Thursday, May 1, 2025

HỒI ỨC VỀ SÀI GÒN NĂM 1975 : CÂU CHUYỆN CÁ NHÂN VỀ SỰ SỤP ĐỔ HỖN LOẠN CỦA NAM VIỆT NAM (David Brown  -  Asia Sentinel)

 



Hồi ức về Sài Gòn năm 1975: Câu chuyện cá nhân về sự sụp đổ hỗn loạn của Nam Việt Nam

David Brown  -  Asia Sentinel

Song Phan chuyển ngữ

01/05/2025

https://baotiengdan.com/2025/05/01/hoi-uc-ve-sai-gon-nam-1975-cau-chuyen-ca-nhan-ve-su-sup-do-hon-loan-cua-nam-viet-nam/

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/05/1-4.jpg

Lính Bắc Việt tại dinh Độc Lâp: Nguồn ảnh: Associated Press

 

Lời giới thiệu: Ngày 30 tháng 4 đánh dấu kỷ niệm 50 năm ngày Nam Việt Nam thất thủ. Sự nghiệp 36 năm của David Brown tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu từ thời chiến tranh Việt Nam, nơi ông làm trợ lý chính trị cho John Vann huyền thoại, và nơi ông kết hôn với vợ mình là Tuyết. Khi nghỉ hưu, Brown đã ghi chép lại quá trình phát triển của Việt Nam với tư cách là một diễn viên trong đời sống chính trị và kinh tế của Đông Nam Á. Vào thời điểm đó, ông đang làm nhân viên bộ ngoại giao tại Nhật Bản. Đây là câu chuyện về việc ông vất vả tìm cách cứu gia đình bên vợ.

 

                                                   ***

 

Mỗi buổi tối đầu năm 1975, vợ tôi và tôi – những học viên tại trường tiếng Nhật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Yokohama – đều dò kênh truyền hình công cộng của Nhật Bản. Chúng tôi không chỉ làm bài tập về nhà; bản tin của NHK từ Sài Gòn là nguồn tin tức tốt nhất của chúng tôi về quê hương của vợ tôi và nhiệm sở trước đây của tôi.

 

Tin tức hàng đêm từ Việt Nam đã trở nên đáng ngại, rồi chuyển sang đen tối tuyệt đối vào đầu tháng 3 khi Bắc Việt tiến hành một cuộc tấn công phối hợp tốt. Trong vòng vài tuần, các sư đoàn của họ đã ở cách Sài Gòn trong vòng sáu mươi dặm.

 

Chúng tôi có nhiều bạn bè còn ở lại Việt Nam và dĩ nhiên có gia đình bên vợ tôi. Cuộc hôn nhân công khai của chúng tôi trước đó 5 năm đã khiến cha mẹ, anh chị em của cô ấy bị coi là tay sai của Mỹ. Trong trường hợp Sài Gòn bị rơi vào tay lực lượng Hà Nội, sinh kế, nếu không nói là mạng sống của họ sẽ trong tình trạng nguy hiểm ngay trước mắt.

 

Tôi đã gửi một lá thư đầy âu lo cho một người bạn ở bộ phận lãnh sự của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Anh ấy đã hồi âm rằng “chúng tôi sẽ đặt gia đình của vợ anh vào danh sách của chúng tôi và bảo đảm rằng nếu như chúng tôi có di tản thì họ sẽ ra đi theo”. Điều đó làm chúng tôi yên tâm một lúc, nhưng tình hình quân sự tiếp tục xấu đi.

 

Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin có vẻ rất tự tin, một mực cho rằng với đủ trợ giúp theo mục tiêu, mà với điều đó ông muốn nói là sự trở lại của không lực Mỹ và gói viện trợ khẩn cấp mà Quốc hội đã không đồng ý trợ cấp, phần phía Nam của Nam Việt Nam có thể sẽ giữ được.

 

Tôi không tin tưởng điều đó, vợ tôi cũng vậy. So sánh các tường thuật trên NHK với thư từ mà chúng tôi nhận được từ gia đình Tuyết ở Việt Nam, rõ ràng rằng chúng tôi có hiểu biết chính xác về tình hình chiến lược hơn cha mẹ vợ tôi. Họ đã từng gửi nhắn lại rằng “Ồ, trước đây chúng tôi đã từng gặp rắc rối rồi. Chúng tôi sẽ qua được thôi” và cứ thế.

 

Tại Tòa Đại sứ Sài Gòn, Đại sứ Martin đã cương quyết chống lại việc tiến hành bất kỳ loại di tản nào có thể làm xói mòn sự tin tưởng của chế độ Nam Việt Nam và làm nó sụp đổ nhanh hơn.

 

Tuy nhiên, qua giữa tháng 4, bạn bè ở Sài Gòn đã viết thư cho tôi rằng một chiến dịch di tản bán chính thức đã đi vào tốc độ cao. Chiến dịch này đã được nhân viên Hoa Kỳ vẫn còn ở Việt Nam, được rút ra từ văn phòng tư vấn quân đội và từ USAID, CIA và các viên chức tòa Đại sứ Hoa Kỳ, điều hành. Họ tình nguyện ở lại cho đến tận cùng và cố di dời càng nhiều bạn bè của Mỹ đến Hoa Kỳ càng tốt.

 

Thật ra, một vài tuần trước đó, tôi đã tình nguyện đi từ Nhật Bản đến phụ giúp cho cuộc di tản. Câu trả lời tôi nhận được ‘thông qua các kênh’ là một chữ ‘không’ tô đậm. Một viên chức giấu tên ở Washington đã báo cho tôi biết rằng mục tiêu là đưa người Mỹ ra khỏi Việt Nam, không phải ai khác. Lằn ranh cuối cùng: Không có cửa nào để tôi trở lại Sài Gòn.

Điều đó đặt chúng tôi vào thế bất khả. Sau nhiều cuộc trò chuyện khổ não, Tuyết và tôi quyết định rằng tôi phải trở lại Việt Nam, kết nối với bạn bè và thuyết phục cha mẹ cô rời đi. Nếu họ nhất quyết muốn ở lại Sài Gòn, hai chúng tôi đồng ý rằng tôi nên thúc giục họ cho phép 8 chị em vợ tôi di tản.

 

Ngày hôm sau, 23 tháng 4, khi tôi bay về Nam Việt Nam, một người bạn đã chuyển lá thư xin lỗi của tôi đến Đại sứ Jim Hodgson. Tôi đã “vắng mặt không phép”.

 

Đêm đang buông xuống ở Sài Gòn khi tôi cố gọi điện thoại cho những người bạn làm việc tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ở đó. Hầu hết đã được cho về nước, nhưng đến lần thứ năm, tôi đã liên lạc được với một người bạn có giường trống. Sáng sớm hôm sau, ngày 24 tháng 4, anh bạn dẫn tôi đến một ‘ngôi nhà an toàn’ chỗ nhân viên tòa Đại sứ đang cấp giấy phép đi Mỹ.

 

Tôi giải thích nhiệm vụ của mình, và một cuộc kiểm tra hồ sơ đã xác minh rằng gia đình Tuyết đủ điều kiện tị nạn. Sau đó đến phần khó nhất: Tôi phải liên lạc với cha mẹ Tuyết mà không gây sự chú ý của hàng xóm. Tôi gọi điện cho một người bạn Việt Nam; anh ấy đã hào phóng đồng ý mang thư của vợ tôi đến cho cha mẹ cô ấy!

 

Khoảng giữa trưa, Liên, chị gái Tuyết đã đến ngôi nhà an toàn. Liên nói với tôi rằng thư của Tuyết đã thuyết phục cha mẹ cô rằng tình hình quả thật rất tuyệt vọng. Liên nói, cả gia đình sẽ rời đi ngoại trừ cô và hai đứa con nhỏ phải ở lại. Cô chưa nghe thấy tin tức gì của chồng, đại úy Thao, từ khi căn cứ của anh bị càn qua vài tuần trước đó. Trong khi đó, cha mẹ và anh chị em khác của anh đã đến Sài Gòn an toàn. Nghĩa vụ gia đình đòi hỏi Liên phải ở lại với gia đình chồng. Cô ấy nói rằng cô ấy không thể rời khỏi Việt Nam trừ khi gia đình chồng cũng có thể di tản.

 

Một lần nữa tôi hỏi ý nhóm của tòa Đại sứ Hoa Kỳ đang cấp giấy phép nhập cảnh. Vâng, tôi được cho biết, họ cũng có thể cấp giấy tờ cho gia đình chồng của chị Liên! Liên đã cung cấp một danh sách tên và ngày sinh. Chúng tôi được cho biết rằng những chiếc xe tải không dấu hiệu sẽ đón cả hai gia đình vào cuối ngày hôm đó.

 

Trong khi chờ đợi, tôi đi bộ trên những con đường gần đó. Đối với phần lớn người Sài Gòn, cuộc sống dường như không thay đổi nhiều. Họ vẫn tiếp tục phóng xe gắn máy và xe hơi, tập trung vào những thứ cấp bách lặt vặt.

 

Khoảng ba giờ chiều, hai xe tải nhỏ màu đen đã đến ‘ngôi nhà an toàn’. Trong một chiếc, đằng sau những ô cửa sổ sậm màu, là gia đình Tuyết; mỗi người có một chiếc túi nhỏ đựng một bộ quần áo để thay và một vài món đồ quý giá, đặc biệt là ảnh gia đình. Liên và gia đình chồng cô ở trong một chiếc xe kia. Họ gồm 18 người tất cả, được xác định trên các tài liệu của tòa Đại sứ Hoa Kỳ.

 

Tôi nhập với nhóm trên chiếc xe đầu tiên và hướng đến sân bay. Nửa giờ sau, chúng tôi dừng lại trước cổng khu phức hợp cố vấn Hoa Kỳ rộng lớn, giờ đây hầu như trống rỗng. Chúng tôi nín thở trong khi lính canh Việt Nam kiểm tra giấy tờ của xe. Họ không nhìn vào bên trong xe, chắc chắn là một phần của thỏa thuận giữa các quan chức Hoa Kỳ và người nào đó, phía VNCH, chịu trách nhiệm về việc ra vào Trại Alpha, khu phức hợp MACV.

Chúng tôi được đưa đến một sân đánh bowl 12 làn theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, ở đó chúng tôi ngồi xổm gần điểm giữa của làn số 4 trong suốt 24 giờ sau đó.

 

Cha Tuyết và tôi kết bạn với những người đứng đầu các nhóm phía sau và phía trước chúng tôi. Chúng tôi được cho ăn. Chúng tôi ngủ tại chỗ. Có người khá tử tế chỉnh đèn mờ lại.

Sáng hôm sau, ngày 25 tháng 4, tất cả các nhà vệ sinh đều bị tắc. Tôi đã tập hợp một nhóm thanh niên giúp tôi thông tắc. Tôi thuyết phục một trong những nhân viên người Mỹ chuẩn bị một vài chiếc quạt.

 

Có lẽ chúng tôi lại được cho ăn. Tôi không nhớ là gì hoặc như thế nào. Chúng tôi không di chuyển; chúng tôi chỉ gồm hơn một ngàn người sắp tị nạn ở sân chơi bowl đang chờ điều gì đó xảy ra. Có người nói với tôi rằng nhà độc tài Philippines, Marcos, đã cấm nhập người thêm tại các căn cứ của Hoa Kỳ ở đó. Cuộc không vận đã bị dừng lại cho đến khi sắp xếp được các điểm đến mới.

 

Vào buổi tối, hàng nối đuôi lại bắt đầu di chuyển. Một giờ sau, nhóm của chúng tôi được kiểm tra theo danh sách và được hộ tống ra ngoài. Không đèn cũng không có trăng sao. Chúng tôi được hướng dẫn tới xe buýt và được đưa ra đường bay, ở đó một số máy bay vận tải của Hoa Kỳ đang cho hành khách leo lên gần như hoàn toàn trong bóng tối.

 

Cách đó 200 mét về bên trái, một chiếc máy bay 747 của hãng Air France sáng đèn đang đón hành khách và về sau tôi nghe nói là số vàng dự trữ còn lại của ngân hàng trung ương VNCH.

 

Được các nhân viên phi hành Hoa Kỳ giúp đỡ, chúng tôi trèo lên những cánh cửa khoang hàng hóa đang rộng mở và vào trong bụng một chiếc C-141. Ghế đã được tháo ra hết. Dây thừng được buộc chặt vào mỗi bên của khoang hàng hóa và kéo dài theo chiều rộng của máy bay. Họ lấp đầy với những người tị nạn, khoảng 12 người một hàng, mỗi người với một chiếc vali nhỏ. Chúng tôi ngồi xếp bằng, quay mặt về phía sau; có tất cả 22 hàng. Đoàn của chúng tôi nằm trong số những người lên máy bay cuối cùng, vì vậy chúng tôi chỉ cách cánh cửa mở khoang hàng hóa khoảng 20 feet.

 

Không ai nói gì, không đứa trẻ nào khóc khi chiếc máy bay khổng lồ lăn bánh ra đường băng, tăng tốc bốn động cơ phản lực và cất cánh với độ dốc nhất có thể. Em trai và em gái út của Tuyết bám chặt vào cánh tay tôi.

 

Có lẽ 15 phút sau, máy bay đã thăng bằng khi chúng tôi băng qua bờ biển Việt Nam. Chân tôi đau nhức. Thương hại tôi, một nhân viên phi hành trực ở cửa khoang hàng hóa đã vẫy tay gọi tôi đi cùng anh ta. Tôi giải thích tại sao tôi lại có mặt trên chuyến bay này. Anh ta nói với tôi rằng chúng tôi đang hướng đến Guam và sẽ hạ cánh ở đó trong 6 giờ tới. Tôi đã xin một tờ giấy để viết thư cho Tuyết.

 

Mặt trời vừa mới mọc khi cuối cùng chúng tôi xuống máy bay tại Căn cứ Không quân Anderson. Lúc đó là ngày 26 tháng 4.

 

Anderson là căn cứ mà từ đó máy bay ném bom B-52 đã thả vô số bom xuống Đông Dương. Bây giờ không còn dấu hiệu nào của chúng nữa. Chúng tôi được đưa đến một nhà chứa máy bay lớn, được cho ăn và bảo đợi. Tôi tìm đường đến một văn phòng nơi tôi được phép sử dụng hệ thống điện thoại của Lực lượng Hoa Kỳ.

 

Tuyết trả lời điện thoại tại nhà chúng tôi ở vùng ngoại ô Yokohoma. Cô ấy nói rằng khi nghe giọng nói của tôi, với cô con gái bé bỏng trên hông, cô ấy bắt đầu khóc và run lên. Tuyết nói với tôi rằng tôi không bị rắc rối; cô ấy nói rằng tòa Đại sứ chỉ muốn biết họ có thể giúp gì cho chúng tôi!

 

Mọi chuyện đã được giải quyết trong vài ngày tiếp theo. Vào ngày 1 tháng 5, có một nỗi buồn lớn khi tin tức về việc chế độ Sài Gòn đầu hàng lan truyền khắp trại tị nạn. Hai ngày sau, cha mẹ, các em của Tuyết và tôi lên máy bay đến Nhật Bản. Liên và các con của cô, em gái Hạnh, 21 tuổi, và gia đình chồng cô đi thẳng đến Hoa Kỳ.

 

Mùa hè năm đó, ngay trước khi Tuyết và tôi trở lại Tokyo trong hai năm nữa, chúng tôi đã có thể đưa gia đình Tuyết đến sống tại một ngôi nhà ở San Francisco mà chúng tôi chỉ vừa đủ khả năng chi trả.

 

Sau đó, vào mùa hè năm 1977, chồng của Liên là Thao và những người bạn tín cẩn đã thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc thuyền đánh cá. Khi nhìn thấy một hòn đảo của Philippines, nó lại hết xăng, nhưng một lần nữa may mắn đã mỉm cười với gia đình chúng tôi: Những người đánh cá Philippines đã kéo họ đến nơi an toàn.

 

Trong những năm tiếp theo, “gia đình tị nạn” của chúng tôi sẽ xây dựng một cuộc sống mới ở Mỹ. Phần còn lại của câu chuyện sẽ do họ viết.






No comments: