Ngô Thế Vinh
03/07/2025
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/07/1-14.jpg
Hình
1: (Trái)
bản đồ lưu vực hồ Nhĩ Hải; (phải) hình ảnh hải thái hoa, một loài cây sống dưới
nước rất đặc thù của vùng cao nguyên Vân Nam, hoa trắng tinh khôi với cánh trắng
nhuỵ nở trên mặt nước, nhìn từ xa như những cánh sao rơi. Hải thái hoa rất kén
nước, chỉ có thể sống được trong các hồ nước sạch, không bị ô nhiễm.
– Tom
Mollenkopf,
Chủ tịch Hiệp hội Nước Quốc tế IWA (International Water Association) nhận định
rằng “Dự án đổi mới kiểm soát ô nhiễm hồ Nhĩ Hải và Phát triển Lưu vực đã cung
cấp những hiểu biết quan trọng cho lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”. Dự án được
đánh giá là xuất sắc và đã được trao tặng Huy chương Bạc tại Đại hội Triển lãm
Nước Thế giới. [Copenhagen
tháng 8-2022]
Phan Nhạc, sinh năm 1960, là một thứ
trưởng trẻ nhất trong chính phủ Trung Quốc, người đi đầu trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường, trước một nhóm sinh viên trẻ, ông đã thẳng thắn phê phán: “Mô
hình phát triển kinh tế hiện tại của chúng ta là không bền vững. Ô nhiễm môi
trường đã hạn chế nghiêm trọng tăng trưởng kinh tế, và bất công xã hội dẫn đến
bất công môi trường, đến lượt nó lại làm trầm trọng thêm bất công xã hội, tạo
ra một vòng luẩn quẩn gây ra bất hòa xã hội”. [2007, Pan Yue 潘岳]
***
Một
thoáng 23 năm: Cùng bầy chim cốc trên hồ Nhĩ Hải/ ERHAI LAKE/ 洱海
Một
ngày của trung tuần tháng 9 năm 2002, sau khi thoát ra được vòng rào con Đập Mạn
Loan, con đập lịch sử, con đập thuỷ điện đầu tiên trên sông Langcang-Mekong. Từ
huyện Manwan bằng đường bộ, chúng tôi lên tới cổ thành Đại Lý (Dali) trời cũng
đã sẩm chiều. Đại Lý vẫn được so sánh như một tiểu Katmandu của Nepal, nơi có
nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử của hơn 1 triệu sắc dân Bạch (Bai) với gốc
rễ văn hóa lâu đời từ hơn 3 ngàn năm.
Từ
thế kỷ thứ 7, đã có một nước Nam Chiếu (Nanzhao) rất hùng mạnh từng đánh bại
quân Nhà Đường vào thế kỷ thứ 8. Sang thế kỷ thứ 10 trở thành vương quốc Đại Lý
cho tới thế kỷ 14, thời Nguyên Mông (Mongol Yuan) thì không chỉ Đại Lý mà toàn
vùng Vân Nam đã trực thuộc nước Trung Hoa.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/07/1-15.jpg
Hình
2:
Cổ thành Đại Lý với sắc dân Bạch có lịch sử hơn 3 ngàn năm, vẫn còn đó một Chùa
Ba Ngôi của nước Nam Chiếu, đã có từ thế kỷ thứ IX.
Vẫn
còn đó những kiến trúc cổ xưa như Chùa Ba Ngôi được xây cất từ thế kỷ thứ 9,
các ngôi nhà đá cổ với cả những con đường đá quanh co. Nhưng thực sự đã không
còn nguyên vẹn một cổ thành Đại Lý, bức tường thành kiên cố bằng đá không còn nữa,
các cổng thành gốc đã bị phá đi thì nay được mô phỏng xây dựng lại nhưng với
bên trong là những gian hàng bán nữ trang và đồ lưu niệm cho du khách. Đi bộ từ
Cửa Bắc tới Cửa Nam của Cổ Thành, qua những đường phố nhỏ với đường lát gạch,
hai bên đường là những quán ăn, tiệm Café Internet và luôn luôn tấp nập với các
đoàn du khách được hướng dẫn bởi những cô gái gốc Hán má phấn môi son nhưng lại
với y phục rực rỡ của sắc dân Bạch.
Phía
tây Đại Lý là trùng điệp núi non, phía đông là hồ Nhĩ Hải (Erhai Lake). Nhĩ Hải
là hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam (sau hồ Điền Chì) đổ vào sông Mekong
qua một phụ lưu là con sông Xi’er. Hồ Nhĩ Hải được coi như một “tiên cảnh” của
sắc tộc Bạch, là một hồ rất sâu đã từng có tới hơn 40 loại cá khác nhau, nổi tiếng
nhất là loại “cá quậy (bow fish) giống như cá chép có đặc tính ngậm đuôi vào miệng
rồi bung ra nhảy cao trên mặt nước. Vân Nam rất xa biển nên người dân Vân Nam
thích đặt tên biển cho những hồ lớn của họ. Đại Lý mưa tầm tã từ nửa đêm kéo
dài tới sáng hôm sau. Nhưng rồi mặt trời cũng ló dạng. Khí hậu đủ tốt cho nửa
ngày đánh cá bằng chim cốc (cormorants) trên hồ Nhĩ Hải.
Chiếc
xe phải len lách giữa những thửa ruộng trên một con đường đất đá để tới được
làng đánh cá nhỏ bên bờ tây của hồ Nhĩ Hải, gặp bác ngư dân sắc tộc Bạch, da sạm
nắng tuổi cũng gần 60, bác sống với đàn chim cốc cũng phải tới hai chục con đã
được thuần hóa. Có khách tới, bầy chim được tự do ra khỏi những chiếc lồng,
tung tăng duỗi chân duỗi cánh hân hoan. Thay vì đeo vào cổ chim những chiếc
vòng, rất nhanh và thành thạo người đàn ông dùng mớ lạt, buộc cổ từng con chỉ vừa
đủ chặt để ngăn chúng nuốt xuống những con cá lớn bắt được, rồi ra lệnh cho đàn
chim tung mình xuống nước và bơi theo ghe ra hồ.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/07/1-16-983x420.jpg
Hình
3: (Trái)
trước buổi săn cá trên hồ Nhĩ Hải, một ngư ông sắc dân Bạch đang dùng dây lạt
thắt vòng trên cổ mỗi con chim Cốc, ngăn không cho chim nuốt những con cá lớn để
sau đó thu hoạch. (Phải) đàn chim Cốc đã được thuần hoá, trở nên rất
dạn dĩ và thân thiện với du khách. Nguồn: Ngô Thế Vinh, ảnh chụp từ Vân Nam, Đại
Lý, tháng 9-2002
Gần
bờ, nước hồ Nhĩ Hải ô nhiễm đặc sánh lại một màu xanh của tảo và rong rêu, cũng
không ngạc nhiên khi thấy các rãnh nước thải từ thành phố chảy qua các ruộng
lúa rồi đổ thẳng xuống hồ. Phải thật xa bờ, nước hồ mới một phần trở lại trong
xanh.
Như
những người bạn thân thiết, bầy chim cốc và ngư ông hoạt động nhịp nhàng. Cảnh
tượng thật kỳ lạ chỉ bằng khẩu lệnh với những âm thanh sắc ngắn là cả một bầy
chim từng đợt từng đợt vỗ cánh rồi cùng ngụp lặn sâu dưới mặt nước. Phải một
lúc sau mới thấy từng con trồi lên, con chim nào với chiếc cổ phồng to phía
trên nút lạt thắt là dấu hiệu bắt được cá lớn, ngư ông chỉ cần tới gỡ mỏ từng
con chim cốc và thu hoạch. Mẻ cá đầu tiên của một chú chim cốc là hai con cá
chép chỉ nhỏ hơn nửa bàn tay.
Bầy
chim tỏ ra rất thân thiện, nhảy lên ghe, đậu trên mái chèo hay trên tay khách.
Cảnh trí thiên nhiên hữu tình, chủ khách và bầy chim thực sự giao hòa. Tỏ tình
thân, người đàn ông gốc Bạch mời tôi điếu thuốc hút. Cũng đã 30 năm rồi, lần đầu
tiên tôi đã lại vui vẻ đón nhận và cả thưởng thức điếu thuốc thơm Vân Nam trên
mặt hồ Nhĩ Hải.
Cách
đây ngót 8 thế kỷ (1278), Marco Polo trên Con Đường Tơ Lụa Phương Nam (Southern
Silk Route) đặt chân tới đây và ghi nhận cá ở hồ Nhĩ Hải là “nhất thế giới” sau
đó Marco Polo đã vượt qua sông Mekong phía tây Vân Nam để ra khỏi Trung Hoa.
Sáu
thế kỷ sau Marco Polo (1868), đoàn thám hiểm Pháp với Doudart de Lagrée &
Francis Garnier khởi hành từ Sài Gòn bằng cuộc hành trình gian truân ngược dòng
sông Mekong kéo dài hai năm, cuối cùng Francis Garnier cũng tới được hồ Nhĩ Hải
phía đông khu cổ thành Đại Lý. Nhưng Francis Garnier đã bị vị Sultan, vua Hồi từ
chối tiếp kiến và buộc đoàn phải rời Đại Lý ngay sau đó.
Hơn
130 năm sau Francis Garnier, chúng tôi đang trở lại với sinh cảnh đẹp đẽ
nhưng đã quá mong manh và có lẽ là những năm tháng cuối cùng của hồ Nhĩ Hải với
nước hồ ngày càng ô nhiễm, đổ thoát ra bằng một phụ lưu lớn là con sông Xi’er để
rồi cuối cùng cũng đổ dồn vào dòng chính con sông Lancang–Mekong.
…
Sau
hai điếu thuốc, chủ và khách đều hân hoan. Lão ngư ông cao hứng bảo sẽ hát cho
chúng tôi nghe một bài tình ca có tự lâu đời của sắc dân Bạch. Tuy không hiểu
được lời ca nhưng những nốt nhạc thì rất du dương trầm bổng. Theo Wu thì bài
hát kể lại mối tình thơ mộng và say đắm của đôi trai gái sắc tộc Bạch, cùng
chèo thuyền trên hồ Nhĩ Hải cảnh sắc hữu tình, dưới bầu trời xanh, bên dãy núi
cao, trên biển nước mênh mông, mỗi nốt nhạc lời ca là tiếng lòng thổn thức của
họ.
Ở
tuổi gần 60, da sạm nắng và gầy khắc khổ nhưng người đàn ông đã hát với tất cả
vẻ đam mê như đang sống lại với mối tình đầu của tuổi thanh xuân ngày nào. Bầy
chim cốc vẫn bơi sát theo thuyền, mấy con nhảy đỗ trên ghe thì nghển cổ như để
lắng nghe chủ hát.
Tôi
hỏi về mức thu hoạch cá với đàn chim cốc. Ông nói đã sống với nghề săn cá bằng
chim cốc từ 40 năm và cách đây hơn 10 năm thôi, vẫn có được những mẻ cá lớn
nhưng về sau này thì không, lượng cá không hiểu tại sao càng ngày càng ít hẳn
đi, chỉ còn lại đàn chim cốc vẫn nuôi sống được gia đình ông chủ yếu bằng tiền
của du khách.
***
Hồ
Điền Trì / Dianchi 滇池, và con sông hồng. Điền Trì là một biển
hồ lớn nhất phía nam thủ phủ Côn Minh, đã từng được Marco Polo tới thăm vào thế
kỷ thứ 13 mô tả như “một hồ lớn cả trăm dặm và lưới được rất nhiều cá”.
Hồ có chiều dài hơn 40 km, diện tích 300 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc
Singapore), phía tây là núi đồi, phía đông hồ, địa hình bằng phẳng, nguyên là
khu chài lưới rất thịnh vượng nhưng rồi do ô nhiễm chất thải từ các khu kỹ nghệ
bờ đông nam nên đã không còn cá và thực sự đã không còn một nền ngư nghiệp.
Wu
là tài xế và cũng là nhà giáo khi đưa chúng tôi tới đây, đã cho biết chính quyền
không sao xử lý được hồ nước thải, không giải quyết được cả một khối lượng nước
đã quá ô nhiễm trong hồ lớn Điền Trì – nên Wu đã thuật cho chúng tôi nghe về một
kế hoạch táo bạo của chính quyền Vân Nam: Dự trù chi phí 2 tỉ yuan để khai
thông một đường dẫn cho thoát nước hồ ra sông Hồng, chảy qua Việt Nam rồi đổ ra
Biển Đông, sau đó sẽ thay thế bằng nước con sông Dương Tử dẫn vào hồ.
Tuy
chưa thể kiểm chứng được là có bao nhiêu phần trăm sự thật trong kế hoạch đầy
sáng tạo nhưng độc ác của các “công trình sư Đại Hán” ấy, nhưng có thể chắc chắn
một điều người giáo viên trung học này không đủ giàu tưởng tượng để bịa đặt ra
câu chuyện ấy. Đổ tất cả ô nhiễm của hồ Điền Trì vào con sông Hồng như một đường
cống rãnh, hậu quả sẽ ra sao trên bao nhiêu triệu cư dân Việt Nam nơi đồng bằng
châu thổ đang sống bằng nguồn nước con sông Hồng và đây là điều sẽ được ai quan
tâm tới? Việt Nam được biết gì về một kế hoạch “giải quyết môi sinh” theo lối
ném bùn sang ao của chánh quyền Vân Nam? [Hết trích dẫn: Mekong Dòng Sông nghẽn
Mạch_Tường Trình từ Vân Nam 9.2002, Nxb Văn Nghệ]
Trong
chuyến đi Vân Nam 2002, người viết đã được tận mắt thấy một hồ Điền Trì lớn nhất
Vân Nam gần như đã chết và một hồ Nhĩ Hải lớn thứ hai thì đang chết dần. Nhưng
để rồi, 23 năm được chứng kiến những “cái chết đi và sống lại” của các hồ nước
ngọt Trung Quốc như một phép lạ không do Thượng Đế mà do chính con người đã tạo
ra…
Châu Đại
Lý và hồ Nhĩ Hải ngày nay
Hồ
Nhĩ Hải trên cao nguyên Vân Nam, độ cao 1972 m trên mực nước biển, cách thủ phủ
Côn Minh 265 km về phía tây bắc, là một trong số 16 hồ nay thuộc khu bảo tồn
thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc. Hồ có chiều dài bắc nam 40 km, chiều rộng
đông tây 8 km, diện tích 250 km2 với chu vi 116 km, có chiều sâu trung bình khoảng
11m. Dung tích hồ biến động theo mùa khoảng 2.5 tỉ m3 tới 2.8 tỉ m3.
Đây
là một hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam nổi tiếng về cảnh quan và hệ sinh
thái phong phú. Vào những năm trước 1970, hồ Nhĩ Hải vẫn được coi như một “tiên
cảnh hạ giới” với nước hồ trong như ngọc và trên mặt hồ có điểm xuyết một loài
hoa quý: hải thái hoa / 海菜花 / haicaihua, tên khoa học là Ottelia
acuminata. Hoa có ba cánh trắng, nhị vàng. Hải thái hoa không chỉ nổi tiếng
vì đẹp, chỉ có ở Vân Nam, vùng tây nam Trung Hoa. Những thân non và nụ hoa còn
được sắc dân Bạch thu hoạch, chế biến thành các món ăn ngon truyền thống rất được
ưa chuộng. Y học Trung Hoa còn ghi nhận hải thái hoa đây là một loại dược thảo
trị được một số bệnh.
Vì
loài hoa này rất dễ bị tổn thương, và không sống được trong môi trường ô nhiễm,
nên sau này được các nhà khoa học môi sinh coi hải thái hoa như một “chỉ báo
sinh học” (biological indicator of water quality) về phẩm chất nước.
Bấy lâu, hồ Nhĩ Hải có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước, tưới tiêu
nông nghiệp, và điều hòa khí hậu cho các khu vực xung quanh. Dân địa phương vẫn
chủ yếu sống bằng nghề nông, chăn nuôi, đánh bắt cá theo phương thức cổ truyền,
vận chuyển và du lịch trên hồ.
Năm
1981, hồ Nhĩ Hải và núi Thương Sơn / 蒼山 / Cangshan đã được
chính quyền tỉnh Vân Nam quy hoạch là Khu bảo tồn thiên nhiên và sau đó năm
1994 được nâng cấp thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, với mục tiêu bảo quản
hồ nước ngọt cùng những cảnh quan với hệ động thực vật thủy sinh phong phú – được
coi như một vùng chuyển tiếp nam-bắc của Trung Quốc với cả những di tích địa chất
còn sót lại từ thời kỳ băng hà.
Cái
giá phải trả của phát triển
Nhưng
rồi vào cuối thập niên 1970s và 1980s, khi một Trung Quốc bắt đầu mở cửa và đổi
mới – tạo được những bước phát triển kinh tế nhảy vọt – khởi đầu từ các tỉnh miền
đông và đông nam. Riêng vùng tây nam – như cao nguyên Vân Nam trong đó có Châu
Tự Trị Đại Lý thì vẫn chìm trong cảnh nghèo khó. Nhưng rồi, tuy muộn màng, cuối
cùng Vân Nam cũng được thụ hưởng ánh sáng tăng trưởng kinh tế của cả nước. Với
chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, được phát động từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh
Vân Nam – trong đó có Châu Đại Lý với ngót nửa triệu cư dân được coi như đã
thoát khỏi mức nghèo khó, họ đạt được mức sống cao hơn (i) với thu nhập trên mức
tối thiểu; (ii) được đảm bảo thức ăn và quần áo; và (iii) được đảm bảo các dịch
vụ y tế cơ bản, nhà ở có điện nước, và giáo dục miễn phí.
Các
bước phát triển của Trung Quốc với mở mang các khu kỹ nghệ mới, phải kể tới kỹ
nghệ hoá chất với phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, ban đầu đã tạo được những cải
tiến trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế phát triển đưa tới sự bùng phát của du
lịch nội địa và quốc tế.
Hệ
quả đưa tới là tình trạng đô thị hoá, với chuyển dịch dân cư, làm gia tăng dân
số trong vùng – cùng với cái giá phải trả về môi trường – khiến chất lượng nước
trong hồ Nhĩ Hải ngày càng xấu đi và chủng loại hải thái hoa / haicaihua dần dần
biến mất. Người ta đã phải chứng kiến sau đó một hồ Nhĩ Hải trải qua những đợt
bùng phát tảo xanh (blue-green algae), không những thế nước hồ còn phát ra
mùi hôi thối và chất lượng nước được coi là không phù hợp để tiếp cận với con
người.
Nguồn
ô nhiễm hồ Nhĩ Hải đến từ đâu?
_
Từ các điểm nguồn (point source): các con sông: từ năm 2013 của các
nhà khoa học tỉnh Vân Nam phát hiện ra rằng những con sông bấy lâu chảy vào hồ
Nhĩ Hải, chất lượng nước được đánh giá là rất ô nhiễm; các chất gây ô nhiễm
chính là nitrogen và phốt pho có nguồn gốc từ phân bón nông nghiệp, tất cả nước
sông ô nhiễm này chảy vào hồ, gây ra hiện tượng phú dưỡng / eutrofication*.
[*Phú
dưỡng / eutrofication là tình trạng nước chứa quá nhiều chất dinh dưỡng từ phân
bón, nước thải đưa tới tình trạng bội phát các loại rong rêu /algae, phiêu sinh
vật/ plankton, làm cạn kiệt nguồn oxy trong nước, tạo ra các vùng chết trong hồ].
Ba
con sông chính gây ô nhiễm hồ Nhĩ Hải là (1) Vĩnh An Giang / Yong’anjiang,
(2) La Thập Giang / Luoshijiang, và (3) Bạch Hạc Khê / Baihexi. Chỉ riêng con
sông Vĩnh An Giang đã đổ vào hồ Nhĩ Hải 20% tổng số chất thải.
GIẢI PHÁP: Nhóm dự án đặc biệt
nghiên cứu các phân đoạn con sông chảy vào hồ Nhĩ Hải, từ thượng nguồn xuống tới
cửa sông, để xây dựng một kế hoạch quản lý hệ sinh thái sông toàn diện. Chỉ
riêng nguồn nước từ con sông La Thập Giang, đã đổ 40 triệu tấn nước thải vào hồ
Nhĩ Hải hàng năm. Nhóm nghiên cứu đã thảo một kế hoạch với chi phí thấp để làm
sạch nguồn nước của sông La Thập Giang. Ở khu vực thượng nguồn, kế hoạch tập
trung vào các biện pháp ‘bảo tồn sinh thái’; ở các vùng trung lưu chủ yếu là đất
nông nghiệp và làng mạc, kế hoạch tập trung vào ‘phục hồi sinh thái và tái cấu
trúc kinh tế’, hướng dẫn nông dân xung quanh trồng các loại cây trồng thương mại
ít ô nhiễm, năng suất cao và xây dựng các mương lọc dọc theo bờ sông để làm sạch
sơ bộ nước ruộng và nước thải của làng; ở các khu vực hạ lưu đông dân, kế hoạch
tập trung vào ‘kiểm soát ô nhiễm và quản lý kỹ thuật sinh thái‘, xây dựng 1.500
mẫu Anh một vùng đất ngập (wetlands) nhân tạo trước khi sông chảy vào hồ. Các
vùng đất ngập này được phủ dầy với vật liệu lọc phốt pho, với các bức tường thực
vật thủy sinh theo để làm lắng các chất ô nhiễm và làm sạch nước trước khi chảy
vào hồ.
Đến
tháng 6 năm 2011, sau 5 năm thực hiện, chất lượng nước tại cửa sông La Thập
Giang chảy vào hồ đã được cải thiện đáng kể, chất lượng nước phù hợp để con người
sử dụng, và cây hải thái hoa / Ottelia acuminata được trồng nhân tạo đã sống lại
sau nhiều năm vắng bóng. Nhờ bước thành công này, trong giai đoạn Kế hoạch 5
năm tiếp theo (2011–2015), mô hình hiệu quả từ sông La Thập Giang đã được mở rộng
sang các con sông khác chảy vào hồ Nhĩ Hải.
_
Từ các diện nguồn (area source): Vùng canh tác, chăn nuôi, khu gia cư. Với cải cách kinh tế,
cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hóa chất đã dẫn
đến gia tăng sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp ở Châu
Đại Lý. Tuy tuy có hiệu quả ngắn hạn gia tăng năng xuất, nhưng đồng thời với hậu
quả lâu dài là gây ô nhiễm nghiêm trọng chất lượng nước trong lưu vực. Nghiên cứu
của Tiến sĩ Chen Xiaohua và các đồng sự từ Viện Khoa học Môi trường Thượng Hải
phát hiện ra rằng từ năm 1988 đến năm 2013, khi sự phát triển kinh tế xã hội
ở lưu vực Nhĩ Hải được cải thiện, nhưng chất lượng nước trong khu vực cũng đã xấu
đi theo cùng tỷ lệ.
1/
Vùng trồng tỏi một củ: từ những năm 1990, nông dân ở vùng Đại Lý đã bắt đầu trồng
loại tỏi một củ hay còn được gọi là tỏi đơn với hương vị thơm ngon rất được ưa
chuộng. Đến năm 2010, diện tích trồng tỏi đơn ở Đại Lý đã lên tới 13.300 ha, với
thu nhập cao hơn nhiều so với việc trồng ngũ cốc. Tuy nhiên, việc trồng tỏi đòi
hỏi một lượng lớn nước và phân bón, chỉ một nửa trong số phân bón đó được tỏi
hấp thụ và một nửa còn lại vẫn nằm trong đất. Vào mùa mưa, dòng chảy phân
bón và thuốc trừ sâu đổ và hồ Nhĩ Hải đã dẫn đến tình trạng dư thừa nghiêm trọng
nitrogen và phốt pho trong hồ, dẫn đến tình trạng phú dưỡng và phát triển tảo
xanh.
GIẢI
PHÁP: Các chuyên gia từ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc đã khuyến
nghị cấm trồng tỏi trong phạm vi 200 mét tính từ bờ hồ Nhĩ Hải, hạn chế trồng
loại cây này ở những khu vực cách bờ hồ từ 200 đến 2000 mét và khuyến khích cư
dân trồng các loại cây khác sử dụng ít nước và phân bón hơn trên khắp lưu vực.
Để kêu gọi nông dân ngừng trồng tỏi, không phải là điều dễ dàng nhưng rồi với
quyết tâm và kiên nhẫn thuyết phục của chính quyền, người dân sống gần hồ Nhĩ Hải
cũng đã ngừng trồng tỏi và được giúp đỡ chuyển sang trồng các loại cây trái như
lựu, đào và quất và tham gia vào hoạt động du lịch.
2/
Vùng chăn nuôi gia súc: vốn là hoạt động có truyền thống lâu đời ở Châu Đại Lý do
khí hậu và thổ ngơi thuận lợi của khu vực. Gia xúc được chăn thả gần hồ, khiến
phân bò trôi vào hồ và làm trầm trọng thêm tình trạng phú dưỡng. Chỉ riêng năm
2007, ước tính có 140.000 con bò sữa được nuôi ở lưu vực Nhĩ Hải, với tải trọng
môi trường (environmental load) của mỗi con bò tương đương với 23 người. Nói
cách khác, ngành chăn nuôi bò sữa vào thời điểm đó đã đóng góp một tải trọng
môi trường tương đương với hơn ba triệu người sống trong lưu vực, trên thực
tế đã nhân đôi dấu chân môi trường của dân số toàn bộ châu Đại Lý.
GIẢI PHÁP:
Để giải
quyết tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi bò sữa, sau nhiều năm điều tra và nghiên
cứu thực địa, các chuyên gia từ Đại học Khoa học và Công nghệ Côn Minh đã đề xuất
hai giải pháp chính: thứ nhất, hạn chế khoảng cách đàn bò sữa và ngăn không cho
chúng gặm cỏ quá gần hồ và thứ hai, thành lập các nhà máy phân bón tập trung để
chế biến phân bò. Hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, các chuyên
gia đã thiết kế một nhà máy thu gom phân bò để sản xuất phân bón hữu cơ. Giúp
doanh nhân địa phương đã xây dựng bốn nhà máy như vậy và thiết lập 25 trạm thu
gom phân bò tại các ngôi làng xung quanh lưu vực Nhĩ Hải. Các nhà máy này đã
thu gom hơn 1.300 tấn phân bò mỗi ngày và hơn 400.000 tấn phân bò, phân lợn và
phân gia cầm mỗi năm. Châu Đại Lý được trợ cấp hàng năm hơn 10 triệu nhân dân tệ
cho các nhà máy phân bón để mua phân bò từ nông dân. Loại phân hữu cơ này có hiệu
quả là thân thiện với môi trường; chúng không chỉ được sử dụng để kiểm soát nồng
độ phốt pho và nitrogen trong hơn hai triệu mẫu đất nông nghiệp ở Châu Đại Lý
mà còn được bán trên toàn quốc và cả Đông Nam Á.
3/
Di cư kỹ thuật số và Du lịch: Châu Đại Lý đã có một thời kỳ thu hút giới
trẻ từ các thành phố lớn tìm kiếm nơi thoát khỏi lối sống đô thị đầy khói bụi
và tắc nghẽn giao thông. Nhiều người đã bán nhà ở thành phố và chuyển đến Đại
Lý cùng gia đình để xây dựng nhà trọ sống cùng với cư dân địa phương dọc theo Hồ
Nhĩ Hải. Trong lối sống “như cảnh thiên đường”, một số người trẻ trong
ngành kỹ thuật cao – do họ có thể làm việc từ xa và được gọi là “người di cư
kỹ thuật số / digital migrants”. Từ năm 2014 đến năm 2016, số lượng “người
di cư mới” đến Nhĩ Hải từ các vùng khác của Trung Quốc đã tăng từ 30.000 lên gần
100.000, chiếm gần 10% cư dân quanh hồ. Cũng vào năm 2014, Châu Đại Lý đã
đón 808.300 khách du lịch nước ngoài và 25,67 triệu khách du lịch trong nước.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch tuy có làm tăng thu nhập của người
dân địa phương nhưng các biện pháp bảo vệ môi trường lại tụt hậu. Các nhà trọ,
chuỗi nhà hàng đã tạo ra một lượng nước thải sinh hoạt rất lớn. Lượng chất thải
dân dụng và liên quan đến du lịch đổ vào hồ đã lên tới hơn 600 tấn mỗi ngày.
GIẢI
PHÁP: Chính quyền Châu Đại Lý đã yêu cầu 2.498 nhà hàng, nhà trọ và nhà dân xả
nước thải sinh hoạt vào hồ Nhĩ Hải dừng hoạt động. Ban đầu, họ đã phản đối
kịch liệt. Nhóm dự án đặc biệt của Nhĩ Hải, đã phải đích thân tiếo xúc với từng
chủ nhà trọ và cùng đi với các phóng viên báo chí và truyền hình. Các giới chức
đã phải đến các nhà hàng, và nhà dân, nhiều lần với giải thích cho họ về các mối
đe dọa ô nhiễm mà hồ Nhĩ Hải đang phải đối mặt. Quá trình thuyết phục người dân
địa phương và các chủ doanh nghiệp rất khó khăn, nhưng rồi cuối cùng, cũng đã đạt
được sự đồng thuận với quan điểm rằng chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế ngắn
hạn cũng giống như ‘giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng’, phá hủy tương lai của
toàn bộ cộng đồng. Cuối cùng, tất cả các chủ nhà trọ và nhà dân ở quanh hồ
Nhĩ Hải đã chấp nhận quyết định của chính phủ, tạm dừng hoạt động trong 18
tháng để tiến hành các biện pháp di dời và cải tạo. Năm 2018, đã 1.806 gia đình
(thuộc 23 ngôi làng) trong phạm vi 15 mét tính từ hồ đã bị phá dỡ với sự đồng ý
của chủ sở hữu, các địa điểm đã được khôi phục thành không gian công cộng và
7.270 người đã chuyển đến các khu dân cư mới xây dựng và được chính phủ đền bù.
Để ghi nhận những hy sinh của 1.806 hộ gia đình vì sự bảo vệ môi trường của Nhĩ
Hải, khu dân cư mới được đặt tên là ‘Thị trấn 1806’. Và cuối cùng, các
nhà hàng, nhà trọ và các ngôi làng nằm ngoài ranh giới 15 mét cũng đã hoàn
thành việc xây dựng hệ thống thoát nước thải.
Ngoài
ra các ngành công nghiệp không cần phát triển ở gần hồ Nhĩ Hải cũng đã được
chuyển ra ngoài. Những thay đổi ở Thành phố Đại Lý phù hợp với xu hướng rộng
hơn trong cả nước nhằm giảm bớt áp lực cho các khu vực đô thị trung tâm.
•
Tiếp theo là khoản đầu tư trị giá hàng tỷ nhân dân tệ để xây ba nhà máy xử lý
nước thải, 4.660 km đường ống nước thải và 99.000 hệ thống tự hoại được nâng cấp
đã được lắp đặt trên toàn lưu vực.
•
Sinh viên từ các Đại học Nông nghiệp Trung Quốc đã thành lập “sân khoa học và
công nghệ” tại các ngôi làng để giới thiệu các phương pháp canh tác thân thiện
với môi trường và giám sát ô nhiễm không phải nguồn điểm—giảm lượng nước chảy
tràn khoảng 10%.
•
Người dân địa phương và “nhóm bảo vệ hồ” cùng tham gia vào các hoạt động dọn dẹp,
duy trì thảm thực vật ven bờ và trồng lại loài hải thái hoa (Ottelia acuminata)
rất nhạy cảm— như một chỉ số sinh học quan trọng về chất lượng nước, với kết quả
tích cực và lâu dài.
Phục
hồi toàn hệ sinh thái của hồ Nhĩ Hải ở Đại Lý, Vân Nam là những câu chuyện truyền
cảm hứng trên toàn quốc:
_
Chính quyền giải toả và cải tạo cơ sở hạ tầng thành công
•
Đến năm 2019–2020, chất lượng nước đã liên tục đạt tiêu chuẩn Loại II–III—tươi
mát và phù hợp môi trường cho sinh vật sống dưới nước.
•
Quần thể chim muông quay trở lại mạnh mẽ và các loài thực vật nhạy cảm như hải
thái hoa (Ottelia acuminata) nở hoa trở lại, báo hiệu sự phục hồi sinh thái.
•
Du lịch phục hồi: Nhĩ Hải lấy lại biệt danh là “hồ mẹ” của khu vực, làn nước
trong vắt của nó một lần nữa thu hút các cặp đôi, người yêu thiên nhiên và các
loài chim di cư.
Kết
quả tốt đẹp, hồ Nhĩ Hải đã chuyển đổi từ tình trạng dày đặc ô nhiễm với rong tảo
xanh độc để trở lại một môi trường sôi động—tràn đầy sức sống, vẻ đẹp nên thơ
và cân bằng sinh thái.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/07/1-18.jpg
Hình
4: Cảnh
quan ngày nay của hồ Nhĩ Hải, Vân Nam (2025), cho thấy cả một hệ sinh thái đang
hồi sinh: Độ trong của nước hồ đã được cải thiện đáng kể, phản ánh trạng thái
khỏe mạnh của hồ và đây chính là kết quả kỳ diệu và mẫu mực của nhiều năm nỗ lực
làm sống lại một con hồ đang chết dần.
Những
thách thức về môi trường mà Châu Đại Lý phải đối mặt và những nỗ lực phục hồi của
chính quyền từ Trung ương tới địa phương đã cung cấp một số bài học vượt ra
ngoài khu vực. Ví dụ, trong quá trình phục hồi hồ Nhĩ Hải, Tập đoàn
Môi trường Nước Trung Quốc đã phát triển ‘hệ thống nhà máy công nghệ sinh thái
khôi phục nước xây ngầm dưới mặt đất (the distributed subsurface water
reclamation ecosystem technology system), là phương pháp quản lý dành cho
các hồ lớn có diện tích trên 200 km2 chưa từng được sử dụng ở bất kỳ nơi nào
khác trên thế giới. Theo Tiến sĩ Feng Hou, chủ tịch của Tập đoàn Môi trường Nước
Trung Quốc, thì đây là một phương pháp tiếp cận mới mang tính đột phá, làm thay
đổi mô hình quản lý nước đã tồn tại hàng thế kỷ trên toàn thế giới.
Một
huy chương bạc từ IWA cho hồ Nhĩ Hải
Vào
tháng 9 năm 2022, “Dự án Đổi mới Kiểm soát Ô nhiễm Lưu vực hồ Nhĩ Hải và Phát
triển Khu vực” đã giành huy chương bạc ở hạng mục “Thực hiện và Triển khai Dự
án Xuất sắc” tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới của Hiệp hội Nước Quốc tế
(IWA/ International Water Association) tại Copenhagen, Đan Mạch. Hội đồng
chuyên gia của IWA đã đánh giá dự án do Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, Đại
học Giao thông Thượng Hải và chính quyền Huyện Đại Lý cùng đệ trình: về các
khía cạnh đổi mới, những thành tựu, thiết kế dự án và tiềm năng tác động rộng
rãi hơn. Chủ tịch IWA Tom Mollenkopf tuyên bố rằng “Việc quản
lý toàn diện Hồ Nhĩ Hải, kết hợp cải thiện môi trường sinh thái nước với mô
hình phát triển kinh tế xã hội của lưu vực, cung cấp những hiểu biết quan trọng
cho sự phát triển của lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.
Những kỳ
quan môi sinh của Trung Quốc
Sau
thành công với hồ Nhĩ Hải, với chiến lược đa khía cạnh bao gồm: (1) kiểm soát
nguồn nước thải, (2) xây dựng hệ thống xử lý nước thải, (3) phục hồi vùng đệm
sinh thái và (3) tái định cư dân cư. Cho đến nay, ít nhất đã có 8
hồ nước ngọt lớn của Trung Quốc được phục hồi – với chất lượng nước từ
xấu – cấp IV và rất xấu – cấp V, nay đạt được cấp I tới III – từ rất tốt tới tốt.
1.
Hồ Nhĩ Hải / Erhai /
洱海, Vân Nam: Là hồ đầu tiên của
Trung Quốc được phục hồi toàn hệ sinh thái với chiến lược đa khía cạnh, và là mẫu
mực cho tất cả cả các hồ nước ngọt khá sau này của Trung Quốc.
2.
Hồ Điền Trì / Dianchi – 滇池,
Vân Nam: Từng là một hồ được coi là ô nhiễm nhất Trung Quốc, phẩm chất nước dưới
cấp V, cá chết hàng loạt do nước thải đô thị và chất thải từ các khu kỹ nghệ
quanh hồ. Với xây dựng 29 nhà máy xử lý nước thải, dẫn nước và xây dựng vùng đất
ngập nhân tạo, lấy nước từ sông Dương Tử hoàn nguyên toàn bộ dung tích hồ, cùng
với các sáng kiến tăng
cường đa dạng sinh học. Chất lượng nước của hồ đã được cải
thiện, với phục hồi thảm thực vật, với sự trở lại của các loài cá và chim, và
ngành du lịch sinh thái đang hồi sinh.
3.
Bành Hồ & Động Đình Hồ / Poyang & Dongting Lake –
鄱阳湖 &– 洞庭湖, Giang Tây: Hồ
Poyang và hồ Dongting là hai hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc, cả hai đều có
liên kết với sông Dương Tử. Hồ Poyang, hồ lớn hơn, nằm ở tỉnh Giang Tây và hồ
Dongting, nằm ở tỉnh Hồ Nam, cùng đóng vai trò là điều hoà lũ và nối kết với
sông Dương Tử qua nhiều kênh. Cả hai hồ đều đóng vai trò quan trọng trong hệ
sinh thái của sông Dương Tử và trong việc điều hoà lũ lụt trong khu vực. Thực
thi các chiến dịch cải thiện chất lượng nước, tăng giám sát, kiểm soát nguồn thải.
4.
Thái Hồ / Taihu Lake – 太湖, Giang Tô: Một trong
ba hồ lớn nhất ở Trung Quốc, đã bị ô nhiễm trầm trọng, tảo xanh năm 2007, nước
dưới cấp V là mức thấp nhất. Với giải pháp: đóng cửa hàng ngàn
nhà máy gây ô nhiễm, xây hệ thống đường ống dẫn nước, gom tảo, kiểm soát nguồn
nước thải, khôi phục vùng đệm nước ngập để giảm ô nhiễm. Đến năm 2024, phẩm chất
nước đạt cấp III đủ tốt cho các sinh vật sống và phát triển.
5.
Phúc Hiên Hồ / Fuxian Lake – 抚仙湖, Vân Nam: Hồ bị ô
nhiễm nặng từ phân bón thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và lượng rác phế thải từ
khu dân cư và sự bùng phát du lịch. Với giải pháp: qua nạo
vét bùn, lập khu sinh vật lọc và chuyển hướng dòng nước, hồ đã trả về chất lượng
“cấp I” năm 2004 .
6.
Lộc Hựu Hồ / Lugu Lake – 泸沽湖, Tứ Xuyên: Bị ô nhiễm
do du lịch bùng phát, các công trình xây dựng xâm lấn hồ, lượng nước thải không
được xử lý. Giải pháp: từ 1992, xây hệ thống ống thu hồi nước
thải, hạn chế sử dụng phân bón hoá chất, thuốc trừ sâu, cấm thuyền máy; các biện
pháp đa khía cạnh này từng được đánh giá mô hình này là “tiêu chuẩn”.
7.
Ô Luân Cổ Hồ / Ulungur Lake – 乌伦古湖, Tân Cương: Ở Tân
Cương, từng bị ảnh hưởng từ nước sinh hoạt và kỹ nghệ thuỷ sản. Giải pháp: Từ
2005 đến 2018, xây dựng công viên đất ngập nước, xử lý nước thải, trồng lại
khôi phục hệ sinh thái – hiện là công viên đất ngập quốc gia.
8. Bạch
Hồ / Urumqi’s Baiyangdian (Baiho) Lake – 白杨河水库, Tân Cương: Được phục
hồi thành đầm sinh thái gần Urumqi giữa 2016–2019.
Cho tới
nay Trung Quốc đã giải quyết được ô nhiễm thành công, với quy mô lớn
và độ sâu ô nhiễm cao, với áp dụng mô hình Khoa học Môi trường của hồ Nhĩ Hải.
Chính sách đồng bộ – từ ngăn xả thải, xử lý nước thải đến bảo tồn vùng ven hồ –
được ứng dụng nhân rộng ở nhiều khu vực khác trên cả nước.
Bí
quyết và giải pháp:
Việc
Trung Quốc phục hồi thành công các hồ nước ngọt từng bị ô nhiễm nghiêm trọng là
một phần trong “quốc sách” cải thiện môi trường và phát triển bền vững trong những
năm gần đây. Một số bí quyết và giải pháp chính giúp Trung Quốc
thành công trong việc “làm sống lại” các hồ nước ngọt bao gồm:
1.
Kiểm soát nghiêm ngặt nguồn ô nhiễm: Đóng cửa hoặc di dời các nhà máy
gây ô nhiễm: Chính phủ yêu cầu các khu công nghiệp ven hồ phải di dời,
chuyển đổi công nghệ hoặc đóng cửa nếu không đạt tiêu chuẩn môi trường. Quản
lý nước thải đô thị: Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, yêu
cầu tất cả nước thải phải được xử lý trước khi xả ra hồ.
2.
Khôi phục hệ sinh thái tự nhiên: Tái tạo vùng đệm sinh thái ven hồ: Trồng cây thủy
sinh (sen, súng, lau sậy), tạo vùng đệm lọc nước tự nhiên. Thả các loài cá lọc
nước: Như cá trắm cỏ, cá mè trắng… để kiểm soát tảo và chất hữu cơ. Hạn chế
việc nuôi trồng thủy sản theo hình thức công nghiệp, chuyển sang nuôi sinh thái
thân thiện hơn.
3.
Ứng dụng công nghệ mới: Công nghệ sinh học: Dùng vi sinh vật
phân hủy chất hữu cơ trong nước. Hệ thống giám sát thông minh: Lắp cảm biến
và hệ thống AI giám sát chất lượng nước theo thời gian thực. Kỹ thuật “nạo
vét sinh thái” (ecological dredging) là nạo vét bùn đáy ô nhiễm mà không
gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
4.
Huy động nguồn lực và quyết tâm chính trị: Đầu tư mạnh mẽ của
chính phủ trung ương và địa phương, với hàng tỷ USD cho các dự án phục hồi hồ.
Áp dụng chính sách nghiêm minh: Cán bộ địa phương chịu trách nhiệm nếu chất
lượng nước không đạt. Thực hiện theo kế hoạch dài hạn (thường là từ 5 – 10
năm hoặc lâu hơn), kết hợp giữa môi trường – phát triển đô thị – du lịch.
Kết luận
với bài học rút ra từ hồ Nhĩ Hải:
Phục
hồi các hồ nước ngọt — không chỉ là ứng dụng triệt để những kiến thức về Khoa
Học Môi Trường, và cũng để thấy rằng không thể làm trong một thời
gian ngắn – theo kiểu tư duy nhiệm kỳ – mà cần sự kiên trì có thể
từ hơn 2,3 kế hoạch ngũ niên, với đầu tư đồng bộ và sự hợp tác giữa nhà nước –
doanh nghiệp – người dân. Với một chiến lược rõ ràng, một
nhà nước có tinh thần trách nhiệm với lòng yêu nước yêu
dân và có quyết tâm chính trị cao, hoàn toàn có thể cứu sống và
phục hồi các hồ nước ngọt khỏi tình trạng “chết dần”.
NGÔ
THẾ VINH
Erhai
& Dianchi Lakes Visited September 2002
GWRS
Visited 2017 & Revisited June 13, 2025
Long
Beach July 4, 2025
__________
Tham
Khảo:
1/
Tường Trình Từ Vân Nam_ Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Ngô Thế Vinh 09.2002 Nxb Văn Nghệ
2007: https://online.fliphtml5.com/msgrj/wcst/#p=1
2/ Reviving
Erhai Lake: A Socialist Approach to Balancing Human and Ecological Development.
Xiong Jie & Tings Chak 2024: https://thetricontinental.org/wenhua-zongheng-2024-2-reviving-erhai-lake/
3/ Yunnan’s
largest freshwater lake (Dianchi Lake) comes back to life. Zheng
Jinran, Peng Chao & Dang He. China Daily 24.08.2024: https://global.chinadaily.com.cn/a/202408/31/WS66d2f89ea3108f29c1fc96a6.html
No comments:
Post a Comment