Chiến
tranh Ukraina: Những chuyển biến trong quan hệ quân sự Nga-Trung Quốc
Thanh Hà - RFI
Đăng
ngày: 24/04/2025 - 14:08
Kể từ năm
2022 khi chiến tranh Ukraina khai mào, Trung Quốc đã trở thành điểm tựa chính
trị, kinh tế của Nga. Phương Tây càng lo ngại về « liên minh quân sự Nga-Trung »,
nhất là vì Nga là một nguồn cung cấp vũ khí cho Trung Quốc từ thập niên 1950 và
hai quốc gia này cũng đã mở rộng các hoạt động tập trận chung. Nhờ vậy Nga «
góp phần quan trọng cho tiến trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc (PLA) và
đem lại cho Bắc Kinh nhiều lợi ích khác ».
HÌNH
:
Tổng
thống Nga Vladimir Putin và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh,
Trung Quốc. Ảnh tư liệu ngày 16/05/2024. © AP/Sergei Bobylev
Ngày
17/04/2025, tổng thống Zelensky tố cáo Trung Quốc cung cấp vũ khí cho Matxcơva,
tiếp tay với Nga trong cuộc chiến Ukraina, điều mà Bắc Kinh cực lực bác bỏ.
Kiev cũng đã đưa ra những bằng chứng về sự hiện diện của lính Trung Quốc trên
chiến trường Ukraina. Nga là nguồn cung cấp vũ khí truyền thống của Trung Quốc,
nhưng tương quan lực lượng đã bắt đầu thay đổi từ trước chiến tranh Ukraina. Lợi
thế nghiêng hẳn về phía Bắc Kinh.
RFI
giới thiệu bài viết của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS mang tựa đề « Quan hệ quân sự Nga-Trung Quốc sâu rộng đến mức độ
nào ? », đăng trên trang nhà của CSIS- Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến
Lược Quốc Tế, trụ sở tại Washington.
Trước
hết về khoản « hỗ trợ quân sự và mua bán vũ khí », tập hợp
nhiều tác giả bài viết trên trang mạng của CSIS trong khuôn khổ chương trình
ChinaPower Project nhắc lại một số điểm chính:
Từ
thập niên 1950, « Viện trợ quân sự và buôn bán vũ khí đóng vai trò
lớn gắn kết Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mới thành lập với Liên Xô. Tham chiến
trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Bắc Kinh tháng 10/1953 quay sang Liên
Xô để tìm kiếm viện trợ ». Theo các dữ liệu chính thức, khoản viện
trợ của Liên Xô khi đó gồm máy bay MiG-15 và máy bay ném bom Tu-2, « trị
giá tương đương từ 1,5 đến 2 tỷ đô la ».
Ngoài
ra, « Liên Xô cũng hỗ trợ Trung Quốc phát triển hạt nhân, cả dân sự
và quân sự » qua việc « đào tạo các nhà khoa học Trung Quốc,
hỗ trợ làm giàu uranium và tái chế plutonium cấp vũ khí, cùng với việc thiết kế,
sản xuất đầu đạn và công nghệ tên lửa ».
Tuy
nhiên, Liên Xô không trực tiếp cung cấp vũ khí hạt nhân cho Trung Quốc. Nhờ thế
mà « đến năm 1956, Trung Quốc đã sản xuất được J-4, máy bay chiến đấu nội
địa dựa trên mẫu MiG-17 của Liên Xô » và « phát triển thành
công quả bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1964 ».
Công
nghiệp quốc phòng Trung Quốc cất cánh nhờ Liên Xô-Nga
Tuy
nhiên, sự hợp tác quân sự này không kéo dài. Đến năm 1960, những khác biệt về ý
thức hệ và chính trị đã dẫn đến rạn nứt trong quan hệ giữa Bắc Kinh và
Matxcơva. Phải đợi đến năm 1989, khi Trung Quốc bị phương Tây trừng phạt sau đợt
đàn áp đẫm máu phong trào dân chủ Mùa Xuân Bắc Kinh.
Là
một trong những nhà sản xuất vũ khí lớn nhất trên thế giới, Liên Xô « sẵn
sàng giải tỏa thế cô lập cho Bắc Kinh ». Trong chiều ngược lại thì « việc
Trung Quốc mua vũ khí (của Liên Xô) cũng là cái phao cứu nền công nghệ quốc
phòng của Nga khi mà Liên Xô tan rã ».
Kim
ngạch vụ mua bán vũ khí giữa hai quốc gia này đã phát triển mạnh trong thập
niên 1990 và đầu những năm 2000 : « Từ 1990 đến 2005, hơn 83% lượng
vũ khí nhập khẩu của Trung Quốc do Nga cung cấp » (…) « lượng vũ khí
này đã giúp PLA nhanh chóng hiện đại hóa ».
Trục
trặc trong hợp tác song phương - Trung Quốc bớt phụ thuộc vào Nga
Vẫn
theo bài viết trên trang nhà của trung tâm CSIS, nhờ những hợp tác và thương vụ
mua bán vũ khí đó mà « các kỹ sư Trung Quốc đã có kinh nghiệm chế
tạo và dần dần phát triển thiết kế nội địa ». Một khi bắt đầu « cất
cánh », Trung Quốc « ngày càng ít cần nhập khẩu thiết bị
của nước ngoài. Tổng lượng vũ khí nhập khẩu của Trung Quốc giảm 40% trong giai
đoạn 2009–2023 so với 15 năm trước đó ».
Cùng
lúc, một hiềm khích khác giữa hai đối tác này đã nảy sinh « khi
Trung Quốc liên tục đánh cắp công nghệ và tài sản trí tuệ quân sự của Nga thông
qua gián điệp và tấn công mạng. Theo phân tích từ ChinaPower, có ít nhất 21 vụ
tấn công để đánh cắp công nghệ quân sự Nga trong hai thập kỷ qua, chủ yếu nhắm
vào công nghệ hàng không vũ trụ. (...) Giai đoạn 2021–2023, có bốn vụ các nhà
nghiên cứu Nga chuyển giao tài liệu nghiên cứu nhạy cảm cho Trung Quốc. Năm
2019, tập đoàn quốc phòng nhà nước Nga Rostec báo động đã có 500 vụ sao chép
trái phép thiết bị trong 17 năm qua, liên quan đến các việc sao chép động cơ
máy bay, máy bay Sukhoi, tiêm kích trên tàu sân bay, hệ thống phòng không, tên
lửa vác vai, và các phiên bản tương tự hệ thống phòng không tầm trung
Pantsir »
Chiến
tranh Ukraina và thay đổi tương quan trong hợp tác Nga-Trung
Năm
2014 Nga xâm chiếm bán đảo Crimée của Ukraina rồi đưa quân sang Ukraina từ
tháng 2/2022 khiến Nga không còn khả năng cung cấp dồi dào thiết bị quân sự cho
Trung Quốc. Thêm vào đó là các lệnh trừng phạt của quốc tế cũng đã hạn chế đáng
kể các giao dịch mua bán vũ khí giữa hai nước. Thị phần xuất khẩu vũ khí của
Nga bị thu hẹp xuống còn 4,6 % năm 2024. Bản thân Trung Quốc thì cũng không còn
lệ thuộc vào các nhà sản xuất Nga cho đến tận đầu thập niên 2000. Cùng lúc, về
kinh tế, Nga phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Riêng trong lĩnh vực quốc phòng,
bài viết của trung tâm CSIS ghi nhận « Nga ngày càng phụ thuộc vào
khả năng sản xuất khổng lồ của Trung Quốc để duy trì ngành công nghiệp quốc
phòng (…) vào các linh kiện và thiết bị lưỡng dụng cho các công ty quốc phòng của
Nga như chất bán dẫn, drone hay bộ phận máy bay chiến đấu và công nghệ gây nhiễu
radar ».
« Sự
phụ thuộc ngày càng lớn vào Trung Quốc có thể giúp Bắc Kinh có thêm trọng lượng
để đòi chuyển giao một số công nghệ quân sự tiên tiến của Nga, mà Matxcơva vẫn
còn dè dặt, cho Bắc Kinh để phát triển máy bay chiến đấu và trực thăng
tiên tiến».
Tăng
cường các chiến dịch tập trận chung
Vào
lúc mảng mua bán vũ khí có khuynh hướng « nhẹ dần » thì
Nga và Trung Quốc tăng cường các cuộc tập trận chung và những hoạt động
đó « mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc, cho Quân Giải phóng
Nhân dân (PLA), như kinh nghiệm tác chiến ». Đây cũng là cơ hội để
Matxcơva và nhất là Bắc Kinh « gửi đi những thông điệp răn
đe ».
So
với cuộc tập trận chung đầu tiên hồi 2003 giữa Trung Quốc, Nga và ba thành viên
trong Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải, thì « càng ngày, số lượng và loại
hình tập trận càng được mở rộng và đa dạng (…) Phạm vi địa lý của các cuộc
tập trận cũng vậy. Nếu ban đầu chủ yếu diễn ra tại miền tây Trung Quốc và Trung
Á, thì gần đây đã có các cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Nam Phi, Địa Trung
Hải, biển Bering và thậm chí cả biển Baltic. Cuối năm 2024, lực lượng cảnh sát
biển hai nước tiến hành tuần tra chung lần đầu tiên vào Bắc Băng Dương – đánh dấu
tham vọng chiến lược ngày càng rõ rệt của Trung Quốc ở vùng cực ».
Các
đồng tác giả bài nghiên cứu về những chuyển biến trong quan hệ hợp tác quân sự
Nga-Trung Quốc ghi nhận : Trước hết quân đội Trung Quốc có cơ hội « học
hỏi kinh nghiệm của Nga, làm quen với nhiều địa hình và khí hậu » ở
xa Hoa Lục. Đây cũng là hình thức để Bắc Kinh phô trương thanh thế. Về mặt
chính thức Trung Quốc luôn khẳng định « không có ý đồ nhắm vào một
bên thứ ba », nhưng nhiều tài liệu chính thức khác nói thẳng : Tập
trận « không chỉ thể hiện khả năng tác chiến, mà còn khiến đối thủ
phải hoang mang về những ý đồ » của Bắc Kinh. Điều này đã được thể
hiện qua các chương trình tập trận chung ở Biển Đông trong chiến dịch « Joint
Sea 2016 », hay qua chương trình tháng 7/2024 khi Nga và Trung Quốc
cùng « tuần tra trên không vùng Biển Nhật Bản và Hoa đông đúng vào
lúc nhóm Bộ Tứ họp thượng đỉnh tại Tokyo (…), cũng như khi quân đội hai nước
thao diễn trong vụng nhận diện phòng không của Hoa Kỳ gần Alaska, có thể là nhằm
đáp trả việc Lầu Năm Góc công bố chiến lược quốc phòng mới ».
Có
điều các đồng tác giả bài tham luận mang tựa đề « Quan hệ quân sự Nga-Trung Quốc sâu rộng đến mức độ
nào ? » nhận thấy là với thời gian « Trung Quốc đã bắt
đầu dẫn đầu một số cuộc tập trận, còn Nga thì đóng vai phụ ».
No comments:
Post a Comment