sợ bị phiền
phức. Chỉ có một cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa tuổi đã 80 đang làm công việc
chăm sóc các ngôi mộ trong nhiều năm qua là đồng ý cho các bạn phỏng vấn, quay
phim.
Về
cộng đồng người Mỹ gốc Việt, sự định hình đặc tính bảo thủ và chống cộng sản được
nghiên cứu bởi Ý Nguyễn từ Đại học California, Dominguez Hills; Erica
Allen-Kim, Đại học Toronto, nói về sự hình thành của những khu Little Saigon.
Một
góc Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, ảnh chụp đầu năm 2025
Sinh
hoạt văn hóa, nghệ thuật trước và sau 1975 cũng là đề tài của nhiều bài nói
chuyện. Jason Nguyễn, Đại học Cerritos, so sánh âm nhạc miền nam trước và sau
năm 1975; Phú Vũ từ trường St. Peter Claver phân tích nhạc miền bắc và miền
nam, Nữ-Anh Trần, Đại học Connecticut, bàn về văn học hậu chiến.
Trong
hội thảo về nhân quyền, tác giả bài viết này đã nói về những tù nhân lương tâm
trong 50 năm qua, từ Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Đan Quế,
Đoàn Thanh Liêm, Đoàn Viết Hoạt đến Lê Quốc Quân, Phạm Đoan Trang, Huy Đức,
Nguyễn Sơn Lộ và những nỗ lực của người Việt hải ngoại để cải tiến tình hình
nhân quyền ở đó. Ông Huỳnh Lương Thiện, chủ nhiệm tuần báo Mõ-SF, trình bày việc
dùng truyền thông báo chí để dân chúng Mỹ biết về những vi phạm nhân quyền của
Hà Nội. Ông Nguyễn Minh Huy là ca nhạc sĩ đấu tranh, cùng cô Lê Diễm Chi Huệ và
Phong trào Hưng Ca đã đem tiếng hát đến nhiều nơi vận động cho nhân quyền tại
quê nhà. Hôm nay chúng tôi đã đồng ca vài bài nhạc đấu tranh, trong đó có Em
vẫn mơ một ngày về của Nguyệt Ánh.
Nhiều
người trẻ thuộc thế hệ 1.5 và thế hệ thứ 2 đã đến với hội nghị vì quan tâm đến
Việt Nam, muốn hiểu hơn về cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Họ đã hoặc đang theo học
khoa lịch sử, xã hội, nhân văn có liên quan đến đất nước, con người Việt Nam
như Nguyễn Hồng Uyên, Trinh Lưu, Tiana Dương, Nguyễn Hoàng Thụy Kha, Christina
Võ, Evyn Espiritu-Gandhi, Nguyễn Thị Kim Hoa, Tạ Bảo Long, Trần Nguyễn Phương
Thảo, Mã Y Vân.
Đặc
biệt tôi đã thấy có cả bố và con cùng đi tham dự hội thảo. Chương Đỗ và Chu Đỗ
chia sẻ trải nghiệm về hành trình thoát khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Nghĩa
M. Võ và Christina Võ có những khác biệt trong cách nhìn về quê hương Việt Nam,
cha bỏ đi vào tháng 4/1975 trong ngậm ngùi, đã viết nhiều sách về thuyền nhân,
về trại học tập cải tạo, trong khi cô con gái đến Việt Nam thì tìm thấy cội nguồn,
không như hình ảnh quê hương trong tâm trí của người cha, như Christina đã viết
trong tác phẩm My Vietnam, Your Vietnam mà hai bố con viết
chung, được Kalynh Ngô dịch ra tiếng Việt là Việt Nam của con, Việt Nam
của cha.
Sôi
sục trong lòng một số người Việt tham dự hội thảo, nhưng giữ yên lặng, là lúc Lệ
Lý Hayslip nói chuyện trong bữa ăn tối thứ Sáu 12/4. Tác giả của When
Heaven and Earth Changed Places (Khi Đất Trời đảo lộn), đã được Oliver
Stone chuyển thành phim, kể chuyện về đời mình, gốc Quảng Nam, gia đình theo cộng
sản và bà đã bị hãm hiếp, có con rơi, qua Mỹ từ năm 1970. Bà kể là bị người Việt
ở Dallas chống đối vì cho rằng bà ủng hộ chế độ cộng sản. Khoảng 20 người Việt
lặng lẽ rời phòng ăn để phản đối. Bài nói chuyện, chính ra là hỏi đáp, tâm tình
cùng Nguyễn Hồng Uyên, nhưng mới câu hỏi đầu bà đã nói liên tục hơn 20 phút. Bà
khóc cho số phận của mình, khiến cho cô Uyên cũng bật khóc theo.
·
7 lý do vì sao Mỹ
thua trong Chiến tranh Việt Nam
29 tháng 3 năm 2023
·
Phim về Chiến
tranh Việt Nam: Địa ngục dưới làn da3
0 tháng 4 năm 2024
·
Bạo lực, biến động
và sự rạn nứt miền Nam Việt Nam, 1945-54
30 tháng 8 năm 2022
Người
Việt phản đối vì Lệ Lý nói về yêu thương, tha thứ, hòa giải mà không hề nhắc đến
thuyền nhân, trong đó có nhiều người cũng bị hãm hiếp; không hề nhắc đến bao
người đã bị giam trong các trại học tập cải tạo. Như Hà Nội cũng chưa bao giờ
nhắc đến những thảm cảnh này.
Nước
mắt cũng đã rơi trong hội thảo khi nhà văn Andrew Lâm nói về thân phụ, Trung tướng
Lâm Quang Thi, mà lúc ông mất thì Andrew bị kẹt ở Việt Nam do Covid-19. Tướng
Thi viết hai tác phẩm Twenty-Five-Year Century và Hell
in An Lộc là để hóa giải dư luận xấu mà truyền thông Mỹ đã viết về
Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Andrew kể rằng khi nhận tin Hell in An Lộc được
nhà xuất bản cho phát hành, cha ông đã bật khóc, vì xem như những gì ông muốn để
lại cho các cháu của ông và cho thế hệ mai sau, ông đã hoàn tất.
Trong
cùng buổi thảo luận với Andrew Lâm, có hai diễn giả cũng nói về người thân của
họ là các tướng tá của Việt Nam Cộng hòa. Evyn Espiritu-Gandhi, Đại học UCLA,
nói về Ông Hai, tức Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, người đã bị cộng sản xử bắn vì không chịu
đầu hàng.
Nhà
văn Zora Mai Quỳnh nói về bác của cô là Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan. Ông Loan
là nhân vật trong bức hình do Eddie Adams chụp năm 1968 khi ông xử bắn tại chỗ
một du kích Việt Cộng, bức hình đã gây chấn động thế giới, mà mấy ai biết được
chỉ ít phút trước đó chính người du kích này đã giết cả một gia đình 7 người.
Đó là những thiên lệch của truyền thông Mỹ.
Nhìn
lại cuộc chiến và hệ lụy của nó, câu hỏi đã được Tường Vũ, Đại học Oregon, đặt
ra trong một buổi thảo luận là "Ai đã giải phóng ai?" Đó cũng là một
luận đề sẽ còn tiếp tục được bàn luận trong tương lai.
Về
những thay đổi lãnh đạo gần đây ở Ba Đình, Stephen Young, tác giả của
Kissinger's Betrayal, trong một buổi thảo luận có góp ý, nói đến bài viết cách
đây vài ngày của Tổng Bí thư Tô Lâm, trong đó không nhắc gì đến chủ nghĩa
Mác-Lênin hay chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này cho ông lạc quan về những thay đổi
sắp có từ Hà Nội.
Phản
biện lại, George "Jay" Veith, cũng là một học giả về Việt Nam với những
tác phẩm như Black April: The Fall of South Vietnam (Tháng Tư
đen: Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam) và Peace, POWs and Power (Hòa
bình, Tù binh và Quyền lực), đã gặp Tô Lâm nhiều lần nhưng không tin ông tổng
bí thư sẽ đem lại những cải cách, vì là gốc công an, chỉ khéo che đậy sự độc
tài.
Bà
Sheon Montgomery và giáo sư Alex-Thái Đình Võ hướng dẫn khách thăm Vietnam
Archive
Từ
khi có Vietnam Center (Trung tâm Việt Nam) do cựu sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ James
Reckner (1940-2018) sáng lập tại Đại học Texas Tech cách đây hơn 30 năm, mỗi
năm ở đây đều có tổ chức hội thảo về Việt Nam. Những hội thảo đầu tiên thường
chú trọng đến quân sử Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Sau khi thiết lập bang giao
Mỹ-Việt năm 1995, sau đó bắt đầu có những cấp chỉ huy Quân đội Nhân dân và những
nhà nghiên cứu từ Việt Nam tham gia hội thảo.
Cùng
lúc có nhiều người tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành liên quan đến Việt Nam, đến
người Việt tị nạn. Trong vòng 20 năm qua đã có nhiều nghiên cứu hơn về Việt Nam
Cộng hòa, về người Việt ở Mỹ cũng như nhiều nơi trên thế giới.
Vietnam
Center tại Đại học Texas Tech là nơi có Vietnam Archive lưu trữ hơn 30 triệu
trang tài liệu và cả vạn di vật liên quan đến cuộc chiến và người Việt, trong
đó có nhiều tài liệu mà học giả Douglas Pike (1924-2002), tác giả của tác phẩm Việt
Cộng đã thu thập được. Nhật ký Đặng Thùy Trâm là một trong những di vật
được tìm ra ở đây.
Nơi
đây cũng lưu trữ toàn bộ hồ sơ liên quan đến chương trình H.O. do bà Khúc Minh
Thơ hiến tặng.
Dự
hội thảo năm nay, nhiều người đã được bà Sheon Montgomery, phụ trách tham khảo
của văn khố, và giáo sư Alex-Thái Đình Võ hướng dẫn đi thăm Vietnam Archive để
thấy nơi đây có nguồn tài liệu phong phú cho các nghiên cứu. Đi qua những kệ
sách, tủ tài liệu, báo chí, kệ di vật thấy có Công báo Việt Nam Cộng hòa, báo
Thái Bình, báo Kháng Chiến, nón bộ đội, nón lá, cờ Việt Nam Cộng hòa, có hình Hồ
Chí Minh.
Tôi
thấy tấm bích chương quảng cáo cho triển lãm về chiến tranh Việt Nam tại Bảo
tàng Oakland năm 2005 mà tôi đã cùng người Việt vùng Vịnh San Francisco phản đối
ban tổ chức vì triển lãm về Chiến tranh Việt Nam mà không có nhắc đến hệ lụy của
nó, là người Việt tị nạn tại Mỹ. Cuối cùng thì hình ảnh, di vật của người tù cải
tạo, của người vượt biển, những sinh hoạt chống cộng sản của người Việt đã được
đem vào cuộc triển lãm.
Bà
Sheon nhắc nhở chúng tôi cần lưu giữ những di sản của gia đình vì bản gốc luôn
có giá trị cho văn khố. Vì di vật chính là câu chuyện riêng của một người, của
một gia đình. Không nhất thiết phải là người có địa vị hay chức quyền.
Kết
thúc hội thảo, giáo sư Stephen Maxner, Giám đốc Vietnam Center, cám ơn 70 diễn
giả đã đóng góp tham luận và hơn một trăm khách đã tham dự để chương trình
phong phú và thành công. Ông loan báo, vào tháng 6 sang năm, hội thảo sẽ được tổ
chức tại Việt Nam.
Việc
này dễ hay khó, vì trong một buổi thảo luận trước đó đã có người nêu vấn đề là
tại Việt Nam thì người tham dự có được tự do trình bày nghiên cứu, tranh luận,
đặt câu hỏi như trong môi trường đại học ở Mỹ hay không.
Hy
vọng đến khi đó Việt Nam sẽ có tự do học thuật. Mấy tuần trước, một thành viên
Bộ Chính trị đã gặp gỡ một số trí thức tại Sài Gòn để nói chuyện, trong đó có
chủ đề tự trị đại học. Liệu đó có phải là chỉ dấu của thay đổi?
---------------------------
·
Tác giả Bùi Văn Phú là giảng viên đại học cộng đồng và là
nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco
Tin
liên quan
·
Chiến tranh Việt Nam:
Người Mỹ xâm lược hay 'chỉ can thiệp'?
8
tháng 5 năm 2021
·
Ngày 28/2/1975: Cuộc
họp Việt-Mỹ căng thẳng nhất trong 20 năm cuộc chiến
27
tháng 2 năm 2024
·
Dinh Độc Lập tháng
3/1975: Lệnh rời bỏ Cố đô Huế
29
tháng 3 năm 2024
·
Tại sao quân đội Mỹ
và VNCH suýt bắn nhau tan nát vào giờ chót?
22
tháng 4 năm 2024
·
30/4: Việt Nam hóa và bài
học chơi với Mỹ
26
tháng 4 năm 2019
·
Hạm đội TQ suýt bị
Không quân VNCH bắn chìm sau Hải chiến Hoàng Sa
21
tháng 1 năm 2024
No comments:
Post a Comment