Tại sao Việt Nam không có truyền thống triết học?
Jul
30, 2025
https://vhlinh.substack.com/p/tai-sao-viet-nam-khong-co-truyen
Khi
ta nhìn lại bản đồ triết học nhân loại, có những trung tâm tư tưởng đã sản sinh
ra các hệ thống triết học khổng lồ mà ở đó, mỗi phạm trù được mổ xẻ, mỗi luận đề
được đào sâu, và những khái niệm trừu tượng nhất được hình thức hóa đến tận
cùng logic của lý tính con người. Ấn Độ có các hệ phái Vedanta, Samkhya, Duy thức,
Trung quán; Hy Lạp đã sản sinh Socrates, Plato, Aristotle, và từ châu Âu sau
này có các tên tuổi như Descartes, Kant, Hegel và Nietzsche; Trung Hoa định
hình nên Nho gia, Đạo gia, Pháp gia và những hệ vũ trụ luận Đông phương dày đặc.
Nhưng nếu ta thử truy tìm trong lịch sử Việt Nam một hệ thống triết học tự
thân, có cấu trúc khái niệm độc lập, có chiều sâu bản thể luận, nhận thức luận,
và có thể hội thoại ngang tầm với các truyền thống triết học kia, thì câu trả lời
rõ ràng là chưa có.
Tuy
vậy, sự thiếu vắng ấy không có nghĩa rằng Việt Nam là vùng đất không có tư duy.
Trái lại, Việt Nam có một di sản minh triết phong phú, những tư tưởng nhân sinh
đầy trực giác và những nhân vật văn hóa xuất chúng. Vấn đề nằm ở chỗ, những
dòng tư duy ấy thường mang tính kinh nghiệm, thực tiễn, linh hoạt và đạo lý ứng
xử hơn là hệ thống hóa thành các cấu trúc lý luận trừu tượng. Ở đây xuất hiện một câu hỏi then chốt
mà bài viết này sẽ đi tìm lời giải: Vì sao Việt Nam chưa hình thành nên một
truyền thống triết học hệ thống? Và (gần như) không có triết gia?
Để
trả lời câu hỏi này, trước hết cần hiểu triết học hệ thống là gì, và điều kiện
nào thường giúp nó hình thành trong lịch sử tư tưởng thế giới. Triết học hệ thống
là loại triết học có năng lực khái niệm hóa thế giới ở mức độ trừu tượng rất
cao, hình thành nên các phạm trù bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận,
chính trị luận… liên kết với nhau thành hệ thống chặt chẽ. Không phải mọi nền
tư tưởng đều có khả năng tiến hóa đến cấp độ này. Để sản sinh ra những hệ thống
như vậy, thường cần đồng thời hội tụ nhiều yếu tố: ngôn ngữ triết học phong
phú, không gian tự trị cho trí tuệ, những cuộc tranh luận nội bộ lâu dài giữa
các trường phái, nhu cầu hệ thống hóa tư duy để lý giải các khủng hoảng nhận thức
nội bộ, và một nền chính trị ổn định đủ dài cho sự kết tinh ấy diễn ra. Và nếu
nhìn vào các yếu tố đó, thì dường như Việt Nam đều thiếu.
Trước
hết là về mặt ngôn ngữ. Trong lịch sử triết học, ta thấy mỗi nền văn minh đạt tới
triết học hệ thống đều phát triển trước tiên một hệ ngôn ngữ triết học mạnh mẽ.
Ấn Độ có Sanskrit, với những thuật ngữ sắc bén để mô tả các phạm trù siêu hình
như Brahman, Atman, Samsara, Nirvana. Hy Lạp có hệ từ vựng triết học vô cùng
phát triển xoay quanh logos, physis, arche, ousia, episteme. Trung Hoa hình
thành nên bộ khái niệm Âm Dương, Ngũ Hành, Đạo, Lễ, Nhân, Nghĩa, v.v... Chính
khả năng tạo lập ngôn ngữ trừu tượng ấy giúp các tư tưởng gia có công cụ tư duy
sắc bén để đi vào các tầng sâu nhất của hiện hữu.
Song
song với đó, các nền triết học hệ thống đều cần có những không gian học thuật đủ
tự do để những câu hỏi khó nhất về thế giới được đặt ra mà không bị kiểm duyệt
hay bóp nghẹt bởi quyền lực chính trị hoặc giáo điều tôn giáo. Hy Lạp cổ điển
có Athens - cái nôi của các cuộc tranh biện mở giữa các trường phái; Ấn Độ có
Nalanda - trung tâm học thuật nơi các phái Phật giáo lẫn không phải Phật giáo
có thể tranh luận công khai suốt nhiều thế kỷ; Trung Hoa có thời kỳ Bách gia
chư tử rực rỡ trước khi nhà Tần thống nhất quyền lực. Tự do học thuật không chỉ
đơn thuần là quyền nói mà còn là quyền truy vấn đến tận nền tảng của các giả định
siêu hình.
Một
điều kiện quan trọng khác là nhu cầu hệ thống hóa tư duy, thường phát sinh từ
những khủng hoảng lớn về chính trị, tôn giáo, hay nhận thức. Các hệ thống như
Vedanta, Trung quán, biện chứng pháp Hegel hay siêu hình học Aristotelian đều
xuất hiện trong những bối cảnh tranh luận gay gắt giữa các trường phái, khi các
mâu thuẫn nhận thức đẩy con người buộc phải kiến tạo những cấu trúc lý luận
ngày càng tinh vi để dung hòa hoặc vượt qua chúng. Ngoài ra, không có triết học
hệ thống nào mà không có truyền thống phê phán nội bộ mạnh mẽ giữa các thế hệ học
giả kế tiếp nhau. Từ Socrates đến Plato rồi Aristotle; từ Nagarjuna (Long Thọ)
đến Vasubandhu (Thế Thân); từ Lão Tử đến Trang Tử, từ Chu Hy tới Vương Dương
Minh… tất cả đều phát triển trong không khí tranh luận và phản biện học thuật
liên tục, người đời sau phản bác người đời trước, trường phái này phê phán trường
phái kia.
Sau
cùng, triết học hệ thống cần một mức độ ổn định chính trị tương đối để có thể
duy trì các chuỗi truy vấn lâu dài. Một xã hội hỗn loạn, triền miên chiến tranh
và thay đổi quyền lực sẽ không đủ năng lượng và thời gian để duy trì các cộng đồng
học thuật cần thiết cho việc kiến tạo triết học hệ thống.
Khi
đặt những tiêu chuẩn đó vào hoàn cảnh Việt Nam, lý do vì sao đất nước ta chưa sản
sinh ra hệ triết học hệ thống trở nên dễ hiểu hơn. Về mặt địa lý và lịch sử, Việt
Nam từ lâu đã là một nền văn minh giao lộ, luôn nằm ở vùng biên của các siêu
văn minh khác như Trung Hoa, Ấn Độ và sau này là phương Tây. Trong suốt chiều
dài lịch sử, dân tộc này liên tục phải đối mặt với các thử thách ngoại xâm, các
cuộc nội chiến, và quá trình thuộc địa hóa kéo dài. Sự vận động văn hóa chủ yếu
diễn ra dưới dạng tiếp nhận, dung hợp, thích ứng và sinh tồn hơn là phát triển
những hệ hình lý luận trừu tượng mang tính khái quát phổ quát. Thực dụng sinh tồn
trở thành phương thức tư duy chủ đạo, còn trầm tư siêu hình trở thành thứ xa xỉ.
Ảnh
hưởng kéo dài của Hán học càng củng cố thêm cấu trúc tư duy trọng thực tiễn
này. Hệ thống giáo dục quan lại Việt Nam, trong hơn một nghìn năm, chịu ảnh hưởng
sâu sắc từ hệ tư tưởng Nho giáo, mà bản thân Nho giáo vốn đặt trọng tâm vào trị
quốc, vào đạo lý ứng xử hơn là bản thể luận và nhận thức luận thuần túy. Sĩ phu
Việt Nam học Nho không phải để phát triển lý luận, mà để tham gia vào bộ máy
quan lại và duy trì trật tự xã hội. Không có những cuộc tranh luận lý thuyết
gay gắt giữa các phái như Lý học - Tâm học từng có trong chính nội bộ Nho giáo
Trung Hoa. Triết học biến thành các nguyên tắc đạo đức cho cuộc sống của giới
tinh hoa hơn là hệ hình tư duy siêu hình.
Mặt
khác, nền văn hóa dân gian Việt Nam vốn rất giàu chất minh triết nhưng lại mang
nặng tính kinh nghiệm luận. Ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam đầy ắp những
câu triết lý đời sống như "ở hiền gặp lành", "một điều nhịn chín
điều lành", "có công mài sắt, có ngày nên kim", phản ánh những
triết lý sống thực tiễn, cân bằng, khôn ngoan ứng xử, giàu nhân bản, nhưng
không phát triển thành các hệ thống lý luận trừu tượng mà chỉ đơn giản là đúc kết
kinh nghiệm cuộc sống. Thậm chí ngay cả khi Phật giáo Thiền tông du nhập, nó
cũng nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng bản địa thành thực hành tâm linh, hơn
là hình thành các hệ thống tư duy lý luận trừu tượng kiểu Trung quán hay Duy thức
như ở Ấn Độ hay Tây Tạng.
Sự
thiếu vắng các truyền thống tranh luận nội bộ liên thế hệ là một lý do then chốt
khác. Triết học hệ thống chỉ trưởng thành qua những cuộc đối thoại kéo dài giữa
các trường phái đối lập, giúp các phạm trù tư duy được mài sắc dần qua các thế
hệ. Ở Việt Nam, rất hiếm khi có các trường phái triết học khác biệt nội bộ tồn
tại song song để thúc đẩy những tranh luận như thế. Ngay cả trong Phật giáo, dù
từng có những dòng thiền song song cùng tồn tại trong lịch sử dân tộc nhưng
chúng ta không thấy các tranh luận giữa họ được ghi lại. Hay điều tương tự có
thể nói về việc hoàn toàn vắng bóng những cuộc tranh luận Phật- Nho- Lão trong
suốt 1000 năm độc lập của dân tộc.
Lịch
sử bạo lực kéo dài càng làm cho triết học khó có cơ hội nảy mầm. Từ các cuộc
chiến tranh giữ nước chống phương Bắc, đến nội chiến Trịnh - Nguyễn, rồi các cuộc
chiến tranh thuộc địa, chiến tranh thế giới, chiến tranh chống Pháp- Mỹ- Trung
Quốc-Khmer Đỏ, Việt Nam luôn phải ưu tiên dành nguồn lực cho sự sinh tồn chính
trị và quân sự. Trong các bối cảnh ấy, những nỗ lực xây dựng triết học hệ thống
trở thành xa xỉ. Tầng lớp trí thức phần lớn phải trở thành nhà lãnh đạo, nhà quản
lý, nhà quân sự, nhà khoa học nặng tính ứng dụng, bác sĩ hoặc nhà giáo dục hơn
là các triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một số ít người có tư chất và thiên hướng
thực sự để trở thành triết gia như Trần Đức Thảo thì cũng phải chọn con đường
khác khi trở về Việt Nam cống hiến cho cách mạng.
Bước
vào thế kỷ20, quyền tự do tư tưởng tiếp tục bị giới hạn trong các hệ hình chính
trị mới. Triết học hệ thống đòi hỏi khả năng truy vấn đến tận cùng các giả định
nền tảng, kể cả những điều cấm kỵ nhất về bản thể, nhận thức, đạo đức và quyền
lực. Nếu quyền tự do học thuật bị kiểm soát chặt chẽ, triết học rất khó vươn
lên khỏi vai trò minh họa cho hệ tư tưởng sẵn có. Và dù muốn dù không thì thực
tế là có sự kiểm soát mạnh mẽ quyền tự do học thuật ở Việt Nam trong hầu hết lịch
sử thế kỷ 20.
Bên
cạnh những yếu tố lịch sử và thể chế, có lẽ cần nhìn vào một khía cạnh sâu hơn
từ tính cách văn hoá dân tộc: người Việt về tổng thể ít quen vận hành trong các
hệ thống tư duy trừu tượng-phổ quát kéo dài, như kiểu triết học hệ thống phương
Tây vốn đòi hỏi sự kiên trì xây dựng khái niệm tầng lớp, định nghĩa chuẩn xác
và tranh luận logic qua nhiều thế hệ học thuật. Văn hoá tư duy Việt Nam quen với
sự linh hoạt, uyển chuyển, thực dụng trong ứng xử đời sống, coi trọng "lẽ
phải đời thường" hơn là khái niệm tuyệt đối, sự “du di” “chín bỏ làm mười”
hơn là tính chặt chẽ và nghiêm khắc trong lý luận, logic…
Tuy
vậy, ở đây lại có thể có một nghịch lý thú vị: đó là Việt Nam vẫn có thể sản
sinh ra khá nhiều nhà toán học đỉnh cao nhưng lại hầu như không có ai xứng đáng
được gọi là triết gia (với ngoại lệ có lẽ chỉ có Trần Đức Thảo). Điều này có lẽ
là vì toán học — dù rất trừu tượng — vận hành theo bộ luật nội tại khép kín, ít
phụ thuộc vào không gian công luận xã hội. Trong khi đó, triết học hệ thống lại
luôn gắn chặt với điều kiện phát triển văn hoá công khai tranh luận, tự do phản
biện, xây dựng luận đề xuyên thế hệ và cần không gian phản biện và tranh luận —
những điều mà Việt Nam hiện chưa tích lũy được đủ lâu dài và ổn định. Vì vậy,
nghịch lý "giỏi toán nhưng thiếu triết gia" thực chất phản ánh sự
khác biệt sâu xa giữa loại hình năng lực cá nhân đóng kín và năng lực xây dựng
cộng đồng tư duy công khai. Nói cách khác dễ hiểu hơn, các tinh hoa trí tuệ sắc
sảo của Việt Nam sẽ chọn cách học Toán và tự do trong môi trường đó, chứ không
phải nghiên cứu Triết học và gặp vô số những giới hạn cho khả năng phát triển của
họ.
Mặc
dù vậy, nếu nhìn lại bề dày lich sử thì trong dòng chảy tư tưởng Việt Nam vẫn
có những tia sáng le lói phản ánh tiềm năng triết học ẩn tàng. Nguyễn Trãi ở thế
kỷ 15, với triết lý nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo, đã nêu ra tư tưởng trị
quốc rất đặc sắc, coi dân làm gốc, quyền lực chính trị phải thuận theo đạo lý
trời đất. Đây là một dạng tư duy chính trị nhân bản sớm, dù chưa hệ thống hóa
thành học thuyết chính trị trừu tượng như Hobbes hay Rousseau. Một vài nhà tư
tưởng khác cũng có những đóng góp nhất định và rải rác như Chu Văn An, Lê Quý
Đôn nhưng không đủ để tạo thành hệ thống hay một trường phái riêng của mình,
khác với các Nho gia lớn của Trung Quốc như Chu Hy, Trình Di, Vương Dương Minh…
Sang
thế kỷ 20, Linh mục Kim Định cố gắng thiết lập một triết học bản địa qua Việt
Nho, Triết lý An Vi, nỗ lực phân biệt Việt Nho với Hán Nho. Ông đề xuất những hệ
hình tư duy xoay quanh hài hòa âm dương, bản thể vũ trụ quân bình, trực giác
tâm linh Lạc Việt. Dù công trình của ông còn gây tranh cãi về mặt sử liệu và hệ
thống hóa, nhưng đây là nỗ lực hiếm hoi nhằm xây dựng hệ thống khái niệm bản địa
có tính bản thể luận. Những ảnh hưởng của ông đôi khi lại thấy xuất hiện sau
này trong các ý tưởng của các nhà nghiên cứu hậu sinh, nhất là trong mảng văn
hóa.
Nổi
bật hơn cả là trường hợp Trần Đức Thảo. Được đào tạo bài bản tại Pháp, đối thoại
trực tiếp với Husserl, Sartre, Merleau-Ponty, Trần Đức Thảo nỗ lực xây dựng hệ
thống triết học kết hợp hiện tượng luận, duy vật biện chứng và nghiên cứu ngôn
ngữ để lý giải nguồn gốc ý thức. Tác phẩm Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật
biện chứng của ông từng được đánh giá cao tại Pháp. Dù sự nghiệp sau đó gặp nhiều
thăng trầm, ông vẫn lặng lẽ tiếp tục các nghiên cứu triết học nền tảng, để lại
những công trình độc đáo về sự chuyển hóa từ bản năng động vật sang ý thức ngôn
ngữ con người.
(Trần
Đức Thảo- có lẽ là triết gia người VN duy nhất trong lịch sử cho tới hiện nay).
Bên
cạnh các trường hợp cá nhân, cũng cần kể đến các học giả như Nguyễn Đăng Thục,
Cao Xuân Huy, Lê Thành Khôi, những người đã nỗ lực nghiên cứu hệ thống tư tưởng
Đông phương, cấu trúc văn hóa Việt Nam từ các góc nhìn triết học - văn hóa học.
Dù các công trình này chưa hình thành hệ thống lý luận chặt chẽ, nhưng đã mở ra
nhiều tọa độ tri thức quan trọng cho thế hệ học giả sau.
Phạm
Công Thiện lại là một trường hợp đặc biệt. Ông có thể được xem như một triết
gia tự do, nhưng không phải triết gia theo nghĩa hàn lâm Tây phương. Triết học
của ông vận hành chủ yếu như một đời sống nội tâm siêu nghiệm, giàu chất trực
giác thiền học và phóng khoáng tinh thần phương Đông, hấp thụ nhanh nhạy nhiều
nguồn tư tưởng từ Heidegger, Nietzsche đến Thiền tông, Nagarjuna (Long Thọ),
Krishnamurti. Tác phẩm nổi bật của ông như Ý thức mới trong văn nghệ và triết học
(1965) từng lay động giới trẻ miền Nam như một tuyên ngôn giải phóng tâm thức
giữa thời chiến. Thế nhưng, chính vì vận hành như một tư duy siêu nghiệm cá
nhân, Phạm Công Thiện không trở thành một triết gia đúng nghĩa theo cách hệ thống
hóa triết học một cách chặt chẽ.
Trong
các nỗ lực tư duy độc lập ở Việt Nam hậu chiến, cũng cần nhắc đến trường hợp
Nguyễn Trần Bạt. Tuy không phải là triết gia hàn lâm theo nghĩa phương Tây,
Nguyễn Trần Bạt lại nổi lên như một trong số hiếm hoi những cây viết có tư duy
phản tỉnh sâu sắc về quyền lực, tự do, đạo đức và phát triển trong bối cảnh Việt
Nam đương đại. Tuy các lập luận của Nguyễn Trần Bạt chưa tiến đến cấp độ hệ thống
triết học với cấu trúc bản thể luận và nhận thức luận như các triết gia phương
Tây và thiếu tính hệ thống, nhưng ông đã góp phần quan trọng trong việc mở ra
không gian phản tỉnh, thúc đẩy những câu hỏi nền tảng về đạo đức chính trị và
triết lý phát triển, vốn là những vấn đề mà xã hội Việt Nam còn né tránh.
Vậy,
tương lai của triết học Việt Nam thế nào? Liệu chúng ta sẽ có được những người
có thể được gọi một cách xứng đáng là các triết gia, chứ không phải các “nhà
nghiên cứu triết học” hay các “giảng viên triết học” trong nửa đầu thế kỷ 21
hay không?
Trong
thế kỷ 21, cơ hội hình thành triết học hệ thống tại Việt Nam đang mở ra những
viễn cảnh khả dĩ mà các thế hệ tiền nhân chưa từng có. Người Việt hôm nay có khả
năng tiếp cận đồng thời các hệ thống tư tưởng Đông – Tây – Kim – Cổ. Từ Kant,
Hegel, Heidegger đến Nagarjuna, Duy Thức, Lão Tử, tất cả đều nằm trong tầm tay
của người nghiên cứu. Toàn cầu hóa tri thức cho phép những cuộc hội thoại liên
văn hóa sâu sắc, kết hợp nhiều truyền thống tư tưởng đa dạng. Không gian tự do
học thuật cũng đã mở rộng hơn đáng kể, dù chưa tuyệt đối, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các nghiên cứu triết học liên ngành, vượt hệ tư tưởng.
Tuy
nhiên, trở ngại lớn nhất vẫn còn đó: thiếu vắng một cộng đồng triết học đích thực.
Triết học hệ thống không thể hình thành từ vài hội thảo học thuật, vài bài báo
thời thượng hay những khóa học mùa hè mang tính đại trà cho công chúng. Nó đòi
hỏi những thế hệ học giả dấn thân trọn đời cho công trình xây dựng hệ thống phạm
trù, cho các cuộc đối thoại nội bộ dài hạn, và cho nỗ lực kiến tạo ngôn ngữ triết
học mới. Việt Nam vẫn thiếu các trung tâm triết học thuần túy, phi công cụ hóa,
phi chính trị hóa; thiếu các diễn đàn học thuật có sức bền nội tại; thiếu các
cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các hệ hình tư tưởng cạnh tranh trong chính nội
bộ.
Nếu
triết học hệ thống Việt Nam có thể hình thành, rất có thể nó sẽ xuất phát từ một
số trục chính. Một hướng đi khả dĩ là triết học văn hóa Việt Nam, khai thác chiều
sâu của các lớp trầm tích văn hóa bản địa như Đạo Mẫu, tín ngưỡng làng xã, tâm
linh nông nghiệp, kết hợp với Nho - Lão - Phật đã dung hợp từ lâu trong đời sống
dân tộc. Một hướng đi khác là triết học Đông - Tây liên ngành, nơi các phạm trù
bản thể luận, nhận thức luận, siêu hình học phương Tây hội thoại với minh triết
Đông phương. Một hướng khả thể đáng lưu ý cho sự hình thành tư duy phát triển nội
sinh lâu dài của Việt Nam nằm ở việc khai triển triết học Phật giáo dân tộc.
Khác với nhiều nền Phật học hệ thống hóa từ Ấn Độ hay Tây Tạng, truyền thống Phật
giáo Việt Nam trải qua hàng nghìn năm đã phát triển thành một dạng minh triết
sinh tồn mềm dẻo, kết hợp giữa tư duy Trung quán, Duy thức và năng lực thích
nghi thực tiễn với điều kiện lịch sử bất định. Và cuối cùng, trong bối cảnh
nhân loại đang bước vào thế kỷ hậu nhân loại với sự trỗi dậy của AI, sinh học tổng
hợp và khủng hoảng sinh thái toàn cầu, người Việt cũng có thể góp phần vào những
cuộc thảo luận triết học về ý nghĩa của con người, của sự sống và của vận mệnh
sinh tồn trong thời đại bất định này.
Triết
học hệ thống, nếu có thể hình thành tại Việt Nam, sẽ không thể vội vàng. Nó là
giấc mơ của nhiều thế hệ. Có thể cần tới năm mươi năm, thậm chí một thế kỷ
tranh luận học thuật bền bỉ, kiên nhẫn xây dựng cộng đồng trí thức, và dám dấn
thân vào những cuộc truy vấn cam go về nền tảng tư duy. Nhưng nếu điều đó xảy
ra, triết học Việt Nam có lẽ sẽ không đơn thuần lặp lại các hệ hình cũ, mà có
thể trở thành một bản thể độc đáo, như chính vị thế giao lộ phức hợp và bền bỉ
sinh tồn của dân tộc Việt giữa dòng chảy văn minh nhân loại.
No comments:
Post a Comment