Tản mạn về nhân vật lịch sử
Dương Văn Minh
https://nghiencuuquocte.org/2018/04/25/tan-man-ve-nhan-vat-lich-su-duong-van-minh/
Trong
lịch sử cận-hiện đại của Việt Nam nói chung và miền Nam Việt Nam sau Hiệp định
Genève 1954 nói riêng, trường hợp nhân vật lịch sử Dương Văn Minh (1916-2001)
có lẽ khá đặc biệt, và không ít người đã coi ông là một vị tướng lãnh “có vấn đề”. Ông sống nói chung
trong sạch, bề ngoài có vẻ luôn khiêm tốn hiền lành nhưng toàn tham gia những đại
sự quân chính có tác dụng đảo chuyển hướng đi của lịch sử.
Vào
thời kỳ đầu của Việt Nam Cộng Hòa, dưới thời Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh đã từng
được coi là anh hùng trong thành tích đánh dẹp lực lượng Bình Xuyên (năm 1954) ở
khu Rừng Sác (ngoại vi Sài Gòn) và dẹp tan quân đội của giáo phái Hòa Hảo (năm
1956), được thăng chức Trung tướng (5.1.1956). Hai đại sự khác trong đời ông là
việc năm 1963 với tư cách Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng ông cầm đầu
nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và việc năm 1975 với tư
cách Tổng thống đã quyết định đầu hàng không điều kiện “đối phương” miền Bắc để
kết thúc gọn nhẹ cuộc chiến tranh thảm khốc 30 năm, lập lại hòa bình cho dân tộc
Việt.
Sở
dĩ bị coi là vị tướng “có vấn đề” vì trong cả hai trường hợp vừa nêu trên, ông
có những chỗ rất dễ bị chỉ trích bởi một số người khác biệt quyền lợi hoặc
không đồng quan điểm. Đây cũng là một lẽ rất thường tình, bởi nếu ông Minh chỉ
là một kẻ tầm thường vô dụng, không lý tưởng, chỉ biết sống “dĩ hòa vi quý” cho
được vinh thân phì gia như bao người khác thì có lẽ chẳng ai cần nhắc gì tới
ông, kể cả việc chỉ trích ông thậm tệ nhất đi nữa.
Liên
quan cuộc đảo chánh 1.11.1963, trừ ra một số người sùng bái ông Diệm mà quyền lợi
của họ vốn gắn chặt với chế độ Đệ nhất Cộng hòa, còn thì đa số nhân dân miền
Nam lúc đó đều hoan nghênh ủng hộ.
Về
lịch sử/ diễn biến cuộc đảo chánh, đã có rất nhiều sách báo/ tài liệu đề cập
chi tiết nên ở đây xin khỏi nhắc lại. Chỗ có vấn đề đang nói cho đến nay vẫn
còn nhiều người thắc mắc, đó là việc ông Minh có phải hay không là người ra lệnh
cho những người dưới trướng ông hạ sát Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu
trên chiếc xe bọc sắt M 113 một cách thảm thiết quá, trên đường chở hai ông Diệm-Nhu
về Bộ Tổng tham mưu ngày 2.11.1963 để xử lý, thay vì theo truyền thống văn hóa
chính trị, phải để cho hai nhân vật lãnh đạo này được lưu vong sang xứ khác?
Ngoài ra, nhắc lại việc này, một số người còn tố cáo ông Minh là kẻ phản bội
tàn ác, vì con đường binh nghiệp của ông được thăng tiến nhanh chóng có một phần
quan trọng là nhờ ở Tổng thống Ngô Đình Diệm…
Cho
đến cuối đời, sống ở Pháp rồi ở Mỹ, vì là việc quá tế nhị, nhóm đảo chánh của
ông Minh (gồm cả Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính…) không ai dám
hé môi nói rõ việc này. Tuy nhiên, cũng có vài chi tiết được hé lộ trong hồi ký
của một vài chứng nhân, qua đó chúng ta có thể đánh giá tương đối chính xác.
Hồi
ký Tâm sự tướng lưu vong của Hoành Linh Đỗ Mậu (NXB Công An Nhân Dân, 1995, tr.
502-503), có đoạn kể, ngày 2.11.1963, ông Mậu thấy các tướng đảo chánh gồm
Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Đại tá Dương Ngọc Lắm đang xầm xì
bàn tán có vẻ bí mật, đến hỏi thì tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) trả lời rất nhỏ,
“Anh em đang bàn định cách đối xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho ông ta xuất
ngoại”. Ông Mậu phát biểu không đồng ý giết ông Diệm [1] thì tướng Nguyễn Ngọc Lễ nói to lên:
“Xin anh em đừng nghe lời anh Mậu, đã nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận rễ”. Thấy
không ai phản đối tướng Lễ mà có vẻ im lặng đồng ý, Đỗ Mậu bèn nói thêm: “Việc
tha hay giết ông Diệm là hành động lịch sử, vậy muốn tha hay giết ông ta, tôi đề
nghị phải lấy quyết định tối hậu qua một cuộc bỏ phiếu kín, phải ghi vào biên bản
đàng hoàng”. Đỗ Mậu cho biết tiếp: “Tất cả mọi người lại im lặng không có ai tỏ
ra tán đồng ý kiến của tôi. Còn tướng Dương Văn Minh thì nhún vai tỏ thái độ bất
mãn với tôi… Sau đó tướng Minh ra lệnh cho tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Dương Ngọc
Lắm, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và Đại úy Nguyễn Văn Nhung đi đón hai ông Diệm-Nhu
tại nhà thờ Cha Tam”.
Đỗ
Thọ (cháu gọi Đỗ Mậu bằng chú ruột) lúc đó là sĩ quan tùy viên thân cận nhất của
Ngô Đình Diệm, người đã theo sát đến phút chót bên cạnh hai ông Diệm-Nhu trên
đường trốn từ Dinh Gia Long đến nhà thờ Cha Tam, trong một đoạn hồi ký cũng có
nhắc lại sự kiện gần giống như trên: “Chú tôi (tức Đỗ Mậu- TVC) nói rằng luôn
luôn kính trọng thương tiếc Tổng thống Diệm. Vụ 1.11.1963 chỉ cốt lật đổ ông bà
Ngô Đình Nhu. Đưa Tổng thống Diệm lên Đà Lạt hoặc Côn Đảo trong một thời gian.
Nhưng quyết định này đã có nhiều tướng lãnh không chịu. Trong đó có tướng Dương
Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân” (Nhật ký Đỗ Thọ, Đồng Nai xuất bản, Sài
Gòn, 1971, tr. 158). Ở một đoạn tiếp theo, tác giả Đỗ Thọ còn cho biết, khi ông
Nhu không chịu lên xe M 113 để chở về Bộ Tổng tham mưu, một sĩ quan phe đảo
chánh đã gào lên: “Ông không còn là cố vấn… Và Tổng thống nữa. Hãy lên xe gấp.
Chúng tôi được lệnh Trung tướng Chủ tịch phải thi hành” (tr. 177).
Theo
mấy chi tiết dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể thấy, việc giết hai ông Diệm-Nhu,
ông Minh không quyết định một mình, mà có sự họp bàn tập thể nhưng chỉ bàn kín
hạn chế với vài tướng lãnh chủ chốt, trong đó có các tướng Lê Văn Kim, Mai Hữu
Xuân và Đại tá Dương Ngọc Lắm, chứ không đưa ra toàn thể Hội đồng Quân nhân
Cách mạng lấy quyết định. Còn ở một vài tướng tá khác, tuy không thấy nhắc
trong đoạn hồi ký trên kia của Đỗ Mậu, nhưng chắc chắn cũng đã được ông Minh
tham khảo ý kiến trước đó theo một cách nào đó thôi.
Theo
cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận có vài năm sống tá túc hoạt động
báo chí trong nhà của Dương Văn Minh (ở số 3 Võ Văn Tần bây giờ), “Có sách ngoại
quốc nói rõ người điều khiển việc bắt giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là Trung
tướng Mai Hữu Xuân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tướng Xuân là người thân tín với Dương
Văn Minh. Rất có thể tướng Xuân đã ra lệnh bắn chết Diệm, Nhu để tuyệt trừ hậu
họa. Người thi hành lệnh bắn là thiếu tá Nhung, một trong những cận vệ của tướng
Minh. Tướng Mai Hữu Xuân trực tiếp chỉ huy việc tiến chiếm Dinh Gia Long, ông
chịu trách nhiệm về cái chết của Diệm, Nhu với tư cách người chỉ huy trực tiếp
trận đánh. Nhưng một vấn đề chưa sáng tỏ là ông Xuân thi hành lệnh của Dương
Văn Minh hay tự ý quyết định tại mặt trận. Giết Diệm, Nhu để tránh hậu họa, một
giả thuyết hợp lý đối với con người mưu lược như ông Mai Hữu Xuân”. Rồi Dương
Văn Ba kết luận: “Về phần Dương Văn Minh, ông chưa lần nào lên tiếng nói rõ vấn
đề này. Dù có ra lệnh giết hay không, tướng Minh vẫn phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử về cái chết của Diệm, Nhu” (Hồi ký Những ngả rẽ, Bản thảo phổ biến nội
bộ, tr. 26-27).
Từ
khi hai anh em ông Diệm-Nhu bị chết thảm (ngày 2.11.1963), ông Minh và đám tướng
tá đồng sự của ông không ai công khai thừa nhận mình có tham gia quyết định giết
Tổng thống, có thể vì 2 lẽ: (1) Việc giết nguyên thủ quốc gia có tiếng tăm lớn
như ông Diệm là một việc quá sức tưởng tượng theo quan niệm của Việt Nam Cộng
Hòa thời đó; (2) Các tướng tá tham gia đảo chánh trong chừng mực nào đó hầu hết
đều có thọ ơn ông Diệm trên con đường thăng tiến binh nghiệp của mình, nhưng họ
bất đắc dĩ phải hạ thủ là để “sát nhất miêu cứu vạn thử” (giết một con mèo để cứu
muôn con chuột), và cần phải “nhổ cỏ tận gốc” đề phòng nhóm ông Diệm lưu vong
nước ngoài sẽ có thể tái tập hợp lực lượng, kết hợp với ngoại bang hoặc thành
phần trong nước tìm cách phục hồi.
Xét
hai lẽ nêu trên thì thấy việc nhóm ông Minh trước sau vẫn kín tiếng không thừa
nhận giết Tổng thống Diệm cũng là một sự cận nhân tình, hầu như ai cũng vậy, vì
họ sợ dư luận nghĩ không tốt về mình. Còn việc bắt buộc phải giết Tổng thống
như trong trường hợp ông Diệm thì đó thuộc về lý do chính trị mà theo cách nghĩ
của họ ngay vào thời điểm đó, khó thể có một chọn lựa nào khác tốt hơn. Có thể
rằng ông Minh và vài người khác sau này cảm thấy áy náy trong lòng khi nghĩ lại
chuyện đã qua, nhưng đây thuộc trường hợp mâu thuẫn mà một chính khách có lương
tâm dễ bị mắc phải khi phải đối đầu với những tình huống quá phức tạp. Tuy
nhiên, trên thực tế, hành động của nhóm ông Minh đã có thể được biện minh khi kết
quả cuộc đảo chánh như được biết đã mang lại lợi ích cho đại đa số dân chúng, bằng
việc loại trừ được một chế độ có nhiều chỗ bất ổn cho dân, theo kiểu “sát nhất
miêu cứu vạn thử!”.
Đại
sự thứ hai trong cuộc đời ông Minh liên quan đến ngày 30.4.1975 lịch sử, khi đại
quân miền Bắc ồ ạt tiến sát vào Sài Gòn, quân lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều nơi
đã bị tan rã. Khi ấy, với cương vị Tổng thống vừa được Quốc hội đưa lên trước
đó chỉ 3 ngày, nhóm chấp chính Dương Văn Minh (gồm cả Phó tổng thống Nguyễn Văn
Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu…) đã quyết định “không chống cự” và sau đó tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện. Sự đầu hàng nhanh chóng này tất nhiên nhận được nhiều sự
đánh giá trái ngược nhau. Đối với “bên thua cuộc”, mỗi lần nhắc đến Dương Văn
Minh, không ít người Việt tị nạn ở nước ngoài vẫn còn oán trách, cho ông là
“hàng tướng” đã hèn nhát đầu hàng CS, “trao nước cho giặc”, để đến nỗi đất nước
phải như ngày hôm nay (theo họ là nghèo nàn lạc hậu, nạn tham nhũng tràn lan vô
phương cứu chữa, mất dân chủ này khác…). Đây là một quan điểm đánh giá có nhiều
phần vội vã, cực đoan, đơn giản, không thấy hết thực tế của hình thế thời cục
lúc đó, cũng như nhu cầu bức thiết chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình phải
là mối ưu tiên hàng đầu đối với bất kỳ nhà lãnh đạo nào biết thương dân, vì đó
là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả hai miền Nam, Bắc, sau khi đã bị nếm
trải cuộc chiến tranh kéo dài vô cùng khốc liệt, mà cuộc chiến tranh ấy, ai
cũng biết, không hoàn toàn do mỗi bên chủ động vì còn chịu ảnh hưởng nặng nề của
các cường quốc, trong đó cả hai bên chiến tuyến đều thường có những người là họ
hàng ruột thịt với nhau. Là một quân nhân kinh qua nhiều chiến trận, hơn ai hết
ông Dương Văn Minh là người thấu cảm với nỗi khổ của nhân dân vô tội trong chiến
tranh, và ngay cả bản thân ông, cũng có người em ruột là sĩ quan cao cấp Dương
Thanh Nhựt (Mười Tỵ) đang đấu tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia chiến
tuyến.
Giả
định, ngày 30.4.1975, Dương Văn Minh không chịu đầu hàng mà kiên quyết “tử thủ”
thì khó thể suy đoán sẽ còn bao nhiêu dân và quân của cả hai bên chiến cuộc tiếp
tục thương vong, đổ máu. Ngay cả những người chủ trương “tử thủ” cùng với gia
đình vợ con họ vì thế còn chưa biết số phận rồi sẽ đi đến đâu? Trong khi đó, tử thủ trong điều
kiện cận kề ngày 30.4 như đã biết thì kết quả hầu như chắc chắn phải thua,
nhưng cho dù có thắng, phía bên kia tiếp tục kháng chiến thì chiến tranh vẫn sẽ
còn kéo dài lâu hơn, 5 năm hay 10 năm nữa chưa biết chừng. Cho nên có thể nói,
ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng là một hành động sáng suốt tránh cho Sài
Gòn và cả nước không bị đổ máu thêm vô ích, trước hết vì mục tiêu hòa bình và
hòa giải hòa hợp dân tộc, vốn là chủ trương căn bản của ông, cho dù ông có chịu
ảnh hưởng bởi những ý đồ chính trị phức tạp của người Mỹ, người Pháp, hay có bị
CS móc nối hay không. Trong trường hợp này, cũng giống như trong cuộc đảo chánh
năm 1963, có lẽ phải nghĩ ông Dương Văn Minh tuy không hoàn toàn độc lập hành động
(làm sao có sự độc lập này được?), cũng không phải tiếp tay cho CS (tuy rằng về
mặt tác dụng khách quan thì có), nhưng là người đã biết khéo nương theo diễn biến
thời thế, khai thác những chỗ “ám hợp” (hợp ngầm) giữa ông với những thế lực
chi phối khác để làm lợi cho dân tộc: năm 1963 xóa bỏ chế độ độc tài Ngô Đình
Diệm, còn nay là để kết thúc cuộc chiến tranh đau khổ tái lập nền hòa bình. Giả
định, nếu được cầm quyền lâu hơn, đường lối chính trị của ông Minh chắc chắn sẽ
có nhiều điểm không giống hẳn với những người CS.
Việc
ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” trong thế thua để tránh bớt thương vong cho
dân quân của cả hai phe xem ra cũng có khía cạnh hao hao giống với quyết định
giao thành cho giặc rồi uống thuốc độc tự tử của Phan Thanh Giản, khi hùng binh
của Pháp tiến đánh Vĩnh Long tháng 6.1867. Điểm khác biệt là ở đối tượng được
giao, và ông Minh đã không tự tử như Phan Thanh Giản,[2] vì hoàn cảnh lịch sử và tình huống cụ
thể có khác, nhưng trong cả hai trường hợp của người xưa và người nay, đều rất
dễ phát sinh dị nghị.
Có
quan điểm khá phổ biến cho rằng ông Minh tuyên bố đầu hàng đơn giản chỉ vì bị
lâm vào cái thế hoàn toàn thúc thủ, nhưng theo một số nhân chứng lịch sử lúc bấy
giờ, tướng Dương Văn Minh nhận lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với
phe cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để
tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông vốn chủ trương hoà bình, hòa giải hòa hợp
dân tộc (xem Chánh Trinh, Hồi ký không tên, NXB Thời Đại, 2012).
Một
câu hỏi nữa cũng đáng để đặt ra: Là một tướng lãnh cấp cao nhất trong quân đội
Việt Nam Cộng Hòa, thông thường phải có khuynh hướng chủ chiến, nhưng tại sao
Chính phủ do ông Minh đứng đầu lại có vẻ hiền lành chủ hòa với thiện ý cao nhất?
Ngoài
những lý do đương nhiên về chính trị, cũng như những đòi hỏi khách quan của lịch
sử cùng nguyện vọng hòa bình của dân tộc, theo tôi chắc hẳn còn có một lý do
sâu xa tiềm ẩn quan trọng nữa có thể giải thích nguồn gốc thái độ và chủ trương
hòa bình-hòa giải hòa hợp dân tộc của Chính phủ Dương Văn Minh, từ đó đi tới
quyết định đầu hàng nhanh chóng. Đó là lý do tôn giáo: Tổng thống Dương Văn
Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đều theo Phật giáo, trong khi Phó tổng thống Nguyễn
Văn Huyền là người rất mộ Kitô giáo. Đạo Phật là đạo của hòa bình, từ bi hỉ xả;
Kitô giáo là đạo của lòng bác ái vị tha, lẽ tất nhiên các ông đứng đầu này đều
có khuynh hướng chung không muốn cho sinh linh phải bị tàn sát, trong bất kỳ điều
kiện nào còn có thể tránh được.
Họ
đều là những người nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, sống nghèo, chưa nghe có tai
tiếng gì về đời tư, thậm chí có người còn sống khổ hạnh, như ông Huyền cả đời
chỉ ở nhà cấp 4, không có xe hơi riêng, cuối đời chỉ chuyên lo việc tu hành.
Riêng bản thân ông Dương Văn Minh theo đạo Phật, nhân từ, thương người, sợ sát
sinh, sợ phải giết người. Thấy ai hoạn nạn thì ra tay can thiệp, cứu giúp, cả đối
với một số người thuộc chiến tuyến đối lập.
Cả
ba vị đứng đầu Chính phủ Dương Văn Minh đều đã hành động xuất phát từ lòng nhân
đạo, đã kết hợp nhuần nhuyễn nhau trong sự đồng thuận chấp nhận ưu tiên đường lối
hòa giải hòa hợp dân tộc và giải pháp đầu hàng trong buổi hoàng hôn của chế độ
để tránh cho thành phố Sài Gòn khỏi đổ nát và nhân dân vô tội cả nước khỏi phải
chết thảm thêm nữa vì việc đánh nhau giữa hai bên vào giờ chót. Nếu không có sự
đồng thuận giữa những con người cùng lý tưởng, được hun đúc thấm nhuần bởi tinh
thần từ bi hỉ xả và vị tha của các bậc giáo chủ, thì thật khó đi đến một quyết
định mau lẹ, kịp thời và sáng suốt như vậy. Vì thế cho nên bây giờ bình tĩnh
nhìn lại, có người còn đánh giá cuộc đầu hàng lịch sử nêu trên chẳng những
không chút nhục nhã mà còn đáng ca ngợi là một hành vi anh hùng, đặc biệt hợp với
lối hành xử bi-trí-dũng của nhà Phật.
Một
số người thân cận với Dương Văn Minh (như các ông Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba,
Lý Quý Chung, Thích Trí Quang…) đều cho rằng ông không phải là người làm chính
trị sắc bén, có bản lĩnh,[3]
có lẽ họ
nói theo nghĩa phàm đã xông pha vào chính trị thì phải khéo linh hoạt với rất
nhiều thủ đoạn.
Theo
cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận từng ở nhờ thời gian khá dài
trong tư gia của tướng Dương Văn Minh (số 3 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần),
cả trước và sau 30.4.1975, thì ông Minh là “loại người trầm lắng, suy tư dù gốc
của ông là một quân nhân. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo,
ông không đua chen, không sân si; ông thuộc vào loại thấy đủ biết đủ, thấy nhàn
biết nhàn. Đó là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống
khá bình dị, hòa mình với mọi người, đa số bạn bè bà con đều thương ông”
(tldd., tr. 263).
Ông
Ba còn cho biết tiếp: “Gia đình ông Dương Văn Minh thuộc vào loại thanh bạch,
không có dư dả nhiều. Tài sản ông để lại trước khi ông đi Pháp là hàng ngàn chậu
Hoa Lan, 3-4 con chó bẹc giê, 5-7 cái máy chụp hình loại chuyên nghiệp và lũ
khũ những đồ đạc, vật dụng linh tinh không giá trị nhiều lắm của một vị tướng
lãnh” (tr. 364).
Rõ
ràng, ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” không phải để được vinh thân phì gia,
vì ai cũng biết, sau khi hoàn tất trách nhiệm trước lịch sử và lui khỏi chính
trường, ông đã sống cuộc đời ẩn dật nơi nước ngoài với con cái, không phát biểu
về chính trị, không viết hồi ký để kiếm tiền, chấp nhận cuộc sống nghèo bình
thường, từ chối mọi sự trợ cấp từ phía các chính phủ Pháp, Mỹ mà ông đã có thời
gian từng phục vụ.[4] Ông không giống như một
vài vị tướng khác, suốt ngày đeo cái lon tướng để được tiếp tục nhận sự vinh
danh cho tới chết mới thôi, mặc dù nhiệm vụ lịch sử đã hoàn thành từ rất lâu.
Ngày
nay, xét diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều thừa nhận việc đầu hàng của
Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông chẳng những không nhục nhã mà
còn là hành động sáng suốt thức thời vụ. Điều này về sau đã được cố thủ tướng
Võ Văn Kiệt công khai thừa nhận trong một lần trả lời cuộc phỏng vấn liên quan
đến vấn đề đang xét của tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân dịp 30.4.2005. Có
lần ông Kiệt chia sẻ với cựu dân biểu Lý Quý Chung: “Ông Minh là một con người
tốt và có lòng yêu nước…” (Hồi ký không tên, sđd., tr. 447).
Cho
nên, liên quan đến một chi tiết về thủ tục tiếp quản tại Dinh Độc Lập ngày
30.4.1975, khi ông Minh bảo rằng sáng nay đã có một tuyên bố trao quyền cho
Chính phủ Cách mạng Lâm thời rồi thì người cán bộ tiếp quản nói “Anh chẳng có
gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”,[5] tôi cho câu nói vặn lại này là một câu hơi lố, rất dở,
không thật sự cần thiết, không xứng với tầm nghĩ việc lớn cũng như với thiện
chí rất đáng được trân quý của ông Dương Văn Minh.
Con
trai ông Dương Văn Minh, kỹ sư Dương Minh Đức, có lần được hỏi ý kiến nhận xét
sự kiện lịch sử ngày 30.4.1975, và về người cha của mình, đã phát biểu: “Tôi rất
yêu quý ba tôi…Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện
tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt
Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của
ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không
ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ….
Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý
kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm
xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước hết là phải cứu
dân” (theo tạp chí Hồn Việt, 1.6.2009).
Đúng
như vậy đó, khái niệm yêu nước rất rộng. Đánh giặc hăng say chỉ là một trong những
biểu hiện của tinh thần yêu nước khi đất nước bị xâm lăng mất độc lập, nhưng đó
chẳng qua cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ chứ chẳng nên lúc nào cũng cổ vũ
thái quá, bởi lẽ đơn giản “phi nguy bất chiến” (lời trong Tôn Tử binh pháp,
không kẹt vào thế nguy thì đừng đánh). Trong mọi trường hợp khác nhau, yêu nước
không thể tách rời với thương dân/ cứu dân, mà thương dân/ cứu dân trước hết là
phải bảo vệ tối đa và bằng mọi cách sinh mạng của dân, rồi sau đó mới tính tới
chuyện để cho họ được hưởng đầy đủ các phúc lợi vật chất cũng như các quyền về
tự do dân chủ. Thà chịu “thua” ngay tức khắc mà bảo vệ được sinh mạng của dân,
sớm mang lại hòa bình cho dân tộc, còn danh dự hơn cố đánh trong cái thế tất bại
mà để cho dân, quân phải hi sinh xương máu quá nhiều. Mặt khác, cho dù một bên
có thắng mà nướng con dân trong lửa đỏ cũng không phải điều tốt. Hiểu được như
vậy ta sẽ thấy ông Dương Văn Minh là một người có đức kiên trì tốt nhịn, có
lòng nhân ái thiết tha, đã xử lý vấn đề hợp tình lý, đúng lúc đúng thời theo
cái nghĩa “quân tử kiến cơ nhi tác” (người quân tử biết nương theo thời cơ mà
hành động), “thức thời giả vi hào kiệt” (kẻ thức thời là hào kiệt), và sẽ là
không quá đáng nếu chúng ta hôm nay coi quyết định đầu hàng ngày 30.4.1975 của
ông là một hành động anh hùng.
——————
——————
[1] Đỗ Mậu tham gia
đảo chánh chỉ vì muốn loại trừ sự lộng hành của vợ chồng Ngô Đình Nhu, còn đối
với ông Diệm, Đỗ Mậu vẫn là người tâm phúc.
[2] Trong một bức
thư ông Minh gởi cho tướng Nguyễn Chánh Thi (người từng đảo chánh Ngô Đình Diệm
năm 1960 nhưng thất bại) đề ngày 15.4.1987, có đoạn viết: “Theo tôi, tự tử
không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những
hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu (cũng như nhiều người)
không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số
những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi
vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã
nhắn nhủ để cứu dân” (xem Trương Võ Anh Giang, Máu chảy về tim, NXB
Trẻ, 2016, tr. 311).
[3] Xem Chánh
Trinh, Hồi ký không tên, NXB Thời Đại, 2012, tr. 225, 305.
[4] Về cuộc sống đạm
bạc của ông Dương Văn Minh trong thời gian ẩn dật ở Pháp và ở Mỹ, cũng như nhiều
chi tiết khác liên quan cả cuộc đời ông, rất nhiều sách vở tài liệu đã ghi
chép. Có thể xem: Trương Võ Anh Giang, sđd., “Viết tiếp bài ‘Ông Dương Văn Minh
và tôi’”, NXB Trẻ, 2016, tr. 290-318.
[5] Xem Lý Quý
Chung, sđd., tr. 410.
Nguồn: Viet-studies
No comments:
Post a Comment