TỔNG HỢP MỘT SỐ TIN QUỐC TẾ NGÀY 30/07/2025
*****
Lính Nga bị lừa và
cướp tiền chiến phí khi trở về từ chiến trường Ukraine
Sergei Goryashko & Đội điều tra
BBC
News Tiếng Nga
30
tháng 7 2025, 12:08 +07
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/ckgel21k7vdo
Tổng
thống Nga Vladimir Putin đã hứa sẽ chào đón binh lính Nga như những người hùng
khi họ trở về từ Ukraine, tuy nhiên, BBC phát hiện ra nhiều quân nhân đã bị các
quan chức chính phủ lừa đảo và chiếm đoạt tiền lương.
Kể
từ khi cuộc xâm lược bắt đầu vào tháng 2/2022, Tổng thống Putin đã
tăng gấp ba quy mô quân đội Nga, dựa vào các ưu đãi tài chính để thu hút tình
nguyện viên nhập ngũ.
Giống
như hàng ngàn người Nga khác, Nikita Khursa, 39 tuổi, đã ra chiến trường ở
Ukraine vì tiền.
Tùy
theo khu vực, một tân binh có thể nhận được tới 5,2 triệu rúp (1,67 tỷ đồng)
trong năm đầu tiên trong quân ngũ, cùng với khoản bồi thường lên tới 4 triệu
rúp (gần 1,3 tỷ đồng) nếu bị thương.
Con
số này có thể lên gấp sáu lần mức lương trung bình ở Nga.
Đối
với nhiều người đến từ các vùng nghèo khcủa Nga, khoản tiền này là cơ hội hấp dẫn
khó cưỡng mặc dù họ đối mặt với nguy cơ không thể
quay về.
Là
một thợ hàn đến từ một thị trấn ở vùng Rostov, gần biên giới Ukraine, Nikita
Khursa chỉ chiến đấu vài tháng trên mặt trận vào mùa hè năm 2024, trước khi bị
thương và được đưa về nhà để điều trị.
Với
chấn thương đó, Khursa được nhận một khoản tiền thưởng hậu hĩnh, số tiền mà anh
và người vợ Oksana đã dự định dùng để mua một căn hộ.
Thế
nhưng, sau một đêm cãi vã với vợ vì chuyện rượu chè, trong cơn say và buồn bã,
anh bỏ đi - chân trần, mang theo một chiếc túi ni lông đựng toàn bộ số tiền tiết
kiệm của hai vợ chồng.
Trong
cơn say, Khursa quyết định lái xe đến Rostov và mua một căn hộ ở đó.
"Nếu
vợ tôi sáng suốt hơn, cô ấy đã khuyên tôi ngủ lại và chờ đến sáng hôm sau hãy
quyết định", anh than thở với BBC.
Anh
lên xe nhưng chưa đi được bao xa thì bị cảnh sát giao thông chặn lại; họ phát
hiện ra chiếc túi và đòi hối lộ.
VIDEO
:
Đinh Quang
Anh Thái | Lính Nga bị lừa và cướp tiền chiến phí khi trở về từ Ukraine
https://www.youtube.com/watch?v=D-nV7P4YEnI&t=4s
=======================================
Động đất mạnh 8,8 độ,
nhiều quốc gia cảnh báo sóng thần
BBC News Tiếng Việt
30
tháng 7 năm 2025
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c04rlr24y10o
Một
trận động đất mạnh 8,8 độ đã tấn công bán đảo Kamchatka, vùng viễn đông của Nga
vào hôm nay 30/7.
Sóng
thần cao từ 3-4 mét đã được ghi nhận ở một số khu vực của Kamchatka, Nga.
Một
số người đã bị thương sau trận động đất xảy ra vào sáng nay tại bán đảo hẻo
lánh Kamchatka của vùng Viễn Đông ở Nga, theo hãng tin nhà nước TASS.
Một
số nạn nhân bị thương trong lúc sơ tán, trong đó một phụ nữ đã nhảy qua cửa sổ
để thoát thân. Người đứng đầu ngành Y tế khu vực này, ông Oleg Melnikov, cho biết
tất cả đều "trong tình trạng ổn định".
"Hiện
chưa ghi nhận ca chấn thương nghiêm trọng nào," ông nói.
Những
đợt sóng đầu tiên cao 30cm đã ập vào một thành phố ở Hokkaido, miền bắc Nhật Bản.
Các nhà chức trách cảnh báo rằng những đợt sóng sau có thể lớn hơn.
Chính
quyền Nhật vẫn chưa ghi nhận bất kỳ thương vong hay thiệt hại nào.
Chính
quyền Mỹ đã ban hành cảnh báo sóng thần cho Alaska và Hawaii.
Cảnh
báo theo dõi sóng thần cũng có hiệu lực đối với lãnh thổ đảo Guam của Mỹ và các
hòn đảo khác của Micronesia.
Tổng
thống Mỹ Donald Trump vừa có động thái trên mạng xã hội trước tình hình cảnh
báo sóng thần tại Hawaii, cũng như các khuyến cáo tại Alaska và khu vực bờ biển
Thái Bình Dương của Mỹ.
"Vui
lòng truy cập tsunami.gov để cập nhật thông tin mới nhất. HÃY VỮNG TÂM VÀ VÀ GIỮ
AN TOÀN!" – ông Trump viết trên Truth Social và X (trước đây là Twitter).
Cảnh
báo sóng thần được đưa ra nhằm cảnh báo người dân về khả năng xuất hiện các
dòng chảy mạnh nguy hiểm, đồng thời kêu gọi sơ tán lên vùng đất cao hơn hoặc di
chuyển vào đất liền.
Trong
khi đó, các khuyến cáo ở mức độ thấp hơn cảnh báo về dòng chảy mạnh, yêu cầu
người dân tránh xa khu vực bãi biển và không xuống nước.
Trận
động đất nghiêm trọng thứ sáu trong lịch sử
Trận
động đất tại Nga nằm trong nhóm sáu trận động đất mạnh nhất từng được ghi nhận.
Phát
biểu trên chương trình Newsday của BBC cách đây không lâu, Helen Janiszewski,
Phó Giáo sư, Khoa Địa vật lý và Kiến tạo tại Đại học Hawaii, cho biết trận động
đất này nằm trong số mười trận động đất nghiêm trọng nhất được ghi nhận trong lịch
sử.
Theo
Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, với cường độ 8,8 độ, trận động đất này được xếp hạng
là trận động đất mạnh thứ sáu trong lịch sử, cùng với trận động đất năm 2010 ở
Biobío, Chile, và trận động đất năm 1906 ở Esmeraldas, Ecuador.
Cục
Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) cho biết về trận động đất ở Chile: "Xảy ra
ngoài khơi gần thành phố Quirihue, trận động đất dữ dội này đã giết chết 523
người và phá hủy hơn 370.000 ngôi nhà."
Về
trận động đất ở Ecuador, báo cáo viết: "Được gọi là trận động đất
Ecuador-Colombia, trận động đất này đã tạo ra một cơn sóng thần mạnh khiến
1.500 người thiệt mạng và lan đến tận San Francisco về phía bắc."
Đáng
chú ý là trận động đất nghiêm trọng thứ năm, giống như trận động đất ngày nay,
cũng xảy ra ở vùng Kamchatka Krai, Nga. Trận động đất này xảy ra vào năm 1952
và là "trận động đất mạnh 9 độ richter đầu tiên được ghi nhận trên thế giới".
Hệ
quả là "đã gây ra một cơn sóng thần lớn tấn công Hawaii, gây thiệt hại hơn
1 triệu đô la."
*****
Thùy Dương|Thu Hằng - RFI
Đăng
ngày: 30/07/2025 - 12:51 - Sửa đổi ngày: 30/07/2025 - 15:29
Một trận động
đất lên tới 8,8 độ Richter, mạnh nhất trong khu vực tính từ 73 năm trở lại đây,
đã xảy ra ở ngoài khơi bán đảo Kamchatka của Nga vào hôm 29/07/2025, gây ra
sóng thần ở Nga - Nhật Bản và khiến hầu hết các nước ven Thái Bình Dương phải
ban bố cảnh báo.
HÌNH
:
Sóng
lớn tràn vào một tòa nhà sau trận động đất mạnh ngoài khơi bán đảo Kamchatka ở
Severo-Kurilsk, vùng Sakhalin, Nga, ngày 30/07/2025. via REUTERS - SOCIAL MEDIA
AFP
cho biết, theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS), trận động đất xảy ra
vào khoảng 23h24 GMT thứ Ba 29/07 ở độ sâu 20,7 km, cách bờ biển
Petropavlovsk-Kamchatsky, thủ phủ của Kamchatka, thuộc vùng Viễn Đông của Nga,
126 km.
Thị
trưởng quận Quần đảo Bắc Kuril, Alexander Ovsiannikov, cho biết, hôm nay có
« 4 đợt sóng thần » đã đổ vào Severo-Kurilsk, mực nước dâng cao sâu
vào đất liền tới 200m. Sóng thần ập vào Elizovsky tại quận Kamchatka cao tới
3-4m.
Nhìn
sang Nhật Bản, theo trang mạng đài NHK, Cơ quan Khí tượng đã nâng cảnh báo sóng
thần lên mức báo động vào lúc 9h40 sáng tại các khu vực ven Thái Bình Dương, từ
tỉnh Hokkaido, cực bắc Nhật Bản đến tỉnh Wakayama. Một cơn sóng thần cao 1,3m
đã ập vào một cảng ở tỉnh Miyagi, ở miền bắc vào lúc 13h52 (04h52 GMT). Sóng thần
được dự báo còn có thể cao đến 3 mét. Người dân ở các vùng ven biển được khuyến
cáo phải sơ tán ngay lập tức, di chuyển đến điểm cao nhất có thể.
Chiều
nay, nhiều nơi tại Nga và Nhật đã dỡ bỏ hoặc giảm nhẹ cảnh báo sóng thần.
Tại
Trung Quốc, nhà chức trách hôm nay cũng phát lệnh cảnh báo sóng thần tại nhiều
vùng gần bờ biển.
Nhìn
sang bên kia bờ Thái Bình Dương, chính quyền Mêhicô, Colombia cũng đã ra lệnh
cho người dân tránh xa hoặc sơ tán khỏi khu vực bờ biển. Sóng thần cao 1-3m
cũng được dự báo xảy ra tại Chilê, Costa Rica, hoặc Polynésie của Pháp.
Tại
Hoa Kỳ, nhà chức trách đã ban hành một loạt cảnh báo ở nhiều cấp độ khác nhau dọc
bờ tây, từ Alaska đến toàn bộ vùng bờ biển California. Cảnh báo sóng thần đã được
phát trên điện thoại di động ở California.
Trung
Quốc : Lụt lội ở Hà Bắc, bão ở Thượng Hải
Trung
Quốc phát cảnh báo sóng thần tại nhiều khu vực ở bờ đông sau trận động đất ở
Kamchatka, Nga. Cùng lúc, Bắc Kinh vẫn bị lụt lột sau những trận mưa xối xả,
còn Thượng Hải phải sơ tán gần 283.000 người do bão lớn Co-May sắp vào. Số người
thiệt mạng vì mưa lớn gây lụt lội đã lên tới hơn 30 người, theo thống kê cập nhật
ngày 30/07/2025. Các vùng lân cận Bắc Kinh như Hà Bắc, thành phố Thiên Tân cũng
bị ảnh hưởng nặng nề.
Chính
quyền đã ban hành kế hoạch khẩn cấp : đóng cửa trường học và công trường
xây dựng, cảnh báo thời tiết và sơ tán hàng loạt. Bắc Kinh đã giải ngân hơn 66
triệu euro để giải quyết thảm họa.
Thông tín
viên RFI Cléa Broadhurst đã đến tỉnh Hà Bắc, phía bắc Bắc Kinh :
« Những
con đường ở ngôi làng nhỏ Wanggezhuang ngập đầy bùn. Người dân đang quét dọn đường
đi và nhà cửa. Ông Tang vừa xúc vừa kể : « Nước tràn vào sân. Người
ta nghe thấy cả tiếng sóng đập vào cánh cửa. Sóng cuốn hết đi, kể cả ô tô của
tôi. Mọi thứ bị phá hết ».
Hơn
130 ngôi làng bị mất điện từ đầu tuần. Bà Li ngóng sóng trên điện thoại một
cách vô vọng. Bà nói : « Sức mạnh của thiên nhiên thật quá lớn. Bây
giờ phải lắp lại nước, điện, khí đốt và internet. Chỉ sau đó mới có thể xây dựng
lại được. Còn bây giờ, tôi phải sử dụng wifi của nhà hàng xóm ».
Đối
với bà Liu, đang nhặt những mảnh vỡ còn vương trước nhà, nỗi lo bây giờ là chuyện
lại tái diễn. Bà than thở : « Làm sao mà không lo lắng cho được ?
Ngay khi mưa to là phải chạy. Đừng có nghĩ là sẽ gặp may. Một số làng có nhiều
người chết. Những lúc như thế này, điều quan trọng duy nhất là giữ mạng sống ».
Hơn
80.000 người đã phải sơ tán. Các cuộc tìm kiếm và cứu nạn vẫn được tiếp tục.
Nhiều khu tạm trú khẩn cấp đã được mở trong các trường học và tòa nhà công.
Nhưng việc tái thiết được cho là sẽ rất lâu, ở một vùng mà thời tiết vẫn còn
nguy hiểm ».
Các
nội dung liên quan
Châu
Á tưởng niệm 20 năm trận sóng thần kinh hoàng năm 2004
Nguy
cơ động đất ‘‘cực mạnh’’: Chính quyền Nhật kêu gọi dân không ‘‘dự trữ quá nhiều’’
thực phẩm
Những
tiến bộ về hệ thống cảnh báo 20 năm sau trận sóng thần ở Indonesia
======================
Máy
bay hydrogen, tương lai của ngành hàng không sạch
Thanh Phương
- RFI
Đăng
ngày: 30/07/2025 - 12:54
Triển lãm
hàng không và không gian Le Bourget, Paris (16 -22/06/2025) một lần nữa là dịp
để các công ty chế tạo máy bay giới thiệu những dự án máy bay “sạch”, tức là
phát ra ít khí thải carbon gây hiệu ứng lồng kính, trong bối cảnh ngành hàng
không toàn thế giới đang nỗ lực giảm thiểu tác hại đến khí hậu trên hành tinh của
chúng ta.
HÌNH
:
Maquette
của máy bay ZEROe chạy bằng hydrogen của Airbus, được trưng bày tại Triển lãm
Le Bourget 2025, Paris, Pháp. © Thanh Phương/RFI
Dragonfly:
" Sạch, êm, bền"
Trong
số các dự án đầy tham vọng đó, có máy bay chạy bằng hydrogen như chiếc
Dragonfly của Blue Spirit Aero, một công ty khởi nghiệp của Pháp, được thành lập
vào năm 2020, đặt cơ sở tại khu vực Paris và Toulouse. Dragonfly là loại máy
bay bốn chỗ ngồi, ban đầu dành cho các trường dạy lái phi cơ, có 12 động cơ điện,
mỗi động cơ chạy bằng pin nhiên liệu hydro.
Thật
ra trước khi đến Le Bourget, Dragonfly, được quảng cáo là "sạch, êm, bền",
đã chính thức " ra mắt thế giới" ngày 10/06/2025, tại sân bay Le
Mans. Olivier Savin, người sáng lập Blue Spirit Aero, nhấn mạnh "đây là
chiếc máy bay chạy bằng hydrogen đầu tiên được thiết kế từ đầu", không giống
như hàng chục dự án tương tự khác đang được tiến hành trên khắp thế giới. Ông
nói: "Tất cả các đối thủ cạnh tranh của tôi, vì sự tiện lợi, đều lấy một
chiếc máy bay hiện có và loại bỏ động cơ thông thường để chuyển sang động cơ điện
và nhiên liệu hydrogen. Tôi tin rằng điều đó không hiệu quả".
Chuyến
bay thử nghiệm đầu tiên của Dragonfly được lên kế hoạch "trong những tháng
tới" và ông Savin hy vọng máy bay có thể sẽ được cấp chứng nhận trong những
2027-2028, và ngay sau đó sẽ được thương mại hóa. Nhà sáng lập Blue Spirit Aero
cho biết: "Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm các nhà đầu tư".
Chiếc
máy bay nhỏ này sẽ có thể bay 700 km với tốc độ 230km/giờ. Nó có khả năng bay
cho dù có đến 8 động cơ không hoạt động. Blue Spirit Aero ban đầu nhắm đến thị
trường các trường đào tạo phi công chuyên nghiệp. Theo ông Savin, "600.000
phi công sẽ phải được đào tạo trong 20 năm tới. Vì vậy, cần phải tăng số lượng
máy bay có sẵn cho các trường đào tạo và những chiếc máy bay mới này phải thân
thiện với môi trường". Về lâu dài, Blue Spirit Aero có kế hoạch giải
quyết vấn đề vận tải khu vực bằng máy bay 6 chỗ ngồi có tầm bay 1.000 km, hoặc
thậm chí là máy bay 14 chỗ ngồi.
Cũng
tại Triển lãm Le Bourget 2025, LoganAir, hãng hàng không khu vực lớn nhất của
Scotland, đã thông báo thiết lập quan hệ đối tác đầy tham vọng với ZeroAvia, một
công ty chuyên về động cơ đẩy hydrogen-điện, đưa công nghệ này vào đội máy bay
của LoganAir, đánh dấu một bước tiến đáng kể hướng tới các chuyến bay thương mại
không phát thải khí carbon. Dự án chủ lực bao gồm việc sử dụng kiểu máy bay
Cessna Caravan làm nền tảng thử nghiệm cho hệ thống đẩy ZA600 của ZeroAvia, một
động cơ 600 kilowatt được thiết kế cho máy bay chở từ 10 đến 20 hành khách.
Tham
vọng của Airbus: ZEROe
Những
doanh nghiệp lớn hơn nhiều, như tập đoàn chế tạo máy bay châu Âu Airbus, từ lâu
cũng đã theo đuổi dự án máy bay hydrogen mang tên ZEROe. Trả lời RFI Việt ngữ từ
Triển lãm Le Bourget, ông Karim Mokaddem, trưởng bộ phận Nghiên cứu và Phát triển
về máy bay tương lai của Airbus, cho biết:
“Động
cơ điện được cung cấp năng lượng từ các electron. Các electron này tạo ra điện
cho động cơ điện, tạo ra lực đẩy điện không phát thải, giống như trong một chiếc
ô tô điện. Với hydrogen, điểm khác biệt là các electron này không được tạo ra từ
pin như trong ô tô điện, mà được tạo ra bởi cái được gọi là pin nhiên liệu. Pin
nhiên liệu này được cung cấp năng lượng bởi hydrogen, và từ hydrogen này, nó tạo
ra điện, đi trực tiếp vào động cơ điện và tạo ra hệ thống đẩy điện.
Nguyên
tắc là như thế. Tại sao chúng ta không sử dụng pin? Bởi vì mật độ năng lượng
trên một đơn vị khối lượng của pin hiện nay có không cho phép vận chuyển một số
lượng lớn hành khách trên một quãng đường rất xa. Nếu muốn làm điều này cho
ngành hàng không, chúng ta buộc phải sử dụng các hệ thống dựa trên hydrogen và
pin nhiên liệu.
Hydrogen
là một loại nhiên liệu trong số những nhiên liệu tổng hợp. Chúng ta có thể sản
xuất nó từ nước hay từ nhiên liệu hóa thạch.
Nhưng ý định của chúng tôi là tạo ra một loại hydrogen sạch nhất có thể, một
dây chuyền sản xuất hydrogen lành mạnh. Điều đặc biệt duy nhất là nó không chứa
carbon. Đó là hydrogen xanh. Tôi thường nói là nhiên liệu tiệm cận, nghĩa là
khi không còn gì nữa, chúng ta vẫn có thể sản xuất nhiên liệu này từ Mặt trời
và nước.
Ngày
nay, lý tưởng nhất để được khả thi về mặt thương mại là máy bay có kích thước bằng
một chiếc A320. Tham vọng cuối cùng của chúng tôi là như thế. Lúc đầu, chúng
tôi đặt mục tiêu chế tạo một chiếc máy bay 100 chỗ ngồi và tầm bay chỉ dưới
1.800 km.”
Ban
đầu Airbus dự kiến là máy bay ZEROe sẽ ra đời vào năm 2035, nhưng cuối cùng họ
đã phải lùi lại thời hạn thêm 5 hoặc 10 năm nữa. Ông Karim Mokaddem giải thích
lý do:
“Chúng
tôi đã làm việc rất nhiều về loại máy bay không phát thải này dựa trên việc sử
dụng hydrogen, nhưng nay chúng tôi nhận ra rằng hệ sinh thái kinh doanh để triển
khai việc sử dụng hydrogen cho máy bay mất nhiều thời gian hơn dự kiến, vì vậy
chúng tôi tạm hoãn dự án này.
Thực
ra, vấn đề chính là thời gian cần thiết để thiết lập hệ sinh thái. Cách đây 15
hoặc 20 năm, thị trường xe hơi cũng đã trải qua tình huống tương tự với pin.
Không có đủ pin, không có trạm sạc. Mọi người đều trông cậy nhiều vào nhiên liệu
hóa thạch hơn là khử ô nhiễm cho cho xe hơi.
Và
rồi đến một thời điểm nhất định, đã có một bước ngoặt như chúng ta đang trải
qua ngày hôm nay, có nghĩa là có thêm nhiều động điện cho xe hơi và các trạm sạc
pin ngày càng nhiều, và hệ sinh thái của thế giới pin điện đã phát triển. Điều
tương tự sẽ xảy ra với hydrogen, nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn một chút để cỗ
máy kinh tế này khởi động.
Chúng
tôi sẽ tranh thủ thời gian này để phát triển một loại máy bay khả thi hơn về mặt
thương mại, có thể chở nhiều hành khách hơn trên những quãng đường dài hơn và dựa
trên pin nhiên liệu sử dụng hydrogen. Một loại máy bay khác biệt và có thể cho
phép chúng tôi có vị thế tốt hơn trên thị trường so với vị thế mà ban đầu chúng
tôi cho là sẽ có vào năm 2035”
Những
máy bay ít tiêu tốn nhiên liệu
Tuy
dự án ZEROe phải cần thêm từ 10 đến 10 năm, Airbrus vẫn nuôi tham vọng đứng đầu
thế giới về phi carbon hóa ngành hàng không. Ngoài máy bay hydronen, tập đoàn
châu Âu còn có những dự án máy bay tiêu tốn nhiên liệu ít hơn, theo lời ông
Kasim Mokaddem:
« Airbus
có cam kết rất mạnh mẽ là đạt được trung hòa carbon vào năm 2050. Và để đạt được
điều đó, hydrogen sẽ không phải là yếu tố chính, vì hydrogen sẽ có rất ít tác động
đến lượng khí thải CO2 vào năm 2050. Sẽ có tác động lớn chính là sản phẩm mà
chúng tôi gọi là thế hệ máy bay một lối đi mới, tức là dòng máy bay sẽ thay thế
dòng máy bay A320 hiện nay, mà chúng tôi muốn giảm mức tiêu thụ nhiên liệu từ
25 đến 30% và chúng tôi muốn sử dụng càng nhiều càng tốt nhiên liệu tổng hợp
không phải là hydrogen, mà là nhiên liệu tổng hợp trong đó carbon bên trong là
carbon được tái chế, do đó có lợi hơn. Và vì vậy, ngày nay chúng tôi làm việc rất
nhiều về loại máy bay này.
Chúng
tôi đang hướng tới mục tiêu đưa nó vào sử dụng trong khoảng thời gian từ năm
2035 đến năm 2040. Chiếc máy bay này sẽ có tác động rất lớn đến cam kết của
chúng tôi đạt được trung hòa carbon vào năm 2050. Nó sẽ dựa trên các vật liệu
nhẹ hơn nhiều, hệ thống động cơ hiệu quả hơn nhiều và với đôi cánh hoàn toàn
khác so với những gì hiện có. Loại máy bay mới này, cùng với việc đổi mới đội
máy bay hiện nay bằng những chiếc máy bay hiện đại hơn, sẽ cho phép chúng tôi
tiến tới mức trung hòa carbon vào năm 2050, trước khi tiến tới bước tiếp theo
là mức phát thải bằng không.
Airbus
có một kế hoạch phi cacbon hóa rất rõ ràng, mà chúng tôi đang triển khai. Kế hoạch
này có hai thời hạn: đầu tiên là năm 2050, đạt mức trung hòa carbon, và sau năm
2050 là hướng tới máy bay không phát thải.
Chúng
tôi sẽ sử dụng vật liệu composite nhiều nhất có thể. Chúng tôi đã sử dụng vật
liệu composite trên chiếc A350 và đang hướng đến thế hệ tiếp theo có nhiều vật
liệu composite hơn trên cánh máy bay và, tại sao không, trên các bộ phận khác của
thân máy bay, như vậy sẽ làm giảm đáng kể trọng lượng và sẽ có tác động đáng kể
đến hiệu suất của máy bay.
=============================
Kỷ nguyên hòa bình nhờ dân số già
Mark L. Haas
- Foreign
Affairs
Viên
Đăng Huy, biên
dịch
30/07/2025
https://nghiencuuquocte.org/2025/07/30/ky-nguyen-hoa-binh-nho-dan-so-gia/
Phần
lớn các quốc gia trên thế giới đang trải qua một cuộc cách mạng nhân khẩu học:
dân số già hóa một cách đáng kể, liên tục và có thể không thể đảo ngược. Sự kết
hợp giữa tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ
người từ 65 tuổi trở lên, cùng với đó là sự gia tăng đều đặn về độ tuổi trung
bình của dân số. Vào năm 1950, có khoảng 5% dân số thế giới từ 65 tuổi trở lên.
Đến năm 2021, con số đó đã gần như tăng gấp đôi. Ngay cả khi tỷ lệ sinh ngừng
giảm và duy trì ở mức năm 2022 – một điều khó có thể xảy ra – Liên Hợp Quốc dự
báo rằng đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ tăng gấp ba lần. Nhiều quốc gia trong số
này không chỉ già hóa; quy mô dân số của họ còn đang dần thu hẹp lại. Hơn 40 quốc
gia có dân số giảm do tỷ lệ sinh thấp. Đến năm 2050, gần 90 quốc gia sẽ có ít
công dân hơn vào mỗi cuối năm so với đầu năm.
Như
nhiều nhà phân tích đã chỉ ra, dân số già hóa làm chậm tăng trưởng kinh tế và
đòi hỏi chính phủ phải chi tiêu công nhiều hơn cho phúc lợi người cao tuổi.
Nhưng nó cũng có một lợi ích quốc tế quan trọng chưa được thừa nhận: già hóa
làm giảm đáng kể khả năng xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia. Thế kỷ 21, được
dự đoán rộng rãi là một “thời đại suy giảm dân số,” cũng có thể trở thành một
thế kỷ hòa bình hơn.
Quan
điểm cho rằng xung đột quốc tế sẽ giảm trong những thập kỷ tới có vẻ vô lý, đặc
biệt khi nhìn vào số lượng lớn các cuộc chiến tranh ở châu Phi, châu Âu và
Trung Đông trong 25 năm đầu thế kỷ này. Nhưng khi các quốc gia già đi, chính phủ
sẽ buộc phải quan tâm đến dân số già hóa của họ và đối phó với nguồn lực ngày
càng khan hiếm. Trong khi đó, khi các nhà lãnh đạo và công dân già đi, các
nghiên cứu chỉ ra rằng họ sẽ có xu hướng ủng hộ hòa bình hơn. Những yếu tố này
sẽ kết hợp lại để tạo ra những xã hội ít khả năng và ít dung thứ cho việc gây
chiến.
Mặc
dù chắc chắn có những ngoại lệ, xu hướng gây chiến, nói cách khác, mạnh hơn ở
các quốc gia có dân số trẻ hơn. Làn sóng dân số già và thu hẹp sắp tới sẽ định
hình lại địa chính trị một cách cơ bản. Ít nhất theo một cách, sự biến đổi đó sẽ
tốt đẹp hơn.
Thế
giới có đang trong tình trạng chiến tranh không?
Năm
2023, Emma Beals và Peter Salisbury đã viết trên Foreign Affairs về “sự bùng nổ
xung đột bạo lực toàn cầu” kể từ năm 2012. Thật vậy, theo dữ liệu do Chương
trình Dữ liệu Xung đột Uppsala và Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo thu thập, số lượng
các cuộc xung đột quân sự do nhà nước lãnh đạo đã gần như tăng gấp đôi trong thập
niên từ 2012 đến 2022.
Nhưng
những số liệu thống kê này không cho thấy rõ rằng bạo lực giữa các quốc gia chủ
yếu chỉ giới hạn ở những nước có dân số trẻ. Trong mỗi năm từ 2012 đến 2023, tỷ
lệ trung bình người từ 65 tuổi trở lên của tất cả các quốc gia chính khởi xướng
xung đột bạo lực là 5%, xấp xỉ một nửa so với mức trung bình của tất cả các quốc
gia trên thế giới vào năm 2024.
Các
quốc gia có dân số già hơn do đó đã chứng tỏ xu hướng giảm tham gia vào các cuộc
xung đột bạo lực. Các phân tích thống kê cho thấy các quốc gia này ít có khả
năng khởi xướng các cuộc xung đột quân sự hơn đáng kể so với các quốc gia trẻ
hơn. Điều mà chúng ta tưởng chừng là một xu hướng chiến tranh phổ biến trên
toàn cầu, thực chất chủ yếu được thúc đẩy bởi sự hiếu chiến của các quốc gia có
dân số trẻ. Điều này có thể giúp giải thích tỷ lệ chiến tranh và xung đột cao
trên khắp lục địa châu Phi, nơi một số nước có dân số trẻ nhất thế giới.
Kinh
tế yếu sẽ không có chiến tranh
Một
lý do chính khiến dân số già hóa làm giảm nguồn lực có thể dùng cho chiến tranh
là vì nó làm chậm đáng kể tăng trưởng kinh tế. Bằng cách giảm số lượng lao động
trong xã hội, làm chậm năng suất và giảm tiêu dùng trong nước, tình trạng già
hóa làm cho các quốc gia kém năng động về kinh tế hơn, và do đó, ít khả năng
tài trợ cho các cuộc chiến tranh hơn.
Giảm
dân số trong độ tuổi lao động (được định nghĩa là những người từ 15 đến 64 tuổi)
sẽ thay đổi hoàn toàn cơ cấu xã hội trên khắp thế giới. Dân số trong độ tuổi
lao động của châu Âu sẽ giảm khoảng 17% vào năm 2050 so với mức năm 2020; của
Đông Á sẽ giảm 24%. Từ năm 2020 đến 2050, dân số trong độ tuổi lao động của Nhật
Bản dự kiến sẽ giảm 28%, của Trung Quốc 23%, của Nga 19% và của Đức 17%.
Dân
số già hóa cản trở tăng trưởng năng suất bằng cách tăng độ tuổi trung bình của
lực lượng lao động. Lực lượng lao động già đi là một lực lượng lao động kém
năng suất hơn. Mọi người thường đạt năng suất cao nhất ở độ tuổi 40, ở tuổi này
họ có nhiều kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực hơn so với lao động trẻ tuổi, đồng
thời vẫn giữ được nhiều năng lượng và sức khỏe tốt hơn so với những người lớn
tuổi hơn. Những người trong độ tuổi này cũng sẵn sàng hơn so với những người lớn
tuổi để học hỏi kỹ năng và kiến thức mới, tham gia vào các dự án rủi ro cao
nhưng lợi nhuận lớn, và chuyển đến nơi khác để tìm kiếm cơ hội việc làm. Như
nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra, quy mô của nhóm tuổi này so với lao động lớn
tuổi và trẻ tuổi hơn là yếu tố then chốt quyết định tăng trưởng năng suất tổng
thể của một quốc gia. Khi tỷ lệ người ở độ tuổi 40-49 tăng lên, năng suất tổng
thể sẽ được thúc đẩy. Ngược lại, khi tỷ lệ này giảm, năng suất tổng thể sẽ bị ảnh
hưởng.
Đây
là tin xấu cho triển vọng kinh tế của các quốc gia già hóa. Trong số những người
lao động, tỷ lệ người từ 40 đến 49 tuổi so với những người từ 30 đến 39 tuổi và
những người từ 50 tuổi trở lên sẽ giảm mạnh ở nhiều quốc gia trong suốt thế kỷ
21. Tại Nga, tỷ lệ nhóm tuổi quan trọng này đối với tăng trưởng năng suất sẽ giảm
10% từ năm 2020 đến 2050, ở Nhật Bản là 15%; và ở Trung Quốc là 18%.
Một
tiến bộ công nghệ lớn, chẳng hạn như việc áp dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo, có
thể giúp đảo ngược những xu hướng này. Nhưng ngay cả cuộc cách mạng AI cũng
không đảm bảo sẽ ngăn chặn suy thoái kinh tế. Thập kỷ mất mát của Nhật Bản là một
ví dụ rõ ràng cho điều này. Bùng nổ công nghệ thông tin vào giữa những năm 1990
đã mang lại cho một số quốc gia một sự gia tăng năng suất lớn, có quy mô tương
tự như những gì một số nhà kinh tế dự đoán cho cuộc cách mạng AI. Tuy nhiên, Nhật
Bản không nằm trong số những nước hưởng lợi. Năng suất tổng hợp của nước này, một
thước đo giá trị kinh tế của đổi mới và tiến bộ công nghệ, chỉ tăng 1% từ năm
1995 đến 2005, bằng một phần tư so với thập niên trước. Sự gia tăng khủng hoảng
già hóa của Nhật Bản trong giai đoạn đó là trung tâm của sự suy giảm tăng trưởng
năng suất này. So với số người từ 30 đến 39 tuổi và 50 đến 64 tuổi, nhóm người
Nhật Bản từ 40 đến 49 tuổi có năng suất cao đạt đỉnh vào năm 1991, sau đó giảm
mạnh 29% từ năm 1995 đến 2005. Do đó, cách mạng công nghệ thông tin có thể đã
giúp năng suất của Nhật Bản duy trì ổn định trước sự già hóa dân số nhanh
chóng, nhưng vì lực lượng lao động của nước này thiếu cơ cấu tuổi tối ưu, bùng
nổ công nghệ thông tin đã không dẫn đến sự gia tăng đáng kể về động lực kinh tế
tổng thể. Có lý do để mong đợi rằng các quốc gia có dân số già hóa tương tự sẽ
đối mặt với các vấn đề tương đương trong cuộc cách mạng AI.
Già
hóa dân số cũng sẽ cản trở sự mở rộng kinh tế từ phía nhu cầu. Tiêu dùng nội địa
mạnh mẽ chiếm khoảng hai phần ba hoạt động kinh tế ở hầu hết các quốc gia có
thu nhập cao. Vấn đề đối với các quốc gia già hóa là quy mô dân số có xu hướng
chi tiêu nhiều nhất (những người ở độ tuổi 40 hoặc gần đó) đang giảm, trong khi
tỷ lệ dân số có xu hướng chi tiêu ít hơn đáng kể (những người từ 65 tuổi trở
lên) đang tăng lên.
Ví
dụ, tiêu dùng yếu kém do ảnh hưởng của dân số già hóa đã góp phần vào sự suy
thoái của thị trường nhà ở Trung Quốc. Nhóm tuổi có khả năng mua nhà nhất (những
người khoảng 30 tuổi) đã giảm 30% kể từ năm 2020. Kết quả là, nhu cầu đã sụt giảm
nghiêm trọng, gây áp lực lớn lên tài sản hộ gia đình, khả năng tự tài trợ của
chính phủ thông qua thuế, và toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc.
Sự
chậm lại trong tăng trưởng kinh tế có thể sẽ dẫn đến các tranh chấp về các nguồn
lực ngày càng khan hiếm ở các quốc gia già hóa. Nhưng chúng cũng sẽ làm giảm khả
năng của các quốc gia đó tham gia chiến tranh với một quốc gia khác. Theo các
nhà kinh tế Mark Harrison và Nikolaus Wolf, số lượng các tranh chấp quân sự mà
các quốc gia đã khởi xướng trong lịch sử đã tăng lên cùng với sự mở rộng GDP và
GDP bình quân đầu người. Khi sức mạnh kinh tế của một quốc gia tăng lên, chi
phí tương đối để đạt được các mục tiêu quốc tế của nó giảm đi. Do đó, khi sức mạnh
kinh tế của một quốc gia tăng lên, nó có thể sẵn sàng hơn để tìm kiếm sự thay đổi
tốn kém, ngay cả bằng cách gây chiến. Nếu tăng trưởng kinh tế thường khiến các
quốc gia dễ hành động gây hấn hơn, thì ngược lại, tăng trưởng chậm lại do dân số
già hóa sẽ làm giảm khả năng xảy ra những hành vi gây hấn đó.
Chi
tiêu cho quân sự hay cho phúc lợi người già?
Khi
số lượng người cao tuổi tăng vọt, các nghĩa vụ của chính phủ đối với phúc lợi của
người cao tuổi, chủ yếu là lương hưu và chăm sóc sức khỏe, sẽ tăng lên. Các nhà
phân tích dự đoán rằng chi tiêu công của nhiều nước phát triển cho lương hưu,
chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi đang trên đà chiếm khoảng
25% GDP vào năm 2050. Những xu hướng này đang tác động đến cả các nền dân chủ
già hóa với hệ thống an sinh xã hội vững mạnh, lẫn các chế độ độc tài vốn có lịch
sử ít hào phóng hơn. Năm 2009, Trung Quốc chi 4,4% GDP cho lương hưu và chăm
sóc sức khỏe. Con số này tăng lên 8% vào năm 2020 và được dự báo sẽ tăng lên
hơn 10% vào năm 2030 và khoảng 20% vào năm 2050.
Chính
phủ chi hàng tỷ USD để đối phó không chỉ với hậu quả của dân số già hóa mà còn
với nguyên nhân của chúng. Các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD) chi trung bình 2,3% GDP cho các chương trình trẻ em và gia
đình, nhiều chương trình trong số đó được thiết kế để thúc đẩy tỷ lệ sinh (mặc
dù ít chương trình có hiệu quả đáng kể).
Dân
số già hóa nhanh chóng cũng gián tiếp chịu trách nhiệm về chi tiêu của chính phủ
cho an ninh nội địa và các chương trình phúc lợi cho người không cao tuổi vì
chúng đóng góp mạnh mẽ vào nhiều nguồn gốc chính của sự bất mãn gia tăng ở thế
giới phát triển, bao gồm tăng trưởng kinh tế chậm lại, thắt lưng buộc bụng,
căng thẳng sắc tộc và chống người nhập cư gia tăng, khi các nhóm thống trị lo sợ
sự suy tàn nhân khẩu học của họ. Để đối phó với tình trạng bất ổn gia tăng, nhiều
chính phủ cố gắng trấn áp các nhóm bất mãn hoặc xoa dịu họ thông qua các chương
trình xã hội. Ví dụ, Trung Quốc đã tăng gấp bốn lần chi tiêu cho cảnh sát và
giám sát nội địa từ năm 2007 đến 2020; đến năm 2020, các khoản chi này đã vượt
chi tiêu quân sự. Chi tiêu của Nhật Bản cho hỗ trợ lao động và việc làm, cứu trợ
nghèo đói và bảo trợ xã hội (không bao gồm chi tiêu cho người cao tuổi và chăm
sóc sức khỏe) đã tăng từ 0,5% lên 3,7% GDP từ năm 1990 đến 2020.
Khi
các quốc gia chi tiêu nhiều hơn để giải quyết các nguyên nhân và hậu quả của
già hóa, các khoản chi khác, bao gồm cả quân sự, có thể sẽ bị loại bỏ do ngân
sách ngày càng eo hẹp. Mặc dù các chính phủ không nhất thiết phải cắt giảm chi
tiêu quân sự để giúp chi trả cho chi phí phúc lợi người cao tuổi ngày càng
tăng, nhưng họ sẽ có những động lực mạnh mẽ để làm như vậy. Mặc dù chi tiêu
quân sự có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng lao động chưa được
sử dụng hết, kích thích tổng cầu và tài trợ nghiên cứu cuối cùng giúp các ngành
công nghiệp dân sự, nhưng như nghiên cứu của J. Paul Dunne và Nam Thiên đã chỉ
ra, nó có nhiều khả năng gây hại cho tăng trưởng dài hạn bằng cách giảm chi
tiêu cho các khoản đầu tư hiệu quả hơn và bằng cách góp phần vào mức nợ cao
hơn. Kết hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm và những ràng buộc ngân sách
chặt chẽ do chi phí phúc lợi cho người cao tuổi quá lớn, chi tiêu quân sự có thể
trở thành một nguồn lực hấp dẫn để tái phân bổ.
Phân
tích thống kê của các quốc gia dân chủ và độc tài chỉ ra rằng một khi chi tiêu
của chính phủ cho phúc lợi xã hội, bao gồm cả người cao tuổi, vượt quá 25%
trong tổng ngân sách của một quốc gia, khả năng quốc gia đó khởi xướng một cuộc
xung đột quân sự giảm đáng kể. Nhiều quốc gia già hóa đang ở ngưỡng hoặc đã vượt
qua ngưỡng này. Chi tiêu cho người cao tuổi, thất nghiệp và duy trì thu nhập
(và các khoản chi liên quan) chiếm trung bình gần 21% tổng chi tiêu của chính
phủ ở các quốc gia OECD vào năm 2021. Với việc các khoản chi này sẽ chỉ tăng
lên, các quốc gia này sẽ có những động lực ngân sách mạnh mẽ để tránh khởi xướng
các hành động quân sự.
Khan
hiếm quân nhân giỏi
Cách
cuối cùng mà dân số già hóa sẽ làm thế giới hòa bình hơn là bằng cách thu hẹp
quy mô nhóm tuổi sung sức nhất để phục vụ quân đội. Năm 2050, số người từ 18 đến
23 tuổi ở Đông Á sẽ giảm gần 48 triệu so với năm 2020, tương đương 42%; Mỹ
Latinh giảm gần 9 triệu người, tương đương 13%; và châu Âu sẽ giảm hơn 8 triệu
người, tương đương 17%. Nói một cách đơn giản, các quốc gia già hóa sẽ khó khăn
hơn trong việc huy động nhân lực cần thiết để chiến đấu trong các cuộc chiến
tranh kéo dài, đẫm máu.
Với
số lượng tân binh ở độ tuổi sung sức giảm, quân đội sẽ buộc phải đưa ra những
quyết định khó khăn về quy mô và chất lượng lực lượng chiến đấu của mình. Nếu họ
không tăng tỷ lệ tuyển quân khi số lượng binh lính tiềm năng giảm đáng kể, họ
khó có thể đạt được mục tiêu về nhân sự. Tuy nhiên, nếu quân đội tăng tỷ lệ tuyển
quân bằng cách nới lỏng các yêu cầu về tuổi tác, sức khỏe, khả năng thể chất và
tinh thần, họ sẽ hy sinh chất lượng để lấy số lượng. Họ cũng có thể cố gắng
tăng tỷ lệ tuyển quân bằng cách tăng lương và phúc lợi, như Nga đã làm trong cuộc
chiến ở Ukraine. Nhưng trừ khi tổng ngân sách quân sự tăng lên, chi phí lao động
trên mỗi binh lính tăng sẽ lấn át các lĩnh vực chi tiêu quân sự khác, bao gồm
phát triển, mua sắm và bảo trì vũ khí. Nếu các quốc gia ít có khả năng thắng
chiến tranh vì năng lực chiến đấu kém hơn, thì họ cũng sẽ ít muốn phát động chiến
tranh hơn.
Các
quốc gia già hóa với nguồn tuyển quân ngày càng thu hẹp liên tục gặp khó khăn
trong việc đạt được mục tiêu nhân sự quân sự mặc dù thường xuyên nới lỏng các
tiêu chuẩn và tăng bồi thường. Từ năm 2000 đến 2021, Nhật Bản trung bình chỉ lấp
đầy 93% vị trí nhân sự được cho phép. Mặc dù hạ thấp tiêu chuẩn nhập ngũ và
tăng đáng kể lương thưởng cho binh lính sau khi nhóm nam giới từ 18 đến 23 tuổi
của nước này bắt đầu suy giảm vào năm 2009, quân đội Trung Quốc vẫn tiếp tục
thiếu hụt binh lính có kỹ năng. Nga trong những năm 2010 liên tục không đạt được
mục tiêu tuyển quân cả lính nghĩa vụ và lính đánh thuê. Mặc dù những vấn đề
nhân sự này không ngăn cản Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022, nhưng việc thiếu
hụt binh lính chất lượng cao đã cản trở khả năng chiến đấu của nước này, khiến
việc thắng cuộc chiến trở nên khó khăn hơn. Nga vẫn tiếp tục chiến đấu ở
Ukraine, nhưng những khó khăn về nhân lực của nước này có thể giúp ngăn cản các
quốc gia già hóa khác gây chiến trong tương lai.
Các
quân đội có thể cố gắng khắc phục tình trạng thiếu hụt nhóm tuổi quân sự bằng
cách thay thế công nghệ cho nhân sự. Cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo, những
thành công gần đây của các đội drone, và khả năng của “robot sát thủ” có thể
làm cho việc thay thế công nghệ cho lao động quân sự quy mô lớn ngày càng hấp dẫn.
Nhưng vì nhiều nhiệm vụ quân sự vẫn sẽ đòi hỏi nhiều nhân lực, nên khả năng
quân đội dùng công nghệ thay thế cho con người sẽ có giới hạn. Chống nổi dậy và
các cuộc chiến cần chiếm đóng lãnh thổ kẻ thù sẽ tiếp tục đòi hỏi quân đội có đủ
nhân sự. Tỷ lệ sinh giảm khiến việc đáp ứng nhu cầu này trở nên khó khăn hơn.
Hơn
nữa, việc chuyển sang chiến tranh thâm dụng vốn để bù đắp cho dân số binh lính ở
độ tuổi sung sức giảm dần có thể sẽ đòi hỏi tuyển dụng nhân sự chất lượng cao
hơn để vận hành, sử dụng và bổ sung cho các thiết bị tinh vi hơn. Ví dụ, một
báo cáo năm 2022 của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ đã kết luận rằng các hệ thống
máy bay không người lái trong quân đội Mỹ có thể sẽ đòi hỏi số lượng quân nhân
tương đương hoặc thậm chí nhiều hơn so với các loại máy bay có người lái. Tìm
kiếm những binh lính có năng lực cao này sẽ khó khăn trong một thế giới dân số
già hóa.
Thế
hệ phản đối
Mặc
dù tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và nguồn lực quân sự giảm sút có thể khiến
quân đội của các nước già hóa yếu đi, từ đó dẫn đến quan hệ quốc tế hòa bình
hơn, nhưng điều ngược lại vẫn có thể xảy ra. Khả năng quân sự suy giảm có thể
thúc đẩy các nhà lãnh đạo nhìn thấy cơ hội cuối cùng để dùng vũ lực nhằm đạt được
mục tiêu quốc gia. Nhưng họ có thể sẽ đối mặt với áp lực đối trọng vì dân số
già hóa có xu hướng ưa chuộng hòa bình. Hàng thập kỷ dữ liệu khảo sát cho thấy
mọi người có xu hướng trở nên ôn hòa hơn và phản đối việc sử dụng vũ lực khi họ
già đi. Một phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2006 về các cuộc khảo
sát được thực hiện tại Mỹ từ đầu những năm 1960 đến giữa những năm 2000 kết luận
rằng “có một khoảng cách thế hệ về các cuộc can thiệp quân sự của Mỹ”, với người
Mỹ lớn tuổi luôn thể hiện “sự thận trọng cao nhất về việc sử dụng vũ lực quân sự”.
Tương tự, Jessica Chen Weiss cũng kết luận, dựa trên các cuộc khảo sát từ những
năm 2010, người dân Trung Quốc lớn tuổi ít có khả năng tin rằng Trung Quốc dựa
vào sức mạnh quân sự “quá ít”, và cũng ít xem sự hiện diện quân sự của Mỹ ở
Đông Á là “mối đe dọa lớn” hơn đáng kể so với những người trẻ tuổi.
Dân
số già hóa cũng có xu hướng phản đối việc binh lính của đất nước mình phải chết
trong chiến tranh hơn. Thương vong quân sự và cái chết của những người trẻ chưa
có con có thể làm tăng nỗi sợ hãi rằng chiến tranh sẽ làm suy yếu vĩnh viễn một
quốc gia vốn đã suy giảm dân số.
Sự
phản đối công khai ngày càng tăng đối với các cái chết và thương vong quân sự đặc
biệt quan trọng trong các nền dân chủ vì nó có thể gây nguy hiểm cho sự ủng hộ
của cử tri đối với các nhà lãnh đạo. Nhưng khi dân số già đi, điều đó cũng sẽ
quan trọng đối với các chế độ độc tài, những người có thể lo ngại rằng tổn thất
trong thời chiến có thể gây ra phản ứng dữ dội trong nước. Ví dụ, đến năm 2030,
gần một nửa nhóm tuổi quân sự chính của Trung Quốc sẽ là con một. Tỷ lệ sinh thấp
ở Trung Quốc đã dẫn đến sự tồn tại của hàng trăm nghìn cha mẹ shidu (mất con),
những người đã mất đứa con duy nhất mà chính phủ cho phép họ có theo hệ thống một
con cũ. Trong suốt những năm 2010, những cha mẹ này đã biểu tình hàng năm trước
trụ sở của Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình và Sức khỏe Quốc gia ở Bắc Kinh để yêu
cầu chính phủ cung cấp một số hỗ trợ mà họ lẽ ra đã mong đợi nhận được từ con
cái đã qua đời của họ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc càng có lý do để tin rằng
các bậc cha mẹ có con một bị mất con có khả năng biểu tình, thì họ càng thận trọng
hơn khi khởi xướng một cuộc chiến.
Hòa
bình nhờ dân số già
Lão
hóa dân số sẽ không xóa bỏ hoàn toàn chiến tranh, như cuộc xâm lược Ukraine của
Nga đã chứng minh. Nhưng nó sẽ làm giảm khả năng chiến đấu của các chính phủ hoặc
sự ủng hộ của công chúng đối với họ. Tất cả các quốc gia già hóa, bất kể tham vọng
xét lại hay sự phụ thuộc vào sự gây hấn quân sự, sẽ không có lựa chọn nào khác
ngoài việc đối mặt trực tiếp với những tác động của cuộc cách mạng nhân khẩu học
này. Nhân khẩu học đóng một vai trò lớn trong việc xác định những gì có thể về
kinh tế và quân sự. Già hóa, do đó, có thể sẽ trở thành một lực lượng mạnh mẽ
cho hòa bình chưa từng tồn tại trước đây.
------------------
MARK
L. HAAS
là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Duquesne. Ông là tác giả của cuốn
sách Hòa Bình Già Hóa: Dân Số Già Hóa và Sự Suy Giảm Chiến Tranh.
Nguồn: Mark L. Haas, “The Coming
Pax Geriatrica”, Foreign Affairs, 24/07/2025
============================
Tại sao các lệnh trừng phạt dầu mỏ không
còn tác dụng?
Gregory Brew - Foreign
Policy
Nguyễn
Thị Kim Phụng biên
dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/07/28/tai-sao-cac-lenh-trung-phat-dau-mo-khong-con-tac-dung/
Các
lệnh trừng phạt dầu mỏ đã không mang lại kết quả như mong đợi với Iran và Nga.
Sẽ là một sai lầm nếu thử áp dụng chúng với Trung Quốc.
Vào
tháng 6, trong lúc bom rơi xuống Tehran, một điều kỳ lạ đã xảy ra: xuất khẩu dầu
thô của Iran bất ngờ tăng vọt trong một thời gian ngắn. Dù bị tấn công, Iran vẫn
không hề chùn bước trong việc vận chuyển dầu – và các khách hàng của họ ở Trung
Quốc cũng không nản lòng khi tiếp tục mua dầu, bất chấp các lệnh trừng phạt.
Tổng
thống Mỹ Donald Trump có lẽ không muốn Israel ném bom các cơ sở năng lượng,
nhưng lý do cho thành công của Iran lại rất đơn giản: Các lệnh trừng phạt không
còn hiệu quả nữa. Chí ít là không như dự định ban đầu.
Các
lệnh trừng phạt được xem là công cụ cưỡng chế, gây ra thiệt hại kinh tế cho đến
khi một quốc gia phải thay đổi hành vi của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, các
quốc gia thường chống lại lệnh trừng phạt, chấp nhận gánh chịu chi phí trong
lúc tìm cách lách luật. Thay vì thay đổi hành vi của một quốc gia, các lệnh trừng
phạt thay đổi thị trường và định hình lại các quan hệ kinh tế, điều hướng dầu mỏ
đến các kênh được xây dựng dựa trên logic địa chính trị hơn là logic thương mại.
Giờ
đây, kỷ nguyên của trừng phạt dầu mỏ như một công cụ cưỡng chế đang dần đi đến
hồi kết. Dù nhiều người ở Washington vẫn muốn tăng cường trừng phạt như một
công cụ để phân tách khỏi Trung Quốc, nhưng sẽ hiệu quả hơn nếu chính sách của
Mỹ chuyển sang các công cụ khác, ít gây gián đoạn hơn.
Các
trường hợp của Iran và Nga đã minh họa sự thăng trầm của các lệnh trừng phạt dầu
mỏ như một công cụ ngoại giao kinh tế. Sau khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân
với Iran vào năm 2018, các lệnh trừng phạt được tái áp đặt đã khiến xuất khẩu dầu
của Iran sụt giảm khi các khách hàng truyền thống của nước này ở Tây Âu và Đông
Á chuyển sang các nguồn cung thay thế. Xuất khẩu của Iran thậm chí đã giảm gần
bằng 0 vào năm 2020 giữa đại dịch COVID-19.
Tuy
nhiên, sau khi các hạn chế liên quan đến đại dịch được dỡ bỏ, lượng dầu thô
Trung Quốc mua từ Iran đã tăng vọt, gần đây đã lên mức gần 2 triệu thùng/ngày,
và chỉ lượng dầu này đã để đủ đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của Iran trở lại gần
mức trước khi bị trừng phạt. Iran hiện cung cấp khoảng 14,6% tổng lượng dầu thô
nhập khẩu của Trung Quốc.
Thay
vì biến mất, thị trường dầu mỏ Iran đã được tái định hình theo thực tế mới mà
các lệnh trừng phạt đã tạo ra. Trong khi các khách hàng truyền thống vẫn e ngại
tiếp cận dầu mỏ Iran, thì mặt hàng này lại trở nên hấp dẫn hơn đối với những
người mua không bị ảnh hưởng bởi lệnh trừng phạt: cụ thể là các nhà máy lọc dầu
nhỏ hơn của Trung Quốc, thường được gọi là “ấm trà,” chuyên phục vụ nhu cầu nội
địa và chỉ giao dịch thông qua các kênh tài chính phi đô la. Với mong muốn có
được đòn bẩy đối với Tehran nhưng không muốn đẩy quan hệ đi xa hơn, Bắc Kinh đã
che giấu hoạt động thương mại này trong dữ liệu hải quan để duy trì khả năng phủ
nhận.
Khác
với các lệnh trừng phạt đối với Iran, các lệnh trừng phạt của Washington đối với
dầu mỏ Nga hồi năm 2022 đã nhắm vào tài chính của nước này hơn là dòng chảy dầu
thực tế. Các biện pháp như mức giá trần của G-7 là nhằm hạn chế khả năng kiếm
doanh thu của Nga mà không loại bỏ hàng xuất khẩu của Nga khỏi thị trường – điều
mà các nhà lãnh đạo phương Tây cho rằng sẽ tác động tiêu cực đến giá cả.
Nhưng
việc nhắm vào doanh thu của Nga đã không hiệu quả như mong đợi. Dù bị thắt chặt,
nhưng tài chính Nga vẫn chịu được áp lực, dù – giống như các nhà sản xuất khác
– Moscow đang phải vật lộn với giá dầu thấp. Sau khi bị đẩy ra khỏi châu Âu, thị
trường tự nhiên cho các sản phẩm của họ, Nga hiện đang vận chuyển dầu thô qua
các tuyến đường vòng đến châu Á, nơi các nhà máy lọc dầu đều có nhu cầu dầu thô
rất cao. Các lệnh trừng phạt cũng tạo ra những kẽ hở thương mại hấp dẫn cho Ấn
Độ, nơi các nhà máy lọc dầu mua dầu thô của Nga với mức chiết khấu cao rồi tái
xuất khẩu sang châu Âu, bỏ túi lợi nhuận đáng kể. Cũng giống như với Iran, Bắc
Kinh hưởng lợi từ việc ràng buộc năng lượng của Nga với thị trường nội địa rộng
lớn của mình, duy trì một nguồn đòn bẩy tiềm năng hữu ích trong quan hệ với
Moscow.
Trong
cả hai trường hợp, các lệnh trừng phạt đều không làm thay đổi hành vi của các
quốc gia. Iran đã thách thức áp lực từ Mỹ đối với chương trình hạt nhân của họ,
trong khi Nga vẫn không hề nhượng bộ trong vấn đề Ukraine. Những nỗ lực cô lập
cả hai nước – cùng với Venezuela – khỏi thị trường dầu mỏ toàn cầu chỉ khiến
các nhà sản xuất này phụ thuộc vào nhu cầu của Trung Quốc, và ngược lại, cung cấp
cho Bắc Kinh nguồn cung dầu thô và các sản phẩm khác.
Còn
có những tác động tiêu cực khác. Các lệnh trừng phạt, dù đã phần nào làm suy yếu
nền kinh tế Nga và Iran, nhưng về tổng thể lại củng cố chế độ chuyên chế ở hai
nước này. Dòng tiền giờ đây chảy vào túi của ít người hơn – tạo động lực cho
các thế lực thống trị các chế độ này duy trì các lệnh trừng phạt. Hơn nữa, các
lệnh trừng phạt có hiệu quả giảm dần. Khi mức độ tiếp xúc của họ với nền kinh tế
toàn cầu giảm xuống, Tehran và Moscow sẽ ít bị tổn thất hơn nếu các lệnh trừng
phạt tiếp theo được áp dụng. Dù Mỹ có tiếp tục triển khai các biện pháp mới dựa
trên sự hiểu biết về các mạng lưới dầu mỏ bất hợp pháp, thì họ cũng không thể
ngăn chặn hoàn toàn dòng chảy này.
Các
động thái chính sách gần đây của Mỹ đã cho thấy những thiếu sót này. Quyết định
của Trump về việc bật đèn xanh cho các cuộc tấn công vào Iran được xem là một sự
thừa nhận ngầm rằng áp lực kinh tế sẽ không khiến Tehran nhượng bộ (dù vẫn chưa
rõ liệu ném bom có hiệu quả hơn hay không). Trong khi đó, những lời đe dọa gần
đây của Trump về việc leo thang mạnh mẽ các lệnh trừng phạt và thuế quan đối với
Nga phần lớn được xem là một chiến thuật đàm phán.
Điều
này dẫn chúng ta đến một yếu tố hạn chế khác của các lệnh trừng phạt dầu mỏ: Nếu
mọi chuyện bị đẩy đi quá xa, Mỹ có nguy cơ gây sốc cho thị trường và đẩy giá
lên cao. Đó là lý do tại sao Trump khó có thể áp thuế 100% lên bất kỳ nước nào
mua dầu thô của Nga, cũng giống như ông đã tỏ ra không muốn nhắm vào dầu mỏ
Iran và có lẽ đã cảm thấy nhẹ nhõm khi cuộc chiến giữa Iran và Israel kết thúc
mà không gây gián đoạn nguồn cung.
Khi
tính hữu dụng của các công cụ cưỡng chế này giảm sút, đã đến lúc đặt câu hỏi về
lợi ích của các lệnh trừng phạt dầu mỏ. Ngay cả khi chúng không đạt hiệu quả
trong việc thay đổi hành vi của các quốc gia, một số người có thể lập luận rằng
các lệnh trừng phạt vẫn có thể hữu ích trong việc buộc Washington phải tách khỏi
Trung Quốc, quốc gia vẫn đang nhập khẩu một lượng lớn dầu mỏ và các sản phẩm
năng lượng khác từ Mỹ.
Tuy
nhiên, ngay cả trong khía cạnh này, các lệnh trừng phạt vẫn tiềm ẩn rủi ro. Dù
bị chia rẽ bởi các biện pháp của Mỹ nhắm vào Nga và Iran, thị trường dầu mỏ
toàn cầu vẫn giữ được tính thanh khoản, và gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến giá cả ở
tất cả các nước tiêu thụ dầu mỏ lớn. Mỹ và các đồng minh đã đẩy Nga và Iran vào
vòng tay của Trung Quốc (hay cụ thể hơn là các nhà máy lọc dầu Trung Quốc), và
những nỗ lực chống lại một chủ thể kinh tế như Trung Quốc – quốc gia nhập khẩu
năng lượng lớn nhất thế giới và tiêu thụ phần lớn nguồn cung dầu của thế giới –
sẽ không dễ dàng.
Hơn
nữa, việc phân tách thông qua các lệnh trừng phạt đòi hỏi Washington phải đe dọa
áp đặt các lệnh trừng phạt thứ cấp lên các bên liên quan ở Mỹ và châu Âu đang
giao thương với Trung Quốc. Các công ty năng lượng Mỹ hiện đang cung cấp hàng tỷ
đô la khí đốt tự nhiên, dầu thô, và các sản phẩm như ethane cho người tiêu dùng
Trung Quốc sẽ đột nhiên mất quyền tiếp cận thị trường tiêu thụ năng lượng lớn
nhất thế giới.
Dù
động thái này gây đau đớn cho Trung Quốc, nhưng nó cũng là thảm họa đối với các
nhà sản xuất Mỹ, vì nó sẽ gây dư thừa ở thị trường nội địa Mỹ và buộc các công
ty năng lượng phải thu hẹp quy mô ngay vào thời điểm mà họ đang bị bóp nghẹt bởi
giá thấp.
Thay
vì tiếp tục gia tăng sức ép, Washington nên đánh giá lại tính hữu ích của các lệnh
trừng phạt dầu mỏ, hoặc táo bạo hơn, nên cân nhắc từ bỏ hoàn toàn nỗ lực này. Với
Iran, Mỹ có thể dùng việc nới lỏng trừng phạt như một động lực để đưa nước này
tham gia vào một thỏa thuận hạt nhân, đồng thời thừa nhận rằng việc hạn chế
đáng kể khả năng xuất khẩu dầu mỏ của Iran (ngoài việc ném bom) là rất khó. Với
Nga, Mỹ nên thực hiện một bước đi tương tự, dựa nhiều hơn vào các biện pháp
thay thế, bao gồm mở rộng hỗ trợ cho Ukraine và nhắm mục tiêu vào xuất khẩu vũ
khí của Nga.
Đối
với cả Nga và Iran, Mỹ có thể tiếp tục sử dụng các lệnh trừng phạt có mục tiêu
nhằm hạn chế khả năng của các cá nhân, công ty, và cơ quan chính phủ trong các
mạng lưới tài chính phương Tây. Hành động này có thể không cắt giảm khả năng sản
xuất và xuất khẩu dầu của họ, nhưng sẽ hạn chế khả năng thu lợi nhuận lớn hơn từ
việc này. Nếu Mỹ cam kết phân tách với Trung Quốc, thì tốt hơn nên làm như vậy
thông qua các biện pháp được triển khai dần dần và có mục tiêu, chẳng hạn như
kiểm soát xuất khẩu và hàng rào thuế quan có chọn lọc, và phối hợp với các đồng
minh để quản lý quá trình phân tách theo cách không gây ra sốc giá cho người
tiêu dùng.
Các
lệnh trừng phạt dầu mỏ vẫn có thể được duy trì, nhưng việc cho rằng chúng sẽ
thay đổi hành vi của Iran hay Nga một cách có ý nghĩa là một lầm tưởng cần phải
từ bỏ. Đồng thời, Washington và các đồng minh nên nhận ra thực tế mới – các lệnh
trừng phạt đã tái định hình thị trường dầu mỏ toàn cầu, đẩy Iran và Nga xích lại
gần Trung Quốc hơn, và chia cắt các dòng chảy năng lượng toàn cầu theo những
tuyến đường địa chính trị thay vì thương mại.
Gregory
Brew là nhà phân tích cấp cao thuộc nhóm năng lượng, khí hậu, và tài nguyên của
Eurasia Group, tập trung vào địa chính trị dầu khí. Ông cũng là chuyên gia phân
tích Iran của tổ chức này. Ông là một sử gia về dầu mỏ, Chiến tranh Lạnh, Iran
hiện đại, và Trung Đông. Quan điểm được trình bày ở đây là của riêng ông.
============================
Tối
hậu thư chấm dứt chiến tranh của Donald Trump có khiến Putin lo sợ ?
Anh
Vũ - RFI
Đăng
ngày: 30/07/2025 - 15:12
Liệu tối hậu
thư mới nhất của Donald Trump có khiến Vladimir Putin lo sợ ? Câu trả lời, theo
nhiều chuyên gia, là không. Dù giọng điệu từ Nhà Trắng ngày càng cứng rắn,
nhưng các yếu tố thực tế cho thấy khả năng tác động đến điện Kremlin là rất hạn
chế.
HÌNH
:
Lực
lượng cứu hộ tại một bệnh viện bị hư hại do bom dẫn đường của Nga. Ảnh chụp ở
Kharkiv, Ukraina, ngày 25/07/2025. AP - Andrii Marienko
Đầu
tuần này, hôm 28/07/2025, trong chuyến công du Scotland, tổng thống Mỹ Donald
Trump đã đưa ra một tối hậu thư mới dành cho người đồng cấp Nga, yêu cầu trong
vòng « 10 đến 12 ngày » phải chấm dứt xung đột tại Ukraina, nếu
không sẽ đối mặt với những đòn trừng phạt kinh tế khắc nghiệt. Trước đó, hôm
14/07 ông Trump đưa ra thời hạn 50 ngày. Hai tuần sau ông nhận thấy «
không có lý do gì chờ đợi » khi không thấy có « tiến
triển gì ».
Việc
Trump rút ngắn thời hạn ấn định ông chủ Điện Kremlin phải chấm dứt chiến tranh
cho thấy ông đã mất kiên nhẫn, chuyển sang gia tăng áp lực, nhưng hiệu quả thực
tế lại là một dấu hỏi lớn.
Thực
tế, đây không phải là lần đầu tiên Nga đối mặt với những tối hậu thư từ phương
Tây. Từ đầu cuộc chiến tranh tại Ukraina đến nay, đã có nhiều tuyên bố cứng rắn
từ Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu được đưa ra, nhưng chưa lần nào khiến tổng thống
Putin thay đổi đường lối.
Lần
này, Donald Trump có ý định nhắm vào các đối tác kinh tế của Vladimir Putin. Đứng
đầu là các quốc gia nhận nguồn cung cấp dầu lửa từ Nga: Ấn Độ và Trung Quốc.
David Teurtrie, giảng viên khoa học chính trị tại Viện nghiên cứu cao học Công
giáo (ICES) tại Pháp nhấn mạnh rằng Nga đã luôn biết tìm ra cách thích nghi, thậm
chí lách các lệnh trừng phạt để tiếp tục xuất khẩu dầu khí, nguồn thu chủ lực của
nền kinh tế để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh đến nay đã kéo dài hơn 3
năm.
Sự
thay đổi này của tổng thống Mỹ, phải được đặt trong bối cảnh là Liên Hiệp Châu
Âu và Hoa Kỳ đạt được thỏa thuận thuế quan hôm Chủ Nhật. « Rất có thể Ủy
Ban Châu Âu đã yêu cầu nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ tăng cường sức ép với điện
Kremlin », chuyên gia David Teurtrie nhận định.
Có
điều là không ai dám chắc Donald Trump thực sự có khả năng thực hiện lời đe dọa
của mình hay không.
Ông
Trump được giới quan sát mô tả là một người chơi bài poker, sẵn sàng tố lớn,
tung hỏa mù, nhưng không phải lúc nào cũng hành động. Sự thiếu nhất quán trong
các quyết sách đối ngoại trước đây khiến tối hậu thư lần này có phần giống một
đòn tâm lý hơn là chiến lược cụ thể. Chính vì thế, điện Kremlin không xem lời
đe dọa của ông Trump là nghiêm túc, phải quan tâm cấp bách.
Mặt
khác, nếu thực hiện lời đe dọa bằng cách đánh thuế 100% đối với hàng hóa từ Ấn
Độ và Trung Quốc vì hai nước này nhập dầu của Nga, Mỹ có thể tự đẩy mình vào thế
khó. Nga hiện là một trong những quốc gia xuất khẩu năng lượng lớn nhất thế giới.
Việc bóp nghẹt nguồn dầu mỏ từ Nga có nguy cơ làm thị trường toàn cầu bất ổn và
người tiêu dùng Mỹ cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng.
Về
phía Nga, các dấu hiệu từ thực địa chiến trường cho thấy Matxcơva không hề có ý
định lùi bước. Các cuộc không kích dữ dội vào Ukraina ngay sau ngày ông Trump
tuyên bố tối hậu thư khiến hàng chục dân thường thiệt mạng là câu trả lời rõ
ràng của Matxcơva. Các lãnh đạo Nga xem cuộc xung đột hiện nay là một phần của
cuộc đối đầu dài hơi với phương Tây và việc nhượng bộ trước một tối hậu thư có
khác gì là đầu hàng, được xem là điều không thể chấp nhận về mặt chiến lược.
Trong
bối cảnh đó, nhiều chuyên gia nhận định rằng thay vì đe dọa, điều có thể thay đổi
cục diện chiến trường chính là viện trợ quân sự. Theo các chuyên gia, cách duy
nhất để thực sự gây sức ép với Nga là giúp Ukraina mạnh hơn trên chiến trường.
Tối
hậu thư của Donald Trump có thể tạo ra hiệu ứng truyền thông, gây tiếng vang
trên chính trường quốc tế, nhưng để khiến Vladimir Putin lo sợ và thay đổi thì
phải cần nhiều hơn những lời đe dọa. Trong khi đó, ông Trump ngày càng tỏ ra
lúng túng không biết làm thế nào để giữ được lời hứa với cử tri của mình
là : không chi thêm « một xu » viện trợ quân sự
cho Kiev mà vẫn làm chấm dứt cuộc chiến Nga-Ukraina.
---------------------------
Các
nội dung liên quan
Châu
Âu và những gói trừng phạt “vô dụng” nhắm vào Nga
TT
Mỹ Donald Trump rút ngắn thời hạn, cho Putin 10-12 ngày để đạt thỏa thuận ngừng
bắn với Ukraina
No comments:
Post a Comment