27/7:
THÊM MỘT DỊP LÒNG NGƯỜI LY TÁN hay CƠ HỘI HÀN. GẮN VẾT THƯƠNG LÒNG - THÚC ĐẨY ĐẠI
ĐOÀN KẾT ?
(
Trở lại với tư tưởng Hoàng Xuân Hãn để hướng đến một nền VĂN HOÁ DÂN TỘC ĐOÀN KẾT
- THỐNG NHẤT, RỘNG MỞ THAY VÌ TÔN THỜ CHỦ NGHĨA )
Ngày
27/7 lại về. Đối với người Việt đây là một ngày gây các tâm trạng nhiều cung bậc,
thậm chí hết sức trái ngược : từ xúc động đến thờ ơ, từ suy tư, ám ảnh đến bất
bình, phẫn nộ…
Trước
hết tôi xin được dẫn lại cảm nghĩ của một người bạn Facebook, thế hệ 5x :
“Ngày
mai là 27 tháng Bảy – lòng bỗng trùng xuống. Có lẽ không chỉ riêng mình. Có thể
trong ai đó ở nơi nào đó, cũng như ở đây, đều có một nỗi nhớ không gọi tên – về
một người thân, một người đã không còn trở lại sau chiến tranh. Mình không biết
rõ vì sao lại cảm thấy chênh vênh đến thế mỗi khi đến ngày này. Chỉ biết, có những
vết thương lịch sử không còn chảy máu, nhưng vẫn âm ỉ trong lòng người sống. Nếu
ai đó đang lặng đi vì một ký ức như thế, thì mình hiểu, và xin được cùng nhau lặng
im, như thắp một nén nhang trong gió.”
….
Ngày 27/7 gắn liền với cuộc chiến tranh Việt Nam 30 năm. Năm 1947, ít tháng sau
khi kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, chính phủ kháng chiến Việt Nam đã
chọn ngày 27/7 làm ngày Thương binh, theo đề nghị của Quân đội Quốc gia Việt
Nam (sau được đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam), để thể hiện “lòng biết
ơn những người hy sinh xương máu” để bảo vệ Tổ Quốc trong công cuộc chống ngoại
xâm. Ngày 27/7 sau đó đã trở thành Ngày Thương binh, Liệt sĩ.
Tuy
nhiên, chiến tranh không dừng lại sau khi Quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam năm
1954. Phải 21 năm sau nữa Việt Nam mới tái thống nhất. Những giai đoạn chiến
tranh sau 1954 có tính chất của cuộc chiến chống can thiệp nước ngoài, nhưng
cũng là một cuộc nội chiến, theo nhiều chuyên gia, nhà quan sát.
Trong
lúc đông đảo người Việt Nam tin tưởng 27/7 là ngày toàn dân tưởng nhớ đến các
thương binh liệt sĩ, không ít người thờ ơ với ngày này, thậm chí coi đây là
ngày của chính quyền cộng sản dành cho những thương binh, liệt sĩ cộng sản,
ngày của BÊN THẮNG CUỘC.
Trên
mạng từ nhiều năm nay lưu truyền bài “THƠ CHO NGÀY 27 THÁNG 7”
Hôm
nay lại đến ngày hăm bảy,
Tử
sĩ miền Bắc nhận hoa tươi,
Tử
sĩ miền Nam nằm bó gối,
Cỏ
úa, mồ hoang luống ngậm ngùi
Ngày
xưa ôm súng ra tiền tuyến,
Anh
là “giải phóng”, tôi “quốc gia”,
Bọn
mình đầu xanh, đời lận đận,
Đánh
trận, đêm đêm khóc, nhớ nhà…
Súng
đạn vô tình với tuổi trẻ,
Một
chiều anh gục giữa rừng sâu,
Tôi
lấy nghĩa trang làm chỗ nghỉ,
Bia
mộ ngàn thu cũng bạc màu.
Bốn
mấy năm rồi, mau quá nhỉ!
Bọn
mình đã thịt nát xương tan,
Hận
thù trả lại người dương thế,
Chia
sớt cùng nhau chút mộng tàn.
Ngày
hai mươi bảy, anh hồ hởi,
Lời
tuyên dương, hoa trái đủ đầy,
Còn
tôi đất lạnh, trời hiu hắt,
Nén
hương tàn ai thắp đâu đây!
Bọn
mình chưa hết thời trai trẻ,
Đã
sớm thành tử sĩ vô danh,
Cùng
giống nòi, cũng da vàng, máu đỏ,
Ai
rẽ chia người chết cho đành !
(Lê
Nguyễn)
Có
tiếng nói kêu gọi dành ngày 27/7 cho “tất cả thương phế binh, liệt sĩ cả 2 miền
Nam, Bắc”. Một doanh nhân sinh sống tại miền Nam có nhiều gắn bó với chính quyền
hiện nay (anh Nguyễn Thiện Đức) chỉ ra ba đặc điểm của ngày 27/7, mà anh coi là
không ổn. Thứ nhất là có sự không công bằng trong việc tưởng niệm những người
hy sinh trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, chống can thiệp Mỹ và xâm lược
Trung Quốc nói chung. Thứ hai là có sự bất công khi các tử sĩ Việt Nam Cộng Hoà
hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 chống xâm lược Trung
Quốc không được Nhà nước nhìn nhận. Và thứ ba là ngày 27/7 nhìn chung vẫn là một
ngày “xa lạ” với đông đảo người dân miền Nam, nhất là giới trẻ, không coi đây
là một ngày tưởng niệm của cả nước.
Trong
nội bộ chính quyền Việt Nam, cũng từ nhiều năm nay đã có những tiếng nói bất
bình về thái độ kỳ thị đối xử với những thương binh, tử sĩ của chế độ Việt Nam
Cộng hoà. Năm nay, cựu thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Đình Bin trong một bức thư
gửi “các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước” dịp này, đã kêu gọi “tìm kiếm,
quy tập hài cốt các binh sĩ Việt Nam Cộng hòa mất tích trong chiến tranh, đồng
thời hỗ trợ gia đình họ thực hiện nhu cầu tâm linh, rất thiêng liêng đối với mọi
người dân Việt”. Kêu gọi nhà nước tìm kiếm hài cốt của các binh sĩ Việt Nam Cộng
Hoà (tương tự như tìm hài cốt binh sĩ Mỹ chết tại Việt Nam) không đồng nghĩa với
việc tưởng nhớ, nhưng rõ ràng đây đã là một bước tiến.
***
HOÀNG
XUÂN HÃN và NHỮNG NGƯỜI NỖ LỰC ĐỂ BỚT TỔN THẤT MÁU XƯƠNG CHO VIỆT NAM
Nói
đến ngày 27/7 không thể không nhớ đến học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996).
Nhiều
người biết tiếng Hoàng Xuân Hãn, như một nhà khảo cứu tiên phong của nền sử học
Việt Nam với các tác phẩm kinh điển như Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và
tông giáo Triều Lý (1949), La Sơn Phu Tử (1952)..., nhiều khảo cứu về văn
chương cổ điển Việt Nam (Chinh Phụ Ngâm, Truyện Kiều… ), về Lịch Việt Nam…. Ông
là tác giả của Từ điển Danh từ khoa học cho người Việt (năm 1942), cũng như
phương pháp phổ cập Quốc ngữ với cách đọc “o tròn như quả trứng gà, ô thì đội
mũ, ơ thì có râu…”. Chương trình giáo dục của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà về cơ bản chính là chương trình Hoàng Xuân Hãn, được xác lập trong thời
gian ngắn ngủi khi ông làm bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim (*).
Vì sao nói
đến ngày 27/7 không thể không nhớ đến Hoàng Xuân Hãn ?
Ngày
thương binh liệt sĩ để tưởng nhớ đến những người đã hy sinh xương máu, nhưng
cũng có thể là ngày để tưởng nhớ những người đã nỗ lực giúp cho đất nước bớt tổn
thất xương máu. Xét theo nghĩa này thì không thể không nhớ đến học giả Hoàng
Xuân Hãn và những người cùng chí hướng với ông.
Năm
1974, ông là người có bài viết đứng đầu trong số các học giả có bài trong ba số
đặc biệt “Kỷ niệm 300 năm ngưng chiến Nam Bắc phân tranh thời Trịnh Nguyễn”
(26, 27 và 28), của Tạp chí Sử Địa do một nhóm giáo sư, sinh viên Đại học Sư phạm
Sài Gòn chủ trương. Loạt bài viết ra đời một năm sau khi Hiệp định Paris về lập
lại hoà bình cho Việt Nam được ký kết, và đúng vào lúc Trung Quốc tiến chiếm phần
còn lại của quần đảo Hoàng Sa.
Hoàng
Xuân Hãn chọn chuyển dịch hai chương trong truyện lịch sử chữ Hán Nam-triều
Công-nghiệp diễn-chí (của Nguyễn Khoa Chiêm thế kỷ 18) nói về cuộc tấn công bất
thành của quân Trịnh miền Bắc chống lại quân Nguyễn ở miền Nam. Chiến dịch tấn
công Lũy Trấn Ninh thất bại, chấm dứt cuộc chiến 30 năm, mở ra thời kỳ hoà bình
100 năm giữa hai miền.
***
BÀI
“ĐÚNG 300 NĂM TRƯỚC” NHẮC LẠI BÀI HỌC LỊCH SỬ, KÊU GỌI NGƯỜI VIỆT MỞ LÒNG VỚI
NHAU
Tác
phẩm Hoàng Xuân Hãn lựa chọn để dịch lại thể hiện rõ lập trường của Tạp chí Sử
Địa về chiến tranh Việt Nam.
Vì
ý nghĩa quan trọng của lập trường này, chúng tôi xin dẫn lại đầy đủ lời dẫn của
Toà soạn tạp chí Sử Địa :
“…
một tình-cờ lịch-sử hy-hữu đã xảy ra, tái-diễn y như thế, vào 300 năm sau, cũng
năm nhâm-tý (1972), một trận thư-hùng đã xảy ra vào mùa hè và cũng đến tháng chạp
năm nhâm-tý (1973), thì hội-nghị Paris ký-kết vào ngày 27-1-1973 đem lại sự
ngưng chiến cho dân tộc Việt-nam ở cả hai miền. Và rồi mùa xuân quí-sửu (1973),
cũng là màu xuân đầu tiên đón gió Hoà-Bình sau những năm chiến tranh vô cùng
ác-liệt.
Lịch-sử
bao giờ cũng cho ta những bài học đắt-giá nhưng cũng vô cùng quí-giá.
Nhóm
Chủ-trương Tập-San Sử-Địa xin đem những lời tâm-huyết, tha-thiết nhất,
chân-thành nhất, khẩn-thiết nhất kêu gọi những vị trách-nhiệm đến cuộc chiến
này, nhất là những ai chủ-trương kéo dài chiến-tranh hãy nghĩ đến con đường
tương lai dài của dân-tộc, đến sự công-minh của lịch-sử.
Chủ-nghĩa
nào cũng hay, lý-tưởng nào cũng đẹp, nhưng chủ-nghĩa, lý-tưởng cũng như tất-cả
những gì mệnh danh tốt-đẹp nào khác cũng chỉ như là chiếc áo đẹp, mà dân-tộc
chính mới là thân người. Áo có thể thay đổi chứ người không thể đổi thay. Đừng
vì chiếc áo mà làm cho thân người phải mang thương tích hay bị huỷ-diệt.
Một
chủ-nghĩa mạnh tới đâu, thịnh mãi và cũng có hồi suy, đó là lý đương-nhiên. Có
đế-quốc nào mạnh bằng đế-quốc La Mã hồi đầu Công-nguyên, có chủ-nghĩa nào mạnh
bằng chủ-nghĩa thực dân vào thế-kỷ 19. Nhưng rồi tất-cả cũng không thể tồn-tại
được mãi với thời-gian vô tận. Chỉ có những dân-tộc kiên-cường mới còn tồn-tại
mãi. Một chủ-nghĩa ngoại-lai, một thế lực ngoại-bang, dù thế-nào cũng phải coi
chừng để khỏi bị lợi-dụng, hại cho dân-tộc.
Điều
bi-thảm nhất, tai-hại nhứt hiện nay không những chỉ là sự tàn-phá ghê-gớm của
guồng-máy chiến-tranh tối-tân mà còn là sự khác-biệt, sự tương-phản lớn lao giữa
hai nền văn-hoá, nếp sống của cả hai miền Nam Bắc, khiến những di-hại phân-ly
khi xưa được đào sâu, khiến mọi người e ngại đến sự thuần-nhất, đến sức-mạnh
dân-tộc, nếu một mai, đất nước chúng ta thống-nhất trở lại.
Nhóm
Chủ Trương Tập-San Sử-Địa tha thiết kêu gọi tất-cả những người Việt bất-cứ ở
nơi đâu, trong nước hay ngoài nước, bên này hay bên kia, nhất là những nhà
văn-hoá hãy nghĩ đến việc làm san bằng sự khác-biệt ấy, để tránh những di-hại về
sau.
Một
nền văn-hoá dân-tộc thống-nhất đích-thực sẽ là lý-tưởng tốt đẹp nhất của thế-hệ
chúng ta hiện nay.” (1)
***
HƯỚNG ĐẾN
MỘT NỀN VĂN HOÁ DÂN TỘC ĐOÀN KẾT - THỐNG NHẤT, RỘNG MỞ THAY VÌ TÔN THỜ CHỦ
NGHĨA
Cũng
trong số tạp chí đặc biệt này, phần “Cảm nghĩ của dịch giả (Hoàng Xuân Hãn)”
(***) đã đề xuất rút ra một số bài học và đề xuất một số đường hướng cơ bản để
hướng đến một “nền văn-hoá dân-tộc thống-nhất đích-thực” ấy.
Bài
học lớn là không thể để “cốt nhục tương tàn” (2), và kẻ hưởng lợi chính là các
thế lực ngoại bang đang rắp tâm xâm chiếm lãnh thổ, quần đảo Hoàng-sa vừa mất
là bài học nhãn tiền (3).
Hoàng
Xuân Hãn cũng đặc biệt nhấn mạnh đến việc quan niệm quốc gia, tổ quốc phải “nới
rộng”, quan niệm “con rồng cháu tiên” không còn “hợp thời” : “Dân Việt đã trở
nên, như hầu hết dân-tộc khác, một dân-tộc phức-tạp: vốn gốc Văn-lang, nhưng trải
qua gần nghìn năm Bắc-thuộc, đã thành có lai Hán, lai Đường, rồi sáp nhập nhóm
Thái, nhóm Chàm, nhóm Khờ-me, nhóm Nam-dương, nhóm Minh-hương, nhóm Khách-trú,
và ngày nay lại thêm lai Âu, lai Mỹ, lai Ấn, lai Phi. Nói tóm lại dân Việt-nam
là dân sinh và sống trên một giải đất chung, chịu chung một nền văn hoá dần-dần
tạo nên và tiếp tục-tiến bộ… Tất-nhiên rằng lịch-sử ấy gồm nhiều cuộc
tranh-giành chiến-đấu, nhưng chính trị phải nhắm tương-lai và thực tế mà làm ;
tôn-chỉ và tấm gương lịch-sử giữ phần dẫn-đạo đại-cương.”
Học
giả Hoàng Xuân Hãn được Nhà nước Việt Nam truy tặng huân chương Độc lập hạng
hai (năm 1998) và giải thưởng Hồ Chí Minh (năm 2000) (**). Một số người cho rằng
Hoàng Xuân Hãn thân chế độ cộng sản. Tuy nhiên, kể từ khi ra đi đến khi mất,
ông không bao giờ trở về nước, bất chấp việc từ cuối thập niên 1980, chính quyền
ngỏ ý muốn mời ông về. Ông Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp, một người gần gũi với Hoàng
Xuân Hãn, đã đặt câu hỏi về việc này. Học giả trả lời : “Chừng nào trong nước
chưa có tự do tư tưởng thì bác không về” (4).
Vẫn
theo ông Nguyễn Ngọc Giao, học giả Hoàng Xuân Hãn “gần như không phát biểu công
khai chính kiến của mình”, “việc tham chính hai lần của ông quá ngắn ngủi (tổng
cộng vài tháng), và suốt nửa thế kỷ tiếp theo, ông hầu như không hoạt động
chính trị (và khi có hoạt động thì rất ít ai biết)”.
Trên
thực tế, chính kiến của Hoàng Xuân Hãn đã được thể hiện rất rõ ràng qua các số
tạp chí Sử Địa “Kỷ niệm 300 năm ngưng chiến Nam Bắc phân tranh thời Trịnh Nguyễn”
cũng như qua một số thông điệp khác với báo chí của ông.
HƯỚNG
ĐẾN MỘT NỀN VĂN HOÁ DÂN TỘC ĐOÀN KẾT - THỐNG NHẤT, RỘNG MỞ THAY VÌ TÔN THỜ CHỦ
NGHĨA, để tránh thêm tổn thất xương máu cho người dân, tránh rơi vào nội chiến
huynh đệ tương tàn, là quan điểm nhất quán xuyên suốt của ông.
Dịp
27/7 hàng năm, trở lại với tư tưởng Hoàng Xuân Hãn có thể giúp người Việt có cơ
hội HÀN GẮN VẾT THƯƠNG LÒNG, TÁI LẬP ĐẠI ĐOÀN KẾT.
@@@@@
Ghi chú
(*)
“Tháng 8/1945, Việt-Minh nổi dậy cướp chính quyền, mặc dù cơ cấu xã-hội,
chính-trị quóc gia hầu hết bị họ thay đổi. Ấy vậy mà chương trình giáo-dục Việt-ngữ
Hoàng-xuân-Hãn họ vẫn phải tiếp tục duy trì, sau đó mới cải tiến dần đần một số
chi tiết, nhưng căn bản vẫn không sao thay đổi được” (trích tạp chí Sử-Địa, số
27, 28, tr. 249). Vấn đề nền giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau này tiếp tục
sử dụng như thế nào chương trình Hoàng Xuân Hãn đáng được nghiên cứu chi tiết.
(**)
Giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước Việt Nam được truy tặng học giả Hoàng Xuân
Hãn về khoa học xã hội và nhân văn với cụm công trình: Lý Thường Kiệt, La Sơn
Phu Tử, Lịch và Lịch Việt Nam.
(***)
Phần "Cảm nghĩ của dịch giả" nói trên đã được đăng tải trong Cuốn La
Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, NXB Giáo dục, Hà Nội, tập 2: Trước tác - Lịch sử,
tr. 740 - 741.
1/
Mời tham khảo các số của Tạp chí Sử Địa qua địa chỉ https://letungchau.blogspot.com/.../10/tap-san-su-ia.html...
2/
Trong chú thích 20 bài “Đúng 300 năm trước” (dịch tác phẩm Nam-triều Công-nghiệp
diễn-chí), Hoàng Xuân Hãn trích Đại Nam Liệt truyện tiền biên, quyển 2, trang
11a, kể “sau khi Bắc-quân đã rút, phàm những Bắc-quân bị bắt đều sai cấp tiền
lương, quần áo mà thả về, chứ không giết một ai. Lại lập một đàn trong thành Trấn-ninh,
khao-tế trận vong tướng sĩ, và đặt ngoài thành một đàn để uỷ-tế trận vong tướng
sĩ của Bắc-quân (trang 46, số 27-28).
3/
Ít năm trước khi qua đời, trong một cuộc trả lời phỏng vấn bà Thuỵ Khuê về giai
đoạn lịch sử này, Hoàng Xuân Hãn nhận định : “Năm 73, lúc có sự hòa hoãn hai
bên, nếu ông Thiệu lúc ấy biết điều thì cũng đương còn một giai đoạn hay được đấy.
Nhưng hồi đó, ông Thiệu nghe Mỹ quá, cho nên không biết cách hòa hoãn.”
Nhìn
qua, diễn đạt của Hoàng Xuân Hãn “nếu ông Thiệu lúc ấy biết điều thì cũng đương
còn một giai đoạn hay được đấy…” có thể khiến một số người cho rằng học giả
ngây thơ, phi thực tế. Nhưng nếu suy ngẫm kỹ hơn, và căn cứ vào thực tế lịch sử
về sự rút quân và rút viện trợ không thể tránh khỏi của Mỹ, thái độ khăng khăng
tử thủ đến cùng của ông Nguyễn Văn Thiệu cũng là điều cần được xem xét và đánh
giá xác đáng. Nhận xét “… đương còn một giai đoạn hay được đấy…” phải chăng đã
chuyển đạt cách tiếp cận coi trong tính khả thể của lịch sử dựa trên các điều
kiện thực tế của sử gia Hoàng Xuân Hãn ?
Link
bài http://thuykhue.free.fr/hxh/lichsu.html
4/
Nguyễn Ngọc Giao, “Hoàng Xuân Hãn : con người và chính trị”, Diễn đàn
07/03/2008.
https://www.diendan.org/.../hoang-xuan-han-con-nguoi-va...
@@@@@
Ảnh
trên : https://www.facebook.com/photo/?fbid=3997326570583901&set=pcb.3997340080582550
Bức
ảnh "Hai người lính": Chiến sĩ Quân Giải phóng Nguyễn Huy Tạo và quân
nhân chế độ Việt Nam Cộng hoà Bùi Trọng Nghĩa, chụp tại Quảng Trị, Xuân 1973,
sau hiệp định Genève. Tác phẩm của nghệ sĩ Chu Chí Thành, Giải thưởng Hồ Chí
Minh.
Ảnh
dưới
Trái
: https://www.facebook.com/photo/?fbid=3997331287250096&set=pcb.3997340080582550
Trang
bìa tạp chí Sử Địa 1974: “Kỷ niệm 300 năm ngưng chiến Nam Bắc phân tranh thời
Trịnh Nguyễn”
Giữa
: https://www.facebook.com/photo?fbid=3997332463916645&set=pcb.3997340080582550
Học
giả Hoàng Xuân Hãn thời trẻ
Phải
: https://www.facebook.com/photo/?fbid=3997333930583165&set=pcb.3997340080582550
Bài
học “O tròn như quả trứng gà…”
No comments:
Post a Comment