50 năm kết thúc chiến
tranh: Nhìn lại cuộc chiến từ trong nguồn tư liệu Đảng
Vũ Tường
Gửi cho BBC từ Đại học Oregon, Hoa Kỳ
1 tháng 5 2025
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cz957yjnd9lo
Lê Duẩn (áo sơ mi trắng) - Bí thư thứ nhất Đảng
Lao động Việt Nam - thăm một đơn vị phòng không vào năm 1967.
Năm nay đánh dấu kỷ niệm 50 năm ngày kết thúc
cuộc nội chiến từ năm 1955 đến năm 1975 giữa Bắc và Nam Việt Nam, một cuộc nội
chiến giữa người Việt nhưng mỗi bên được một phe trong Chiến tranh Lạnh ủng hộ.
Ở Việt Nam ngày nay, không được phép nói cuộc
chiến này là nội chiến giữa những người Việt Nam có niềm tin chính trị khác
nhau. Theo cách nhìn chính thống của nhà nước-Đảng Cộng sản, đây là cuộc chiến
tranh để bảo vệ và thống nhất đất nước bị nước ngoài xâm lược. Tất cả người Việt
Nam đều là nạn nhân của Mỹ và đoàn kết để chống lại Mỹ và tay sai người Việt của
Mỹ. Cho đến gần đây, các học giả và nhà báo nước ngoài chịu ảnh hưởng của phong
trào phản chiến những năm 1960 phần lớn đã lặp lại câu chuyện đó.
Tuy nhiên, các nguồn tài liệu gốc của Kho lưu
trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi đã đọc cho thấy một lịch sử phù hợp hơn với
quan điểm cho rằng cuộc chiến về bản chất là một cuộc nội chiến do các nhà lãnh
đạo cộng sản miền Bắc Việt Nam hoạch định và tiến hành.
Họ, những nhà lãnh đạo cộng sản miền Bắc Việt
Nam, rất trung thành với chủ nghĩa cộng sản và chân thành mong muốn đóng góp
cho cuộc cách mạng thế giới để lật đổ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Đã
đến lúc tất cả người Việt Nam và những người nghiên cứu cuộc chiến này hiểu rõ
hơn về nguyên nhân và bản chất của cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu
người Việt Nam.
Trong bài viết này, tôi phác thảo những diễn
biến chính trị dẫn đến sự bùng nổ của cuộc nội chiến, đưa ra những diễn giải từ
nguồn tiếng Việt của tôi. Trong phần cuối, tôi cũng nói sơ qua về cách giảng dạy
môn lịch sử ở Việt Nam ngày nay.
Hồ Chí Minh, người đã mang chủ nghĩa cộng sản
về Việt Nam, tại chiến khu Việt Bắc vào năm 1950
Hệ tư tưởng cộng sản đã đến Việt Nam như thế
nào?
Để hiểu về cuộc chiến, chúng ta phải bắt đầu
với câu chuyện hệ tư tưởng cộng sản đã đến Việt Nam như thế nào. Hệ tư tưởng
này ra đời ở châu Âu và các khái niệm cộng sản như đấu tranh giai cấp là điều
hoàn toàn xa lạ với văn hóa chính trị của Việt Nam. Không thể phủ nhận rằng học
thuyết này được du nhập vào Việt Nam là kết quả của công sức lao động kiên cường
của những người cộng sản Việt Nam như cố Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ
đáng kể từ Liên Xô và các đảng cộng sản ở các nước khác, chẳng hạn như Trung Quốc
và Pháp.
Phong trào dân tộc chủ nghĩa chống thực dân
phát triển vào khoảng đầu thế kỷ 20 khi Việt Nam nằm dưới sự cai trị của Pháp.
Các nhà hoạt động Việt Nam đã tiếp nhận các ý tưởng chính trị hiện đại từ các
nguồn Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp. Một số người ủng hộ cải cách văn hóa để hiện
đại hóa đất nước như một cách chuẩn bị cho nền độc lập dân tộc. Những người
khác kêu gọi đấu tranh bạo lực để lật đổ chế độ cai trị của thực dân.
Cách mạng Nga đã truyền cảm hứng cho nhiều
nhà cách mạng Việt Nam. Một số người hy vọng nhận được sự giúp đỡ về mặt quân sự
của Nga để chống lại người Pháp. Những người khác (thường là những người trẻ tuổi,
có trình độ học vấn cao hơn và biết tiếng Pháp) đã lấy cảm hứng từ hệ tư tưởng
Mác-Lênin, đặc biệt là lý thuyết đấu tranh giai cấp trong lịch sử.
Họ say mê với ý tưởng cách mạng để thay đổi
thế giới và không chỉ giành độc lập cho Việt Nam mà còn tạo ra một xã hội được
xây dựng trên chế độ sở hữu công cộng về tài sản và không có chế độ người bóc lột
người.
Trong xã hội lý tưởng đó, sau khi giai cấp
bóc lột đã bị thủ tiêu, mọi tầng lớp khác đều bình đẳng. Nam nữ cũng bình đẳng.
Việt Nam cộng sản sẽ là anh em với các nước cộng sản khác trong gia đình xã hội
chủ nghĩa quốc tế. Với tấm gương của Liên Xô dưới thời Stalin đang công nghiệp
hóa rất nhanh chóng, những nhà cách mạng Việt Nam hy vọng sẽ được học hỏi và dẫn
dắt để đưa Việt Nam đến chỗ phú cường.
Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo cộng sản tương lai,
đã tiếp thu chủ nghĩa cộng sản khi còn là một thanh niên sống ở Pháp. Ông tin
vào lời hứa của Lênin sẽ hỗ trợ các thuộc địa. Đầu tiên ông gia nhập Đảng Xã hội
Pháp và giúp thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào năm 1920. Ông cũng đã đến Liên
Xô, nơi ông học tại Trường Stalin dành cho sinh viên quốc tế muốn tìm hiểu về
khoa học tổ chức cách mạng. Từ đó, ông được tuyển dụng bởi Quốc tế Cộng sản thứ
Ba (gọi tắt là Quốc tế Cộng sản), một tổ chức do Lênin thành lập để chỉ đạo các
phong trào cộng sản trên toàn thế giới.
Sau đó, Hồ Chí Minh đã đến miền nam Trung Quốc
với tư cách là nhân viên của Quốc tế Cộng sản để giúp phát triển phong trào cộng
sản ở Đông Nam Á. Tại đó, ông hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Hong Kong (Hương Cảng) vào năm 1930 và giúp thành
lập các đảng cộng sản ở Xiêm (Thái Lan) và Mã Lai. Trong suốt những năm 1930, Hồ
Chí Minh làm việc tận tụy cho Quốc tế Cộng sản, chỉ trở về Việt Nam vào năm
1941.
Nhiều người khác như Trần Phú và Hà Huy Tập
đã theo Hồ Chí Minh và được gởi sang đào tạo tại Moscow và sau đó trở về Việt
Nam. Hai lần, vào những năm 1930-31 và 1940, ĐCSVN bị người Pháp đàn áp nặng nề
và gần như xóa sổ, nhưng nhờ sự hỗ trợ của Liên Xô đã phục hồi.
Tại sao Hồ Chí Minh lại liên lạc với Hoa Kỳ
vào năm 1945?
Như vậy không có gì bàn cãi việc Hồ Chí Minh
là một chiến sĩ trong phong trào cộng sản toàn cầu trong nhiều thập kỷ. Điều
này là rất quan trọng để hiểu tại sao Việt Nam hậu thuộc địa dưới sự lãnh đạo của
ông lại trở thành một quốc gia cộng sản.
Nhiều học giả như Mark Bradley tin rằng Hồ
Chí Minh là một người yêu nước chỉ muốn đất nước mình được giải phóng khỏi sự
cai trị của Pháp. Họ lập luận rằng những người cộng sản Việt Nam như chủ tịch Hồ
Chí Minh buộc phải gia nhập phe Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh chỉ vì Tổng thống
Hoa Kỳ Harry Truman không công nhận chính phủ của Hồ Chí Minh vào cuối năm
1945. Bằng chứng là Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ
trong bản tuyên ngôn độc lập của ông và ông đã từng viết lá thư cho Truman. Nhưng
tiếc là vị tổng thống này coi Hồ Chí Minh là một người cộng sản và không trả lời.
Tuy nhiên, đến năm 1945, Hồ Chí Minh không chỉ
là một người yêu nước, ông đã là một nhà hoạt động cộng sản lão luyện. Vào thời
điểm đó, ông đã phục vụ với tư cách là một nhân viên của Quốc tế Cộng sản trong
hai thập kỷ và giúp thành lập các đảng cộng sản ở Đông Dương, Xiêm và Mã Lai.
Hồ Chí Minh đã để lại nhiều hồ sơ, tài liệu
và bài viết thể hiện niềm tin mạnh mẽ của ông vào chủ nghĩa cộng sản, lòng
trung thành phục vụ Quốc tế Cộng sản và sự khinh ghét của ông đối với chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Những người đồng chí của ông trong
ĐCSVN cũng tương tự, nếu không muốn nói là cực đoan hơn.
Bức
thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry S. Truman
Thực tế là, vào năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và sự công nhận quốc tế cho nhà nước mới của
mình để đối phó với người Pháp. Đó là lý do tại sao ông viết thư cho Tổng thống
Truman. Nhưng các tài liệu nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam vào thời điểm đó
chỉ coi Hoa Kỳ là đồng minh tạm thời và có nhiều khả năng là mối đe dọa lâu
dài. Đúng là Hồ Chí Minh đã viết thư cho Truman, nhưng ông cũng viết thư cho Thống
chế Stalin, nhà lãnh đạo Liên Xô, để xin giúp đỡ cùng lúc đó.
Hồ Chí Minh đã gửi quân sang miền nam Trung
Quốc hỗ trợ lực lượng cộng sản Trung Quốc vào cuối những năm 1940 để giành chiến
thắng trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Stalin quan tâm đến Pháp hơn là Đông
Dương hay Việt Nam, và Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả trong khả năng của
mình để Stalin chú ý đến Đông Dương và ủng hộ những người cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã bí mật đến Nga và đề xuất với
Stalin một hiệp ước phòng thủ chung vào năm 1950, nhưng không được ông ấy chấp
thuận. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu Trung Quốc cộng sản gửi cố vấn quân sự để chỉ
huy quân đội Việt Nam xuống tận cấp tiểu đoàn. Đảng của ông hoàn toàn ủng hộ
ông trong nỗ lực tìm kiếm sự giúp đỡ từ khối Liên Xô.
Không có bằng chứng hay tài liệu nào chứng
minh là những người cộng sản Việt Nam thích Hoa Kỳ hơn Trung Quốc và Liên Xô.
Các học giả và nhà báo phản chiến vào những năm 1960, như George Kahin, David
Marr và Frances Fitzgerald, đa phần không đọc tiếng Việt và chỉ đọc những gì
ĐCSVN muốn họ đọc. Các học giả và nhà báo phản chiến đó đã đưa ra câu chuyện
này để lập luận rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào Việt Nam để giúp đỡ chế độ
miền Nam Việt Nam chống cộng sản.
'Cách mạng tháng Tám' năm 1945 bắt đầu một cuộc
nội chiến
Cuộc nội chiến 1955-1975 thực sự bắt nguồn từ
cuối năm 1945. Vào thời điểm đó, Nhật Bản đang chiếm đóng Đông Dương và các
chính sách của họ đã tạo ra một nạn đói lớn ở miền Bắc Việt Nam khiến hơn một
triệu người thiệt mạng. Khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, một khoảng
trống quyền lực xuất hiện và nhiều người Việt Nam đã lợi dụng tình hình hỗn
quân hỗn quan để phá các kho thóc và văn phòng chính quyền. Một số nhóm chính
trị xuất hiện chiếm giữ chính quyền địa phương.
Việt Minh là một nhóm trước đây được ĐCSVN tổ
chức như một mặt trận để tập hợp sự ủng hộ của người dân cho phong trào. Các
nhóm Việt Minh giành được quyền lực ở Hà Nội, Sài Gòn và một số thành phố khác.
Các nhóm khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Đại Việt cũng chiếm giữ chính quyền
ở một số nơi. Các nhóm Việt Minh đã đưa những người cộng sản lên nắm quyền và Hồ
Chí Minh, nhà lãnh đạo cộng sản, đã thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vào đầu
tháng 9 năm 1945.
Sau khi lên nắm quyền, những người cộng sản
đã nhanh chóng xây dựng một lực lượng cảnh sát và một quân đội, sử dụng lực lượng
này trước tiên để đàn áp các đối thủ chính trị. Nhiều nhà lãnh đạo dân tộc, tôn
giáo, kể cả những người theo lãnh tụ Trotsky của Quốc tế Cộng Sản thứ Tư (là kẻ
thù của Stalin và Quốc tế Cộng sản thứ Ba), đã bị chính quyền Việt Nam Dân Chủ
Cộng hòa bắt giữ và sát hại như Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, và Huỳnh
Phú Sổ. Quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã phát động các cuộc tấn
công để chiếm các thành phố do các đảng khác kiểm soát. Các bên khác đã chống lại
nhưng đều bị tiêu diệt, ngoại trừ vài nhóm ở miền Nam Việt Nam như Phật giáo
Hòa Hảo hoặc Cao Đài.
Sau những nỗ lực bất thành để đàm phán với
Pháp về nền độc lập của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên chiến với Pháp vào
tháng 12 năm 1946. Quân đội Pháp hùng mạnh hơn và đã nhanh chóng đẩy lui quân đội
Việt Nam ra khỏi các thành phố và thị trấn. Quân đội của Việt Nam Dân Chủ Cộng
hòa dựa vào vùng nông thôn và địa hình đồi núi để tiến hành chiến tranh du
kích.
Hình các lãnh tụ cộng sản Georgy Malenkov, Hồ
Chí Minh và Mao Trạch Đông tại một cuộc đấu tố trong Cải cách Ruộng đất (trái).
Bên phải là hình ảnh thường gặp thời Cải cách Ruộng đất.
Đến năm 1949, cuộc chiến đã đi vào bế tắc,
nhưng chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Trung Quốc đại lục đã làm
thay đổi tất cả. Với sự giúp đỡ đáng kể từ Trung Quốc, bao gồm cả việc cung cấp
cố vấn quân sự và vũ khí hạng nặng, và việc đào tạo và trang thiết bị cho một số
sư đoàn, quân đội của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đã có thể đánh bại căn cứ kiên
cố của Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954, buộc Pháp phải từ bỏ mong muốn duy
trì ảnh hưởng Đông Dương.
Cố vấn Trung Quốc cũng đã giúp chính phủ của
Hồ Chí Minh thực hiện chiến dịch Cải cách Ruộng đất trong giai đoạn 1953-1956.
Chiến dịch này mở ra một cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt ở nông thôn để xóa bỏ
giai cấp địa chủ. Những người nông dân nghèo ở hầu hết các làng xã được huy động
để đứng lên chống lại địa chủ.
Hàng chục ngàn địa chủ và nông dân giàu có đã
bị tra tấn và hành quyết trong chiến dịch chỉ vì tội có sở hữu đất đai và thuê
người làm. Chiến dịch đã giúp chính quyền Hồ Chí Minh huy động thêm nhân lực và
thuế cho chiến tranh. Nó giúp chế độ của ông xây dựng được sự ủng hộ mạnh mẽ từ
những người nông dân nghèo.
Người Trung Quốc cũng giúp ĐCSVN tổ chức lại
chính quyền của mình theo mô hình cộng sản Trung Quốc. Điều lệ của ĐCSVN năm
1951 đã liệt kê tư tưởng của Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc,
là một trong những trụ cột trong hệ tư tưởng của đảng. Ba trụ cột khác là Mác,
Lênin và Stalin.
VIDEO : "Tháng 4/1975: Tường thuật của
BBC", Thời lượng 15,04
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cz957yjnd9lo
Đời sống và kinh tế ở miền Bắc Việt Nam sau
năm 1954
Điều kiện kinh tế ở Bắc Việt Nam trong những
năm 1950 nói chung là kém. Chiến tranh với Pháp đã gây ra thiệt hại đáng kể về
tài sản và mùa màng, trong khi việc động viên nhân lực cho quân đội đã tạo ra
tình trạng thiếu hụt lao động. Người dân kiệt sức vì gánh nặng thuế má và nhân
lực buộc phải đóng góp cho cả hai bên. Một số nơi xảy ra tình trạng thiếu lương
thực và nạn đói, nhưng vấn đề được giảm bớt nhờ viện trợ lương thực từ khối
Liên Xô.
Trớ trêu là nhiều khó khăn kinh tế lại do
chính quyền cộng sản tự tạo ra. Cải cách ruộng đất đã sát hại hàng chục ngàn
người và làm gián đoạn sản xuất. Nó tạo ra căng thẳng và hận thù giữa những người
dân ở nhiều nơi và gây ra một cuộc nổi loạn ở một huyện thuộc tỉnh Nghệ An.
Với sự hỗ trợ từ khối Xô Viết, chính quyền Hồ
Chí Minh bắt tay vào các kế hoạch đầy tham vọng nhằm tạo ra một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước buộc hầu hết các doanh nghiệp tư nhân phải từ bỏ tài sản
của mình và tham gia vào các hợp tác xã. Tư nhân bị cấm buôn bán nhiều loại
hàng hóa. Hàng ngàn cư dân thành thị được khuyến dụ và di dời về nông thôn để
làm nông.
Năm 1958, miền Bắc Việt Nam bắt chước Trung
Quốc phát động một chiến dịch tập thể hóa nông nghiệp. Tất cả nông dân đều bị
ép buộc giao nộp đất đai của mình và của tổ tiên để lại để tham gia vào các hợp
tác xã. Nhưng sản xuất không được cải thiện mà lại giảm đi trong những năm sau
đó. Năm 1962, nông dân ở các tỉnh nghèo đã bị đe dọa bởi nạn đói.
Binh lính và người dân Việt Nam cổ vũ quân đội
Việt Minh diễu binh trên đường phố Hà Nội sau chiến thắng trong Chiến tranh
Đông Dương, ảnh chụp ngày 10/10/1954
Vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Một số nhà sử học cho rằng chủ tịch Hồ Chí
Minh bị các nhà lãnh đạo trẻ hơn trong ĐCSVN chỉ trích vì các chính sách
"hữu khuynh" của ông, và rằng ông đã bị mất vai trò lãnh đạo vào những
năm 1960. Thực tế phức tạp hơn: Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục được các đồng chí của
mình kính trọng với tư cách là người sáng lập ra chế độ. Tệ sùng bái cá nhân của
ông vẫn tiếp tục mạnh mẽ trên khắp miền Bắc Việt Nam.
Vai trò chính của ông không phải là quản lý
các công việc hằng ngày, nhưng ông vẫn tích cực hoạt động với tư cách là một chủ
tịch nước và nhà ngoại giao, dẫn đầu các phái đoàn ra nước ngoài để yêu cầu viện
trợ. Ông cũng là người cổ vũ chính cho cuộc cách mạng và chiến tranh ở miền
Nam, viết các chuyên mục báo thường xuyên để kích động tình yêu đối với Trung
Quốc và Liên Xô và lòng căm thù đối với Hoa Kỳ.
Biến chuyển trong mối quan hệ với Trung Quốc
và Liên Xô
Mối quan hệ giữa Bắc Việt Nam và hai nước anh
em chính là Trung Quốc cộng sản và Liên Xô đã thay đổi đáng kể trong những năm
1950 và 1960. Vào những năm 1950, những người cộng sản Việt Nam tin tưởng, phục
tùng và tôn kính các nhà lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc như Joseph Stalin và
Mao Trạch Đông. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi Liên Xô và Trung Quốc cộng sản
"vừa là đồng chí vừa là anh em," xem Stalin và Mao là những nhà lãnh
đạo xứng đáng của phong trào cộng sản thế giới. Người cộng sản Việt Nam nhất nhất
tuân theo lời khuyên của họ, không cần thắc mắc.
Đối với chủ nghĩa cộng sản thế giới, Stalin
giống như giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo, mặc dù Stalin có lẽ còn có nhiều
uy quyền hơn. Cái chết của ông vào năm 1953 là nguyên nhân chính gây ra tình trạng
hỗn loạn trong phe cộng sản. Nhà lãnh đạo Liên Xô mới Nikita Khrushchev đã chỉ
trích Stalin vì những sai lầm, sự tàn bạo và tệ sùng bái cá nhân đối với
Stalin. Khrushchev cho rằng phe cộng sản và phe tư bản nên tránh đối đầu quân sự,
chỉ nên cạnh tranh hòa bình trong việc phát triển kinh tế. Ông chủ trương chính
sách giảm căng thẳng với phương Tây để tránh chiến tranh hạt nhân.
Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Albania và một số
quốc gia cộng sản khác phản đối mạnh mẽ chính sách của Khrushchev, và Liên Xô
trừng phạt họ bằng cách hủy bỏ viện trợ. Giới lãnh đạo miền Bắc Việt Nam bị
chia rẽ giữa những người trung thành với Moscow (bao gồm cả Chủ tịch Hồ Chí
Minh) và những người bị thuyết phục bởi lập trường hiếu chiến của Trung Quốc
(như Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và tướng Nguyễn Chí Thanh). Phe hiếu chiến ở Bắc
Việt Nam thắng thế vào năm 1963. Phe này bảo vệ Stalin, coi Khrushchev là kẻ phản
bội, và kêu gọi khối cộng sản tiếp tục duy trì chính sách đối đầu với phương
Tây nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới.
May mắn cho Bắc Việt Nam, Khrushchev bị lật đổ
vào năm 1964 và nhà lãnh đạo mới, Leonid Brezhnev, đã ủng hộ miền Bắc Việt Nam
khi bị Hoa Kỳ ném bom. Liên Xô và Trung Quốc vẫn xung đột và cạnh tranh với
nhau giành quyền lãnh đạo phe cộng sản. Trung Quốc gửi nhiều viện trợ, có thể
là nhiều hơn Liên Xô, cho miền Bắc Việt Nam, cũng như đưa hàng trăm ngàn (hơn
300.000) binh sĩ sang giúp bảo vệ miền Bắc Việt Nam để quân đội miền Bắc có thể
xâm nhập vào miền Nam. Liên Xô đã gửi khoảng 5.000 cố vấn và nhân viên kỹ thuật,
trong khi Bắc Triều Tiên gửi sang vài trăm phi công lái máy bay phản lực. Tổng
cộng, viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô gần bằng những gì miền Nam Việt Nam nhận
được từ Hoa Kỳ.
Lý do miền Bắc Việt Nam tiến hành chiến tranh
ở miền Nam
Một số lãnh đạo cấp cao của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thời Chiến tranh Việt Nam: (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới) Võ
Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn.
Sau Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt Việt
Nam thành hai miền Nam Bắc, với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt
Nam Cộng hòa ở miền Nam. Chính phủ miền Nam mới được Pháp giao trả quyền lực
nên khá yếu ớt. Miền Bắc Việt Nam muốn tiếp thu miền Nam Việt Nam để thống nhất
đất nước và thiết lập chủ nghĩa cộng sản trên toàn quốc.
Chính quyền miền Bắc sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau để làm mất ổn định Nam Việt Nam, đầu tiên với việc ông Lê Duẩn không
tập kết ra Bắc và tìm cách liên kết với các lực lượng giáo phái chống lại Thủ
tướng Ngô Đình Diệm. Nhưng công tác này thất bại và Ngô Đình Diệm thành công
trong việc thu phục hay dẹp yên các lực lượng đó.
Sau đó chính quyền miền Bắc Việt Nam yêu cầu
tổ chức bầu cử nhưng chính quyền miền Nam từ chối vì họ cho rằng không thể có bầu
cử tự do dưới chế độ cộng sản. Không còn giải pháp nào khác ngoài chiến tranh,
nhưng Miền Bắc Việt Nam không thể đem quân vào đánh miền Nam vì hai đồng minh
chính của miền Bắc là Liên Xô và Trung Quốc đều không đồng ý. Liên Xô thậm chí
còn đề nghị cả 2 nước Việt Nam là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt
Nam Cộng hòa ở miền Nam gia nhập Liên Hợp Quốc cùng một lúc để có hòa bình và ổn
định, nhưng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ đề nghị đó.
Năm 1957, các tổ chức và đảng viên cộng sản
còn cài lại ở miền Nam được cho phép vũ trang trở lại để tự vệ và tấn công các
chính quyền địa phương của Việt Nam Cộng hòa. Năm 1959, miền Bắc Việt Nam bắt đầu
đưa quân và vũ khí vào miền Nam để tiến hành chiến tranh du kích. Miền Nam Việt
Nam đã đáp trả và giành lại thế chủ động trên chiến trường vào năm 1962.
Vào cuối năm 1963, ĐCSVN coi cuộc đảo chính lật
đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam là cơ hội để mở rộng chiến
tranh và chinh phục miền Nam Việt Nam. Tình hình quân sự bất ổn ở miền Nam là cớ
để Hoa Kỳ đưa quân vào Nam Việt Nam vào năm 1965. Nhiều học giả cho rằng Hoa Kỳ
chọn leo thang chiến tranh, nhưng thực tế là Hoa Kỳ chỉ phản ứng lại quyết định
leo thang trước đó của miền Bắc Việt Nam.
Môn học lịch sử ở Việt Nam ngày nay
Ở Việt Nam ngày nay, lịch sử là một công cụ
tuyên truyền để phục vụ cho các mục tiêu chính trị của chế độ. Phiên bản chính
thức của lịch sử không phải là chủ đề để đặt câu hỏi hoặc tranh luận. Trong các
bài học lịch sử, chế độ nhận công lao về mọi thành công trong khi hiếm khi thừa
nhận bất kỳ sai lầm nào. Khoảng một nửa chương trình lịch sử 2.000 năm của Việt
Nam dành cho lịch sử và chính sách của Đảng Cộng sản từ năm 1930 để tôn vinh
vai trò của đảng này trong lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa cộng sản được giảng dạy
như một lựa chọn tất yếu đối với Việt Nam, là cách duy nhất để Việt Nam giành
được độc lập trong quá khứ và trở thành một quốc gia phát triển trong tương
lai.
Chiến tranh Việt Nam được giảng dạy như một
cuộc đấu tranh anh hùng chống lại nước ngoài xâm lăng, chứ không phải là một cuộc
nội chiến từ gốc rễ. Trong chiến tranh, Đảng Cộng sản đã đưa ra các chính sách
sáng suốt dẫn đến hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Thiệt hại của chiến
tranh thảm khốc trong gần hai thập niên ít được nói đến. Các cuộc chiến tranh
chống Pháp và Hoa Kỳ được dạy rộng rãi trong khi cuộc chiến chống Campuchia và
Trung Quốc ít được nhắc đến. Nhìn chung, các bài học lịch sử về những cuộc chiến
tranh này chỉ nhằm mục đích hợp pháp hóa và biện minh cho sự cai trị vĩnh viễn
của Đảng Cộng sản.
--------------------------
·
Vũ Tường là giáo sư giảng
dạy ở Khoa Chính trị học, Đại học Oregon (Mỹ) từ năm 2008. Ông điều hành Trung
tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ và là tác giả của nhiều công trình về lịch sử và chính
trị Việt Nam hiện đại.
No comments:
Post a Comment