BẢN CHẤT THẬT SỰ
TRONG MẶC CẢM BỊ SỈ NHỤC CỦA NƯỚC NGA
Dương Thắng dịch
Vài
lời giới thiệu của người dịch: Từ khi Putin hạ lệnh cho quân đội Nga
tiến vào xâm lược Ukraine, hầu hết dư luận trên thế giới phản ứng dữ dội và tập
trung phê phán kịch liệt tổng thống Nga Vladimir Putin. Tuy nhiên ở phía đối
ngược lại, dù có chút lạc lõng, nhưng vẫn có những ý kiến bênh vực cho Putin, họ
nói rằng nước Nga, với tư cách cường quốc kế thừa Liên bang Xô Viết, đã bị
Phương Tây làm nhục trong một thời gian dài, và giờ đây là thời khắc để “Gấu
Nga” thức dậy và đáp trả lại sự sỉ nhục đó.
Những
lập luận như vậy có thể đứng vững không? Dưới đây là một bài báo công phu,
khách quan và đầy ắp các dữ liệu lịch sử của Jean-Francois Bouthors, nhà báo và
nhà văn Pháp, công bố đầu tháng 3/2022 trên tạp chí
ESPRIT (một tờ báo có khuynh hướng thiên tả ở Pháp). Tác giả đã chứng minh một
cách không thể rõ ràng hơn rằng tâm trạng mặc cảm bị sỉ nhục của nước Nga, của
người Nga là có thật. Nhưng giống như việc Liên bang Xô Viết sụp đổ hoàn toàn
không có sự can dự gì của Phương Tây, trên thực tế người Phương Tây, chưa bao
giờ cố tình hay vô ý muốn xỉ nhục hay chọc giận Nga. Tất cả sự nhục nhã ấy có
nguyên nhân từ chính những quyết định chính trị của các đời lãnh đạo Nga và những
biến động đi kèm với nó.
(Nguồn: https://esprit.presse.fr/.../la-vraie-nature-de-l... )
HÌNH
:
https://www.facebook.com/photo/?fbid=10162248138326137&set=a.10150966572936137
Sai
lầm của phương Tây không phải là đã sỉ nhục Nga, mà là đã không hiểu được mối
nguy hiểm chứa đựng trong cái cảm giác cảm thấy bị sỉ nhục của nước Nga kể từ
khi Vladimir Putin lên cầm quyền.
…
Kể
từ khi quân đội Nga xâm lược Ukraine, tất cả các ý kiến đều đồng tình lên án
Vladimir Putin. Nhưng ngược với trào lưu đó vẫn còn một số ý kiến đồng tình với
cuộc xâm lược này. Những ý kiến này dựa trên lập luận cho rằng Phương Tây đã sỉ
nhục nước Nga quá lâu, Nato liên tục khiêu khích chống lại nước Nga. Những khúc
nhạc dạng này không phải chỉ bây giờ mới vang lên, nó đã xuất hiện từ khi
Phương Tây tiến hành trừng phạt Nga sau khi sát nhập Crimea và khuyến khích những
cuộc nổi dậy và ly khai ở hai vùng Donetsk và Luhansk – Và giờ đây tất cả đều
thấy rằng những biện pháp trừng phạt đó là quá nhẹ, không tạo ra được ảnh hưởng
gì ngoài việc làm sâu sắc thêm cái cảm giác bị sỉ nhục của nước Nga.
Quả
thật trong nhiều thập niên qua, nước Nga đã phải trải qua những chấn thương
nghiêm trọng về địa chính trị và địa lý quốc gia. Trong khi họ được thuyết phục
về sự bình đẳng về địa chính trị với Mỹ, họ phải chứng kiến sự tan rã và chia
lìa đến từ các quốc gia “anh em” ở Trung Âu. Thách thức đau đớn đầu tiên xuất
hiện cùng với sự ra đời của Solidarność, Công đoàn Đoàn kết, một công đoàn tự
do đầu tiên của cả khối cộng sản. Bằng cách ban hành tình trạng khẩn cấp vào
tháng 12 năm 1981, Tướng Jaruzelski muốn áp chế cuộc nổi dậy hòa bình của người
dân Ba Lan nhưng biện pháp này đã nhanh chóng trở nên vô hiệu. Moscow cũng đã
không thể dùng vũ lực bóp chết cái khát vọng của người dân Ba Lan muốn tự quyết
định vận mệnh của mình – giống như họ đã từng làm ở Budapest năm 1956 và ở
Praha năm 1968.
CÚ SỐC
VỀ SỰ TAN RÃ CỦA ĐẾ CHẾ
Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến dẫn đến quyết định khởi xướng cải cách (perestroika)
của Mikhail Gorbachev, trong đó thảm họa Chernobyl là một trong số đó. Sự cần
thiết cải cách thực ra đã được các nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Liên Xô nhận
thức ra từ năm 1983 khi mà Yuri Andropov yêu cầu nhà xã hội học Tatiana
Zaslavskaïa tiến hành khảo sát và đệ trình lên ông các báo cáo. Perestroika đã
nhanh chóng tạo ra những hiệu ứng domino. Trong khi ở Nga, báo chí “độc lập”
liên tiếp công bố những hồ sơ “nhậy cảm”, thì trên đường phố hay ngay cả trên
truyền hình ngôn từ trở nên cởi mở bởi được khuyến khích bởi chính sách
“glasnost” (cởi mở/minh bạch). Các chế độ Trung Âu bắt đầu nghiêng ngả.
Một
bàn tròn được tổ chức ở Ba Lan để chính phủ đối thoại với phe đối lập bất đồng
chính kiến, việc này đã dẫn các cuộc bầu cử, mà chế độ bán tự do đã không ngăn
được làn sóng thủy triều các phiếu bầu dành cho các ứng cử viên của Công đoàn
Đoàn kết. Một chính phủ mới Solidarność hoàn toàn thống trị đã xuất hiện.Tiếp
sau đó, Hungary đã mở ra một lỗ hổng trong Bức màn sắt, làm lung lay chế độ
Đông Đức cứng rắn của Erich Honecker, khi mà người dân tìm cách ào ạt bỏ nước
ra đi… rồi Bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11 năm 1989. Tiệp Khắc, sau đó là
Romania, và cứ như thế….
Mikhail
Gorbachev và một phần của KGB không phải là không có phản ứng gì trong cuộc đua
này: đối với nhân vật số một của Liên Xô, vấn đề là phải làm suy yếu hàng ngũ
các kẻ đối địch với những cải cách của ông. Nhưng sự yếu đuối thể hiện rất rõ
nét ở ông đã khơi dậy những ham muốn khác và những khao khát khác. Ở các nước Cộng
hòa Xô viết vùng Baltic, ở Gruzia, ở Ukraine, ở Caucasus, ở Moldova… bắt đầu
xuất hiện những tiếng nói đòi hỏi quyền tự trị và thậm chí độc lập. Những quá
khứ đau thương lại hiện về, đi kèm với nó là niềm khao khát tự do muốn được
thoát khỏi sự giám sát của Moscow.
Ở
chính nước Nga, thông qua hình tượng của Boris Yeltsin, người ta nhận ra một
khát vọng không muốn mình đơn giản chỉ là người Liên Xô mà là muốn khám phá lại
một bản sắc lâu đời hơn: Bản sắc Nga. Kết quả là thỏa thuận Belovej (Hiệp ước
Minsk), được ký kết vào ngày 8 tháng 12 năm 1991 giữa các tổng thống của các nước
cộng hòa Nga, Ukraine và Belarus: Boris Yeltsin, Leonid Kravchuk và Stanislaw
Shuchkievich. Ba người này tuyên bố giải thể Liên Xô và phế truất Mikhail
Gorbachev một cách nhanh chóng.
Trong
vòng mười một năm, đế chế Xô Viết đã tan rã. Nó đã tự chìm xuống. Sức mạnh của
"đất nước Xô Viết vĩ đại", mà những lời tuyên truyền về sự vinh quang
của nó chưa bao giờ ngừng ca ngợi cho đến cuối những năm 1980, đã giảm xuống tới
mức bằng không. Không có phát súng nào được bắn ra, ngoại trừ những phát súng
mà lính Liên Xô bắn ra để chống lại những công dân Liên Xô ở các nước Cộng hòa
bày tỏ khát vọng độc lập ... Người Phương Tây hầu như không liên quan gì đến những
biến cố long trời lở đất này và nói thật là chính họ cũng đã không thể tin vào mắt
mình. Bản thân họ cũng bị choáng váng bởi những hậu quả trước mắt, chẳng hạn
như François Mitterrand về việc thống nhất nước Đức.
ĐỨC
1918 - LIÊN XÔ 1991: NHỮNG MẤT MÁT TƯƠNG ĐƯƠNG
Đối
với người Nga, cú sốc là vô cùng lớn. Điều đã xảy ra với họ, rất giống với những
gì nước Đức đã trải qua sau năm 1918: Liên Xô hùng mạnh đã bị đánh bại, bị đánh
bại khi mà không có ai xâm lược họ. Đó là một điều không ai có thể tưởng tượng
được. Kết quả của sự sụp đổ này, dẫn đến một sự phụ thuộc chưa từng có vào nửa
bên kia của thế giới, cái nửa thế giới mà kể từ đầu cuộc cách mạng Bolshevik
luôn được coi là kẻ thù, sự phụ thuộc này là điều không thể chịu đựng được. Quả
thực, đó là một sự sỉ nhục vô cùng lớn lao mà sự cẩu thả và ngu
xuẩn của những người chủ của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã gây ra
cho họ.
Sau
Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Hungary cũng đã nếm trải nỗi nhục tương tự như
thế – đất
nước này đã mất hơn 30% dân số, những người sống trên các lãnh thổ, được sát nhập
vào các nước láng giềng theo Hiệp ước Trianon vào năm 1920. Ngay cả ngày nay,
chủ nghĩa dân tộc của Viktor Orbán vẫn len lỏi trong các nhóm dân tộc thiểu số
Hungary đang sinh sống ở Rumania, Slovakia, Serbia, Ukraine… Trên các vùng đất
của Liên Xô cũ, người Nga có mặt ở khắp mọi nơi, đặc biệt là ở Ukraine, ở các
nước Baltic, ở Belarus, ở Kazakhstan… Đột nhiên, các biên giới quốc gia xuất hiện,
đi kèm là những tác động không thể tránh khỏi của sự chia cắt, ít nhất cũng là
mang tính biểu tượng.
Nếu
như trong thời Liên Xô cũ, rất nhiều thế hệ được dạy dỗ rằng trên thế giới chỉ
có hai loại người, đó là "họ" và "chúng ta". Và "họ"
là khái niệm luôn ám chỉ về một thế giới thù địch. Thế mà giờ đây nhiều người
Nga "chúng ta" đột nhiên không còn cảm thấy đang ở nhà, mà là đang ở
nhà "họ" (người Ukraine, người Balts, người Gruzia, v.v.). Không hề
có một bước chuẩn bị nào cho người Nga để làm quen với điều này, họ ngạc nhiên
và cảm khó chịu trước biểu hiện khác nhau của sự phát triển bùng phát của tình
cảm dân tộc ở khắp nơi và sự khao khát giành lại độc lập. Đặc biệt là khi
Phương Tây tỏ ra rất quan tâm đến tương lai của các quốc gia mới, cũng như của
các nước Trung Âu. Đối với các nước Trung Âu và các nước Baltic (bị sáp nhập
theo kết quả của Hiệp ước Đức - Xô) người ta đã nhanh chóng chấp nhận rằng họ
có thể gia nhập Liên minh Châu Âu và nhận được sự bảo vệ của NATO. Trong tình
thế đó Nga chỉ có thể cảm thấy không được yêu thương, bị ghẻ lạnh và bị coi thường.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, các nước Phương Tây đã không đủ nhậy cảm để cảm nhận được
cũng như có biện pháp giải quyết vết thương lòng cực kỳ sâu sắc này. Nỗi cay đắng
này lại được khuyếch đại bởi sự tiếp xúc giữa mẫu người Liên Xô cũ với mô hình
người tiêu dùng Phương Tây hiện đại.
Một
trong những phim truyền hình đầu tiên mà người Nga xem sau khi Liên bang Xô Viết
sụp đổ là bộ phim có tựa đề “Người giàu cũng khóc” – sản xuất năm 1979 ở Mexico
– quảng cáo xuất hiện trên màn hình truyền hình rõ ràng là chỉ nhắm vào nhóm
thiểu số nhỏ, những người có đủ năng lực tài chính để thưởng thức những thứ xa
xỉ, trong khi đất nước rất nghèo. Sự bất bình đẳng bùng nổ giữa những người được
chuẩn bị tốt để bước vào nền kinh tế thị trường – thường là những người có liên
hệ với quyền lực và mạng lưới các cơ quan an ninh – và những người hiện đang
chìm đắm trong sự khốn khổ của chính mình. Rất nhanh chóng, rõ ràng là các băng
đảng "mafia" đã nhanh tay giành lấy phần của họ trong miếng bánh một
cách khá dễ dàng hơn vì từ lâu, một mối quan hệ chặt chẽ đã được thiết lập – giữa
các nhóm tội phạm và các cơ quan an ninh.
Quân
đội, bị suy sụp bởi nạn tham nhũng nên các binh sĩ thường xuyên phải tự xoay sở
để làm sao tồn tại được, đa phần cũng đang ở trong tình trạng suy sụp vì lòng tự
tôn dân tộc. Thất bại ở Afghanistan (1979-1989) đã chứng minh điều này. Cuộc
chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996), khi mà Yeltsin ngu ngốc nghĩ rằng mình
có thể mang lại trật tự cho Caucasus, đã bị thất bại một cách đáng buồn. Và lần
này, sự sỉ nhục vô cùng lớn: "Nước Nga vĩ đại" – bị đánh bại bởi một
số ít người Chechnya – những người còn theo đạo Hồi. Cúi đầu trước “lũ lừa đen”
(theo thuật ngữ khinh miệt của người Nga đối với người Trung Á) – là điều không
tưởng tượng nổi!
Do
đó, mặc cảm bị sỉ nhục đối với nước Nga là có thật, nhưng đó chỉ là hậu quả của
sự phi lý trong chính sách của Liên Xô, chứ không phải là sự khinh thường và thậm
chí không phải là một hành động có chủ ý của Phương Tây. Quan điểm cho rằng Người
Mỹ và Châu Âu cố tình làm nhục nước Nga là hoàn toàn không xác đáng. Nước Nga
mà đại diện là Boris Yeltsin nhanh chóng được mời tham dự G7, sau đó là G8 của
Tokyo vào năm 1996, theo đề xuất của Jacques Chirac: Nga đã không hề bị bỏ lại
bên lề trong hành trình đi đến tương lai của thế giới. Nếu quan tâm, bạn đọc có
thể đọc lại biên bản các cuộc họp thượng đỉnh này để hiểu được rằng các nguyên
thủ quốc gia và chính phủ của các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã phải hành động
thận trọng đến mức nào để không làm bẽ mặt Moscow, đồng thời cũng phải cố gắng
tránh để những hỗ trợ của họ không bị nuốt chửng trong hố sâu không đáy của
tham nhũng…
Đối
với sự mở rộng của NATO, cần phải nhắc lại rằng Liên minh Đại Tây Dương là một
liên minh phòng thủ và chưa bao giờ có bất kỳ học thuyết quân sự nào nhắm tới
việc chủ động xung đột quân sự với Moscow hay xâm nhập vào lãnh thổ Nga. Hơn nữa,
lực lượng đóng quân tại các quốc gia gần hoặc giáp biên giới với Nga là ít hơn
nhiều so với lực lượng được Nga triển khai để xâm lược Ukraine hiện nay.
ẢO
TƯỞNG VỀ “SỰ KẾT THÚC CỦA LỊCH SỬ”
Tuy
nhiên, câu hỏi có thể được đặt ra là liệu Phương Tây có mắc sai lầm khi không ồ
ạt giúp Nga tái thiết chính mình hay không. Đặc biệt là trong khung cảnh khi đã
có rất nhiều nỗ lực thực hiện cùng lúc theo hướng này nhằm phục vụ cho lợi ích
của các nước Trung Âu? Ý tưởng về Kế hoạch Marshall mới, nhắm vào Nga, thực ra
đã được khởi xướng ngay từ năm 1990 với mục đích để giúp Liên Xô chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường và dân chủ. George H.W. Bush, khi đó là Tổng thống
Hoa Kỳ, đã phản đối điều đó. Michel Camsupers, Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đã
thất vọng về sự phản đối này. Nhưng chúng ta cần phải nhớ lại rằng vào tháng 4
năm 1989, quân đội Liên Xô đã thực hiện một cuộc thảm sát ở Tbilisi, vào năm
1990, giao tranh đã xảy ra ở Nam Ossetia, bởi vì Moscow đã kích động một cuộc nổi
dậy ở đó để chống lại mong muốn độc lập của Gruzia, cũng như ở Moldova,
Transnistria đang nổi dậy với sự đồng lõa của Điện Kremlin… Vì vậy, đã có lý do
những lý do khá rõ ràng để Phương Tây chần chừ không giúp Gorbachev vào thời điểm
đó. Vào tháng 1 năm 1991, sự can thiệp mạnh mẽ của quân đội tại Litva, Latvia
và Estonia, theo lệnh của Bộ Nội vụ Liên Xô khiến một số người thiệt mạng, càng
làm Phương Tây lún sâu thêm vào trạng thái chần chừ và hoài nghi.
Sau
khi Liên Xô bị giải thể, liệu Phương Tây đã có thể chọn một cách hành động khác
với những gì đã diễn ra trong vòng mấy thập kỷ qua? Một lần nữa, cần nhấn mạnh
rằng sự lựa chọn không hề đơn giản. Bạn phải nhìn kỹ vào lịch sử chính trị Nga
để hiểu rằng, trong đống đổ nát của chủ nghĩa Cộng sản, một “Kế hoạch Marshall”
dành cho Nga không phải là một điều hiển nhiên.
Nếu
nỗ lực lật đổ Gorbachev vào tháng 8 năm 1991 thất bại, đó là vì một số cơ quan
an ninh tin rằng không thể quay lại để sống với quá khứ. Điều này không có
nghĩa là những người này là những người ủng hộ mạnh mẽ cho nền dân chủ. Vấn đề
là họ đã hiểu rằng một thế giới mới đang mở ra và muốn lợi dụng nó để nắm quyền
kiểm soát nền kinh tế đất nước và làm giàu cho mình, chắc chắn khi đó họ đã
hình dung ra một thứ chủ nghĩa tư bản độc tài theo mô hình do
Đặng Tiểu Bình vẽ ra ở Bắc Kinh. Khác với vẻ bề ngoài của các hiện tượng, quá
trình Liên Xô bị giải thể không dẫn đến chiến thắng cho Boris Yeltsin và cũng
không phải là một thắng lợi của những người theo chủ nghĩa tự do. Choáng váng
trước những hiệu ứng bề nổi, hầu hết chúng ta bị thuyết phục bởi luận điểm về
"sự kết thúc của lịch sử", theo một cách hiểu vội vàng được trình bày
trong cuốn sách của Francis Fukuyama (1992).
Chắc
chắn, Yeltsin đã trả thù được Gorbachev, dẫu rằng Gorbachev chính là người đã
triệu tập Yeltsin về Moscow để giúp ông ta rũ bỏ những người Cộng sản ở thủ đô.
Nhưng Yeltsin nhanh chóng tin rằng Gorbachev là quá bảo thủ, đã luôn muốn ngăn
cản và làm bẽ mặt ông, bởi vì cựu lãnh đạo của đảng ở Sverdlovsk (nay là
Yekaterinburg) đã chứng minh cho thấy mình không dễ bị kiểm soát. Tuy nhiên,
chưa kịp tận hưởng trọn vẹn niềm vui được trả thù, tổng thống mới của nước Nga
đã ngay lập tức vấp phải sự phản kháng đáng kể về thể chế. Hiến pháp chỉ trao
cho ông ta quyền lực hạn chế, trong khi ông ta tin chắc rằng phải khẩn trương
đoạn tuyệt với quá khứ cộng sản.
Trên
trường quốc tế, Yeltsin đang ra sức tìm kiếm sự ủng hộ của người Phương Tây
thông qua Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Andrei Kozyrev của ông, và Phương Tây khi đó
cũng đang tìm kiếm những cách thức mới để hợp tác với người thừa kế của Liên
Xô. Đặc biệt khẩn thiết là cơ chế quản lý trong tương lai các lực lượng hạt
nhân được lắp đặt trên lãnh thổ của các nước Cộng hòa đã giành được độc lập,
như ở Ukraine, Belarus và các nơi khác. Nhưng những hỗn loạn đang diễn ra trong
lòng nước Nga biểu thị một điều gì đó khiến họ cảm thấy nên thận trọng.
Về
cấp độ kinh tế, Egor Gaïdar, lúc đó là Thủ tướng Chính phủ, người kiên quyết
theo đuổi nền kinh tế thị trường, đã đưa ra một liệu pháp sốc, lấy cảm hứng từ
Jeffrey Sachs người Mỹ. Liệu pháp sốc mà Jeffrey Sachs đề xuất đã được thực hiện
ở Ba Lan và đã mang tới những thành công đầu tiên. Ý tưởng của Yeltsin và
Gaidar là: “bằng cách nào đó, càng nhanh càng tốt để đạt tới điểm mà nước Nga
không còn có thể quay lại được nữa”. Cả hai đều lo sợ rằng với một quốc hội
(Duma) nơi đám "đầm lầy" thống trị, những người cộng sản và các đồng
minh cực đoan của họ sẽ thành công, không chỉ trong việc ngóc đầu lên mà còn
giành lại quyền lực. Nhưng nếu lựa chọn lý thuyết này (của Yeltsin và Gaïdar)
có thể khuyến khích người Phương Tây muốn viện trợ ồ ạt để ủng hộ quá trình
chuyển đổi của Nga, thì tình trạng rối loạn trên thực tế mà đất nước này đang
trải qua và bất ổn chính trị liên miên lại đã là một lực hãm mạnh mẽ đối với ý
định đó.
“Liệu
pháp sốc” này thật khủng khiếp đối với người dân Nga, lạm phát tăng cao, việc
cưỡng bức tư nhân hóa tài sản đất nước đã dẫn đến việc một thiểu số nhỏ chiếm
đoạt hầu hết tài sản của đất nước. Tham nhũng bùng phát mạnh mẽ và mafia đang
tìm kiếm những lĩnh vực lợi nhuận mới. Tất cả những điều này đã khiến cho phe đối
lập ngày càng mạnh lên. Rất nhanh chóng, người ta nhận ra tổng thống không có
đa số thực sự trong Duma và rằng cuộc cải cách hiến pháp mà ông cho là cần thiết
sẽ bị chặn lại. Cuộc tranh cãi giữa tổng thống và quốc hội nhanh chóng leo
thang. Nó dẫn đến một cuộc khủng hoảng đầy bạo lực giữa hai nhánh quyền lực,
sau đó là cuộc xung đột liên quan tới việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về
hiến pháp.
Ngày
21 tháng 9 năm 1993, Yeltsin quyết định giải tán quốc hội, quốc hội đã phản ứng
lại bằng cách tuyên bố bãi nhiệm tổng thống và bổ nhiệm Tướng Rutskoy làm
nguyên thủ quốc gia lâm thời. Ngày 3 tháng 10, lịch sử chồm lên: các nhóm vũ
trang cố gắng chiếm trụ sở truyền hình, các chướng ngại vật được dựng lên trên
đường phố Moscow, Chủ tịch Quốc hội kêu gọi tấn công Điện Kremlin và bắt
Yeltsin... Ngày
hôm sau Yeltsin phản ứng bằng cách ra lệnh tấn công Nghị viện bằng lực lượng đặc
biệt. Xe tăng sau đó tấn công "Nhà Trắng", nơi đặt trụ sở của Duma.
Ngày 4 tháng 10, giấc mơ dân chủ của những người bất đồng chính kiến đã bị bóp
chết.
Yeltsin
thắng thế, nhưng đã trả giá bằng việc tự biến mình thành một kẻ chịu ơn và sẽ
hành động theo sự điều khiển của cơ quan an ninh. Trên thực tế, họ đã nhanh
chóng siết chặt điện Kremlin trong vòng kiềm tỏa của mình. Ba năm sau, vào
tháng 8 năm 1996, theo lời khuyên của Anatoly Sobchak, thị trưởng thành phố
Saint Petersburg, Vladimir Putin, một cựu điệp viên trở về từ Dresden ở Cộng
hòa Dân chủ Đức đã gia nhập ekip của Yeltsin. Rất nhanh chóng, ông ta sẽ được
thăng hạng: vào tháng 3 năm 1997, ông tham gia bộ máy Văn phòng Tổng thống để
trở thành số hai vài tháng sau đó. Năm 1998, ông
được bổ nhiệm làm người đứng đầu FSB (Cơ quan An ninh Liên bang), đơn vị kế thừa
KGB. Năm
1999, ông trở thành Thủ tướng Chính phủ. Cuối cùng, vào ngày 25 tháng 12 năm
1999, Yeltsin tuyên bố từ chức Tổng thống Liên bang Nga và chỉ định Putin là
người kế nhiệm. Để đổi lấy chức vụ tổng thống được trao từ tay Yeltsin, Putin
đã đảm bảo với Yeltsin rằng ông và gia đình sẽ tránh được mọi thủ tục pháp lý
và các cuộc điều tra liên quan đến cách mà Yeltsin và gia đình cùng những người
thân cận, đã làm giàu cho bản thân trong quá trình nắm giữ chức vụ tổng thống
Nga. Và Vladimir Putin đã giữ lời.
Những
biến động chính trị liên tiếp xẩy ra trên đất nước Nga đủ sức nặng để làm nẩy
sinh mối nghi ngờ về tính hiệu quả của một kế hoạch Marshall mới, một kế hoạch
viện trợ rộng lớn nhằm tái thiết nước Nga, đất nước có tương lai dân chủ đang
lung lay và một vị tổng thống nát rượu. Cần phải nhắc lại những tình tiết liên
quan tới cuộc bầu cử đưa Boris Yeltsin, một người bệnh tật một lần nữa lại là
người đứng đầu đất nước vào tháng 7 năm 1996. Chiến thắng này đã được ngụy tạo
từ đầu bởi các phương tiện truyền thông thuộc sở hữu của các nhà tài phiệt của
đất nước, những người lo sợ một chiến thắng của những người Cộng sản. Do đó,
Nga không có khả năng đưa ra một lời đảm bảo nào rằng khoản viện trợ khổng lồ
mà Phương Tây dự kiến trao cho họ sẽ không nhanh chóng bị nuốt chửng trong mạch
tham nhũng và độc quyền bởi chế độ mà tính phi dân chủ ngày càng gia tăng.
Phương Tây thấy rằng họ phải áp đặt các điều kiện theo dõi nghiêm ngặt cho các
khoản viện trợ trong kế hoạch Marshall mới đó. Và người Nga, trong một mặc cảm của
kẻ yếu thế đã không thể chấp nhận những điều kiện này và “kế hoạch Marshall mới”
đã khai tử từ đó.
TỪ
THẬP KỶ NHỤC NHÃ ĐẾN THẬP KỶ ĐÁNG SỢ
Cuối
cùng, thập niên hậu Xô Viết đầu tiên hoàn toàn trở thành là một sự sỉ nhục đối
với người Nga, những người đã nhìn thấy sự suy tàn của đất nước, vị thế của đất
nước Nga của họ đang chìm xuống. Nền dân chủ non trẻ bỗng trở nên đáng ghét, bị
buộc tội là nguồn gốc gây ra mọi sự thao túng, tham nhũng và hỗn loạn.. Chính
trong tình trạng này, Putin đã tiếp quản nước Nga ( năm 2000). Không khó để
chuyển sự tức giận này quay sang chống lại kẻ thù mà cường quốc Liên Xô đã “ chỉ
mặt đặt tên “ ròng rã trong suốt bảy mươi năm: Phương Tây, tức là Mỹ và châu
Âu. Mọi vết thương của một quá trình chuyển đổi bất thành đã tìm thấy lối thoát
của nó ở đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, người phương Tây đã mắc sai lầm, bởi chắc
chắn rằng họ đã không hiểu lời cảnh báo trước đây của Solzhenitsyn: “Thời khắc
kết thúc của Liên Bang Xô Viết do Lenin tạo dựng đã điểm . Nhưng tòa nhà bằng
bê tông của nó vẫn chưa sụp đổ hoàn toàn . Và chúng ta không được phép, thay vì
thoát ra để đi tới tự do, lại bị hủy diệt dưới đống đổ nát của nó”. Không còn
nghi ngờ gì nữa, sự ngạo mạn của George W. Bush, sau các cuộc tấn công ngày 11
tháng 9 năm 2001, đã làm trầm trọng thêm phức cảm đầy ám ảnh của nước Nga, đất
nước chưa hề lành bệnh sau khi Liên Xô sụp đổ .Những diễn biến tiếp theo của Lịch
sử lại càng không khuyến khích người Phương Tây coi Nga, dưới sự cai trị của
Putin, là một quốc gia đáng kính như bất kỳ quốc gia nào khác. Thập kỷ thứ hai hậu Xô
Viết thật đáng sợ.
Chúng
ta cũng phải nhớ thế kỷ 21 bắt đầu như thế nào ở Nga: cuộc chiến tranh thứ hai
tàn khốc ở Chechnya, vớisự can thiệp ồ ạt của quân đội Nga bắt đầu từ ngày 26
tháng 8 năm 1999, với lý do để đáp trả lại hàng loạt các cuộc tấn công khủng bố
trên đất Nga. Alexander Litvinenko, một sĩ quan FSB đào tẩu , khẳng định rằng
FSB phải chịu trách nhiệm cho những vụ giết chóc dã man này . Putin sau đó hứa
sẽ"quét sạch những kẻ khủng bố, ngay cả trong nhà vệ sinh".
Litvinenkobị các đặc vụ Nga đầu độc bằng chất polonium ở Anh, vào tháng 11 năm
2006, vài tuần sau khi nhà báo Anna Politkovskaïa, người ghi lại tội ác chiến
tranh của quân đội Nga ở Chechnya, bị sát hại tại cầu thang của tòa nhà của cô ấy
ở Moscow.
Trước
đó, vào ngày 23 tháng 10 năm 2002, vụ bắt con tin một công chúng đến tham dự một
buổi biểu diễn dành cho giới trẻ, tại nhà hát Doubrovka, của một nhóm người
Chechnya, đã được “ giải quyết” bằng cách sử dụng hơi độc tiêu diệt khủng bố .
Kết quả: một trăm hai mươi tám người chết trong số các con tin! Năm 2004,
Viktor Yushchenko, ứng cử viên tranh cử tổng thống Ukraine, thân phương Tây, bị
nhiễm chất độc dioxin… Được điều trị tại Vienna, ông vẫn trình diện trước lá
phiếu của đồng bào. Sau một cuộc bỏ phiếu bị ghi nhận là gian lận đáng kể, Ủy
ban Bầu cử , nơi tuyên bố Viktor Yanukovych là người thắng cử, phần lớn bao gồm
những nhân vật được Moscow ủng hộ. Đây là thời điểm bắt đầu cuộc Cách mạng Cam.
Tòa án Tối cao đã tuyên bố vô hiệu vòng hai của cuộc bầu cử, và một vòng hai mới
diễn ra dưới sự giám sát chặt chẽ của quốc tế . Nó đã mang lại chiến thắng rất
rõ ràng cho Yushchenko, người mà khuôn mặt vẫn bị biến dạng bởi chất độc. Ở
Nga, kể từ khi Vladimir Putin lên nắm quyền, các vụ ám sát các nhà báo và nhà
hoạt động nhân quyền, các vụ bắt bớ và kết án nặng nề đối với những người chống
đối - dù lớn hay nhỏ - bởi một hệ thống công lý theo lệnh của quyền lực đã
thành công. Các phương tiện truyền thông đã được giám sát chặt chẽ để biến
chúng thành công cụ tuyên truyền thực sự. Và vào năm 2015, chính Boris Nemtsov,
một nhân vật tiêu biểu của phe đối lập, người đã tố cáo sự thối nát của chế độ
và coi việc sáp nhập Crimea là bất hợp pháp, đã bị bắn chết ngay gần Điện
Kremlin.
Tất
cả những điều này đủ để hiểu rằng lỗi của Phương Tây không phải đã làm bẽ mặt
hoặc coi thường nước Nga, mà là đã không hiểu được mối nguy mà nước này gây ra
kể từ khi Vladimir Putin nắm quyền lãnh đạo. Tuy nhiên, cuộc xâm lược tàn bạo của
Nga vào Ukraine phát động vào tháng 2 năm 2022 đã cho thấy tất cả sự bạo lực và
sự khinh miệt đối với tính mạng con người mà chủ nhân của Điện Kremlin có thể
gây ra.
J.F.B.
---
Đôi
nét về tác giả bài báo : Jean-François Bouthors – Nhà
biên tập, nhà báo và nhà văn: Ông là tác giả của nhiều
cuốn sách, trong đó có
- La
Nuit de Judas (Đêm của Giuđa, L’Atelier, 2008);
- Paul
le Juif (Phao-lô người Do Thái, Parole et Silence, 2011);
- Délivrez-nous
de "Dieu". De qui donc nous parle la Bible? (Xin cứu chúng con khỏi
"Chúa". Kinh Thánh thực sự đang nói với chúng ta về ai? Médiaspaul,
2014);
- Comment
Poutine change le monde (Putin đang làm thay đổi thế giới như thế nào, François
Bourin, 2016);
- Nous,
Français (Chúng ta, người Pháp, L’Observatoire, 2018) và,
- cùng
với Jean-Luc Nancy, Démocratie! Hic et nunc (Dân chủ! Tại đây và ngay bây giờ,
François Bourin, 2019).
No comments:
Post a Comment