Saturday, April 12, 2025

ĐÁNH GIÁ THẤP TRUNG HOA (Kurt M. Campbell và Rush Doshi | Foreign Affairs)

 



Đánh giá thấp Trung Hoa

Kurt M. Campbell và Rush Doshi | Foreign Affairs

Trần Giao Thủy dịch thuật

Posted on April 11, 2025   

https://dcvonline.net/2025/04/11/danh-gia-thap-trung-hoa/

 

Tại sao Mỹ cần một chiến lược mới ở tầm cỡ đồng minh để cân bằng với những lợi thế lâu dài của Bắc Kinh

 

HÌNH : https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/webp_card_portrait_1300w/public/images/2025/04/09/1_11FA-China-Final-01.jpg.webp?itok=D9k1VULT

Trình bầy của Tyler Comrie

 

Thành công trong cuộc cạnh tranh giữa những cường quốc đòi hỏi phải có sự đánh giá thực tế chặt chẽ và không cảm tính. Tuy nhiên, ước tính của người Mỹ về Trung Hoa lại dao động từ thái cực này sang thái cực khác. Trong nhiều thập niên, người Mỹ ghi nhận sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, thống trị thương mại quốc tế và tham vọng địa chính trị ngày càng tăng, đồng thời dự đoán ngày Trung Hoa có thể vượt qua một nước Mỹ đang bị phân tâm về mặt chiến lược và tê liệt về mặt chính trị; sau cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, và đặc biệt là vào thời kỳ đỉnh điểm của đại dịch COVID—19, nhiều người trong giới quan sát tin rằng ngày đó đã đến. Nhưng chỉ vài năm sau đó, con lắc lại chuyển sang thái cực khác khi Trung Hoa từ bỏ mục tiêu “không có COVID” và không khôi phục được tăng trưởng. Bắc Kinh có tình trạng nhân khẩu đáng ngại, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên không thể tưởng tượng nổi và tình trạng trì trệ ngày càng sâu sắc trong khi Mỹ đang củng cố những liên minh, tự hào về những đột phá trong trí tuệ nhân tạo và những kỹ thuật khác, và tận hưởng nền kinh tế bùng nổ với tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục và thị trường chứng khoán cao kỷ lục.

 

Một sự đồng thuận mới đã xuất hiện: rằng một Trung Hoa già cỗi, chậm chạp và ngày càng kém linh hoạt sẽ không thể vượt qua được một nước Mỹ đang trỗi dậy. Washington chuyển từ thái độ bi quan sang thái độ quá tự tin. Tuy nhiên, giống như những cơn chủ nghĩa thất bại trong quá khứ vì sai lầm, chủ nghĩa chiến thắng ngày nay cũng vậy, có nguy cơ đánh giá thấp cả sức mạnh tiềm ẩn và thực tế của đối thủ cạnh tranh duy nhất trong một thế kỷ có GDP vượt quá 70% so với Mỹ. Về những số liệu quan trọng, Trung Hoa đã vượt trội hơn Mỹ. Về mặt kinh tế, nước này có khả năng sản xuất gấp đôi. Về mặt kỹ thuật, Trung Hoa thống trị mọi thứ, từ xe điện đến lò phản ứng hạch tâm thế hệ thứ tư và hiện nay sản xuất nhiều bằng sáng chế hơn và những ấn phẩm khoa học của họ được trích dẫn nhiều nhất hàng năm. Về mặt quân sự, nước này có lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, tăng cường với khả năng đóng tầu gấp 200 lần so với Mỹ; kho phi đạn lớn hơn rất nhiều; và khả năng siêu thanh tiên tiến nhất thế giới—tất cả đều là kết quả của tiến trình hiện đại hóa quân sự nhanh nhất trong lịch sử. Ngay cả khi tăng trưởng của Trung Hoa chậm lại và hệ thống của nước này bị suy yếu, Trung Hoa vẫn sẽ là một quốc gia đáng gờm về mặt chiến lược.

Trong Chiến tranh Lạnh, giới lãnh đạo Liên Xô thường nhấn mạnh rằng “số lượng có phẩm chất riêng của nó.” Khi năng suất được cân bằng, những quốc gia có dân số lớn hơn, địa giới rộng hơn và sức mạnh kinh tế lớn hơn sẽ mở rộng và thống trị những quốc gia đi đầu nhỏ hơn. Động lực này đã chứng thực trong suốt chiều dài lịch sử. Mỹ đã được hưởng lợi từ nó trong thế kỷ trước. Nước này bắt kịp khuynh hướng kỹ nghệ hóa của Âu châu, sau đó tận dụng tầm cỡ lục địa và dân số lớn hơn để vượt qua Anh quốc, Đức và Nhật Bản, và cuối cùng là Liên Xô. Ngày nay, Trung Hoa là nước được hưởng lợi từ động lực đó và Mỹ đang có nguy cơ bị vượt mặt về mặt kỹ thuật, mất kỹ nghệ hóa về mặt kinh tế và bị một đối thủ có tầm cỡ và khả năng sản xuất lớn hơn nhiều đánh bại về mặt quân sự.

Đây là thời đại mà lợi thế chiến lược sẽ một lần nữa thuộc về những ai có thể hoạt động ở tầm cỡ lớn. Trung Hoa có tầm cỡ lớn, còn Mỹ thì không—ít nhất là không phải tự nó. Vì con đường khả thi duy nhất nằm ở liên minh với những nước khác, nên Washington sẽ đặc biệt thiếu khôn ngoan nếu đơn độc tham gia vào một cuộc cạnh tranh toàn cầu phức tạp. Bằng cách rút lui về phạm vi đang có ảnh hưởng ở Tây bán cầu, Mỹ sẽ nhường phần còn lại của thế giới cho một Trung Hoa đang hiện diện toàn cầu.

Tuy nhiên, việc công nhận nhu cầu về đồng minh và đối tác phải là điểm khởi đầu chứ không phải là điểm cuối — vì cách ứng xử truyền thống của Mỹ đối với những liên minh sẽ không còn đủ nữa. Cách ứng xử đó, bắt nguồn từ những giả định thời Chiến tranh Lạnh và kéo dài theo quán tính trong tám thập niên, có khuynh hướng coi đối tác là người phụ thuộc: người nhận được sự bảo vệ hơn là người đồng sáng tạo quyền lực. Chúng thường được coi là hữu ích, nhưng cũng gây phiền toái và thậm chí cản trở. Mô hình đó đã lỗi thời. Để đạt được quy mô, Washington phải chuyển đổi cấu trúc liên minh của mình từ tập hợp những mối quan hệ được quản lý thành nền tảng xây dựng khả năng tích hợp và tập hợp trên khắp những lãnh vực quân sự, kinh tế và kỹ thuật. Trên thực tế, điều đó có nghĩa là Nhật Bản và Nam Hàn sẽ giúp đóng tầu cho Mỹ và Đài Loan sẽ xây dựng những nhà máy bán dẫn cho Mỹ trong khi Mỹ chia sẻ kỹ thuật quân sự tốt nhất của mình với những đồng minh, và tất cả cùng nhau hợp nhất thị trường của họ đằng sau một bức tường quan thuế hoặc quy định chung được dựng lên để chống lại Trung Hoa. Loại hệ thống liên kết và có khả năng tương tác này, với Mỹ là nòng cốt, sẽ tạo ra những lợi thế tổng hợp mà Trung Hoa không thể đạt được nếu chỉ hoạt động một mình.

 

Nhưng cách giải quyết như vậy đòi hỏi phải định hướng lại căn bản, từ ngoại giao chỉ huy và kiểm soát sang chính sách nhà nước mới lấy khả năng làm trung tâm. Sự thay đổi cơ bản trong cách Mỹ xây dựng và nắm giữ quyền lực là điều cần thiết trong một thế giới mà nước này không còn lợi thế riêng về tầm cỡ nữa. Trong khi Trung Hoa chú trọng vào thời gian và số lượng, Mỹ và những đối tác phải chú trọng vào sự gắn kết và đòn bẩy tập thể. Để sử dụng lại lời cảnh cáo thường được cho là của Benjamin Franklin: chúng ta phải đoàn kết với nhau, nếu không chúng ta sẽ bị treo cổ từng nước một.

 

 

TỪ KÍCH THƯỚC ĐẾN TẦM CỠ

 

Không phải quốc gia lớn nào cũng trở thành cường quốc. Kích thước nói đến đến chiều dài rộng; tầm cỡ là khả năng sử dụng chính nó để tạo ra hiệu quả và năng suất và do đó vượt trội hơn những đối thủ. Những quốc gia nhỏ có thể trở thành quốc gia đẳng cấp thế giới bằng cách tối đa hóa hiệu quả trên nền tảng nhỏ, nhưng khi những quốc gia lớn áp dụng chiến lược đó trên nền tảng lớn hơn nhiều, họ có thể định hình lại thế giới. Thị trường trong nước lớn hơn có thể giúp giảm chi phí, cho phép những công ty cạnh tranh ở vị thế có lợi hơn với những công ty khác trên toàn thế giới. Dân số lớn hơn tạo ra nguồn nhân tài và nghiên cứu dồi dào hơn. Những quốc gia lớn ít phụ thuộc vào thương mại hơn, điều này giúp họ có khả năng phục hồi hiệu quả hơn. Và họ có thể điều động quân đội lớn hơn.

Những quốc gia nhỏ đã vươn lên nắm quyền nhờ lợi thế là nước đi trước, thường là với sự chấp thuận hoặc phớt lờ một cách vô hại của những quốc gia lớn hơn. Vào thế kỷ XVIII và XIX, Anh quốc có thể thống trị thế giới với lợi thế đi đầu về mặt kỹ nghệ hóa. Nhưng sự thống trị đó không kéo dài được lâu. Đức và Mỹ — một phần nhờ vào sự phổ biến những phương pháp kỹ nghệ của Anh — đã có thể đạt được tầm cỡ lớn hơn một hòn đảo nhỏ ở góc tây bắc Âu châu. Từ năm 1870 đến năm 1910, thị phần sản xuất toàn cầu của Anh đã giảm một nửa khi Mỹ và Đức bắt kịp và vượt qua. Trong khi sản lượng thép của Anh quốc tăng gấp đôi, lên 6,5 triệu tấn, sản lượng thép của Đức tăng gấp năm lần, lên 12 triệu tấn và sản lượng thép của Mỹ tăng gấp sáu lần, lên 23 triệu tấn. Đức và Mỹ đã đẩy Anh ra khỏi những ngành kỹ nghệ lớn, tận dụng thị trường trong nước lớn hơn, cơ sở tài nguyên và nhóm nhân tài để giảm chi phí cận biên. Lợi thế kinh tế đó chuyển thành lợi thế quân sự và kỹ thuật lớn hơn nữa. Những khuynh hướng này cùng nhau dẫn đến tiến trình phi kỹ nghệ hóa dần dần và cuối cùng là suy thoái ở Anh quốc.

Giới lãnh đạo và chiến lược gia người Anh đã nhận thức được vấn đề này. Vào cuối thế kỷ XIX, sử gia người Anh John Robert Seeley, trong một trong những cuốn sách có ảnh hưởng nhất thời bấy giờ, đã lo ngại về sự xuất hiện của “những quốc gia được tổ chức chặt chẽ trên tầm cỡ lớn hơn”, lưu ý rằng khi kỹ thuật phổ biến, “Nga và Mỹ sẽ vượt qua về sức mạnh của những quốc gia hiện được gọi là vĩ đại cũng giống như những quốc gia—dân tộc vĩ đại của thế kỷ XVI đã vượt qua Florence.” Ngay cả trước khi Đế quốc Anh sụp đổ, ông đã lo sợ rằng Anh quốc sẽ bị thu hẹp “xuống mức của một cường quốc thuần túy Âu châu” như Tây Ban Nha. Seeley không phải là người duy nhất kêu gọi đất nước của ông theo đuổi loại quy mô và hiệu quả mà một hòn đảo không thể tự mình tạo ra, bằn một “Anh quốc lớn hơn” — sự hội nhập chặt chẽ hơn với những vùng đất thuộc đế quốc ở Canada, Úc, New Zealand và miền Nam Phi châu. Nhưng những nỗ lực này bị trì hoãn, thực hiện không nhất quán và cuối cùng dẫn đến thất bại. Những thuộc địa đi theo con đường riêng của họ và người Anh không bao giờ tìm được tầm cỡ.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, London may mắn có được một đồng minh mạnh hơn nhiều là Washington — một đồng minh có đủ tầm cỡ giúp giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tầm cỡ đó rất rõ ràng với những đối thủ. Trước chiến tranh, Hitler đã nhận xét rằng “Liên bang Mỹ… đã tạo ra một hệ số quyền lực có kích thước đến mức đe dọa lật đổ mọi bảng xếp hạng nhà nước quyền lực trước đây.” Đô đốc Nhật Bản Isoroku Yamamoto dự đoán rằng quaun đội của nước ông sẽ “hoạt động mạnh trong sáu tháng hoặc một năm đầu tiên, nhưng tôi hoàn toàn không tin tưởng vào năm thứ hai và thứ ba” vì lợi thế sản xuất của Mỹ. Bộ trưởng ngoại giao Ý cũng công nhận rằng một cuộc chiến kéo dài sẽ có lợi cho Mỹ: “Ai sẽ có sức bền bỉ nhất? Đây chính là cách đặt câu hỏi.” Tất cả những cường quốc phe Trục đều lo sợ khả năng kỹ nghệ của Mỹ. Họ hiểu rằng số lượng là một phẩm chất riêng biệt.

 

Ngày nay, tầm cỡ và khả năng đáng sợ đó thuộc về Trung Hoa. Những chuyên gia chiến lược Mỹ phải đối mặt với nguy cơ rằng Mỹ có thể rơi vào tình trạng của Anh quốc cách đây một thế kỷ. Kinh nghiệm của Anh vừa đưa ra bài học vừa đưa ra lời cảnh cáo: nỗ lực thống nhất đế quốc của nước này là quá ít và quá muộn. Nhưng Mỹ ngày nay có thể thành công ở nơi mà Anh đã thất bại, bằng cách quy tụ đồng minh và đối tác theo những cách mới.

 

 

TĂNG VÀ GIẢM VÀ TĂNG

 

Điểm khởi đầu cho thành công đó phải là sự tự đánh giá chính xác. Trong những năm gần đây, tạp chí Foreign Affairs đã đăng tải một loạt luận văn nêu quan điểm cho rằng Mỹ có lợi thế rõ ràng và lâu dài so với Trung Hoa. Michael Beckley lập luận rằng “nền kinh tế Trung Hoa đang suy giảm so với nền kinh tế Mỹ” và “khuynh hướng hiện tại đang củng cố một thế giới đơn cực”. Stephen Brooks và Ben Vagle tuyên bố rằng “Mỹ vẫn có lợi thế mạnh và bền vững” có thể mang lại cho nước này đòn bẩy kinh tế đáng kể trong một cuộc xung đột. Jude Blanchette và Ryan Hass kết luận rằng “Mỹ vẫn có lợi thế quan trọng so với Trung Hoa về mặt động lực kinh tế, ảnh hưởng toàn cầu và đổi mới kỹ thuật.”

Dự đoán sự trỗi dậy hay sụp đổ của những cường quốc luôn là một bài tập khó, do thông tin không đầy đủ, nguy cơ thiên vị, ảnh hưởng lâu dài của những sự kiện hiện tại và thách thức trong việc phân loại số liệu nào quan trọng nhất và trong khung thời gian nào. Giới chiến lược người Mỹ trước đây đã dao động từ thái cực này sang thái cực khác khi đánh giá Nhật Bản và Liên Xô. Điểm yếu tương tự cũng thấy được trong đánh giá chung về Trung Hoa và Mỹ.

Không còn nghi ngờ gì nữa, Trung Hoa đang phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng: xã hội lão hóa, nợ công tăng cao, hiệu suất trì trệ, rủi ro ngày càng tăng trên thị trường nhà ở, tỷ lệ thất nghiệp cao ở giới trẻ và đàn áp khu vực tư nhân. Nhưng ngay cả những thách thức kinh tế vĩ mô nghiêm trọng cũng không chuyển thành bất lợi về mặt chiến lược. Hai sự thật có thể đúng cùng một lúc: Trung Hoa đang chậm lại về mặt kinh tế và đang trở nên đáng gờm hơn về mặt chiến lược. Và Bắc Kinh có thể giải quyết những thách thức kinh tế bằng cách đưa ra quyết định sáng suốt trong những năm tới. Việc nhấn mạnh vào điểm yếu của Trung Hoa có nguy cơ đánh giá thấp tầm cỡ và khả năng của nước này về những số liệu và khung thời gian có liên quan nhất đến sự cạnh tranh giữa những cường quốc.

Ví dụ, quan điểm cho rằng nền kinh tế Mỹ sẽ vẫn lớn hơn Trung Hoa — trái ngược với hầu hết những kỳ vọng chỉ vài năm trước — thường được đưa ra như bằng chứng cho thấy lợi thế vượt trội của Mỹ. Nhưng như chuyên gia kinh tế Noah Smith lập luận trong phân tích của ông về những so sánh GDP này, “Người Mỹ không nên tự trấn an về thực tế là tổng GDP của họ theo tỷ giá hối đoái thị trường đang vượt xa Trung Hoa.” Khi tỷ giá hối đoái thay đổi, những so sánh về kích cỡ tương đối cũng thay đổi, do đó, việc đồng Nhân dân tệ mất giá 15% — như đã xẩy ra kể từ mức đỉnh điểm ba năm trước — sẽ khiến nền kinh tế Trung Hoa có vẻ nhỏ hơn 15% ngay cả khi sản lượng của nước này vẫn giữ nguyên. Mặc dù không hoàn hảo, nhưng việc tính toán sức mua và giá cả địa phương bằng phương pháp của Ngân hàng Thế giới cho thấy nền kinh tế Trung Hoa đã vượt qua nền kinh tế Mỹ cách đây khoảng một thập niên và hiện lớn hơn 25%: khoảng 30 ngàn tỷ đô la so với 24 ngàn tỷ đô la của Mỹ. Sự điều chỉnh sức mua này nắm bắt được chi phí thực tế của những yếu tố quyết định sức mạnh quốc gia, gồm đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống vũ khí, hàng hóa sản xuất và nhân sự chính phủ—những yếu tố quan trọng để duy trì lợi thế chiến lược lâu dài.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_1x/public/images/2025/04/09/4_4442025-03-19T091524Z_1182688177_RC23GDAG8J8M_RTRMADP_3_CHINA-AUTOS-ZEEKR.jpg.webp?itok=_MgNS-Cx

ột nhà máy sản xuất xe điện ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa, tháng 3 năm 2025. Florence Lo / Reuters

 

Sử dụng cách tiếp cận này, nếu nhìn hẹp vào hàng hóa thay vì dịch vụ, khả năng sản xuất của Trung Hoa lớn gấp ba lần Mỹ — một lợi thế quyết định trong cạnh tranh quân sự và kỹ thuật — và vượt xa chín quốc gia tiếp theo cộng lại. Trong hai thập niên sau khi Trung Hoa gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, thị phần sản xuất toàn cầu của nước này đã tăng gấp năm lần lên 30% trong khi thị phần của Mỹ vẫn giữ ở mức một nửa, khoảng 15%; Liên Hiệp Quốc ước tính rằng, đến năm 2030, sự mất cân bằng sẽ tăng lên 45% và 11%. Trung Hoa dẫn đầu trong nhiều ngành kỹ nghệ truyền thống — sản xuất xi măng nhiều gấp 20 lần, thép nhiều gấp 13 lần, xe hơi nhiều gấp ba lần và điện năng nhiều gấp đôi so với Mỹ — và ngày càng dẫn đầu trong những ngành tiên tiến.

 

Mặc dù vẫn đang bắt kịp trong những lãnh vực như kỹ thuật sinh học và hàng không, vốn là thế mạnh truyền thống của Mỹ, Trung Hoa — một phần nhờ vào những nỗ lực chính sách kỹ nghệ đầy tham vọng như Made in China 2025 — đã sản xuất gần một nửa lượng hóa chất, một nửa số tầu biển trên thế giới, hơn 2/3 số xe điện, hơn 3/4 pin điện, 80% máy bay không người lái dân dụng và 90% tấm pin mặt trời và khoáng chất tinh chế đất hiếm quan trọng. Và Bắc Kinh đang đi những bước để bảo đảm sự thống trị của mình tiếp tục và mở rộng: Trung Hoa đứng sau lưng một nửa tổng số cơ sở robot kỹ nghệ trên toàn thế giới (gấp bẩy lần so với Mỹ) và đi trước bất kỳ quốc gia nào khác một thập niên trong việc thương mại hóa kỹ thuật hạch tâm thế hệ thứ tư, với kế hoạch xây dựng hơn 100 lò phản ứng trong 20 năm. Cường quốc cuối cùng thống trị hoàn toàn nền sản xuất toàn cầu là Mỹ, từ những năm 1870 đến những năm 1940.

Giới quan sát người Mỹ có khuynh hướng đánh giá thấp khả năng đổi mới của Trung Hoa, lầm tưởng rằng nước này chỉ sao chép và tái tạo những sáng kiến
​​của phương Tây. Giống như Anh quốc, Đức, Nhật Bản và Mỹ trước đây, sức mạnh sản xuất của Trung Hoa tạo ra nền tảng cho lợi thế đổi mới. Đầu tư của nhà nước cũng có tác dụng; hiện nay nó có thể sánh ngang với khoản đầu tư vào khoa học của Mỹ. Và dân số đông đảo của Trung Hoa mang lại nguồn nhân lực dồi dào và quy mô cạnh tranh. Theo phúc trình gần đây của Quỹ kỹ thuật thông tin và kỹ nghệ, trong mười ngành kỹ nghệ của tương lai, Trung Hoa đang gần đến vị trí dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (hoặc thậm chí còn tốt hơn) trong sáu ngành.

Sức mạnh kỹ nghệ và sáng tạo này có thể được sử dụng cho mục đích quân sự. Hải quân Trung Hoa, vốn đã lớn nhất thế giới, sẽ có thêm 65 tầu chỉ trong vòng năm năm, đạt quy mô tổng thể lớn hơn 50% so với Hải quân Mỹ — khoảng 435 tầu so với 300. Họ đã nhanh chóng tăng cường hỏa lực của tầu chiến, từ một phần mười những bệ hệ thống phóng thẳng đứng của Mỹ một thập niên trước lên có khả năng vượt quá khả năng của Mỹ vào năm 2027. Mặc dù Trung Hoa tụt hậu so với Mỹ trong lãnh vực hàng không, nhưng họ đã phá vỡ rào cản kỹ thuật lâu đời bằng cách chế tạo động cơ phản lực trong nước và hiện đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách sản xuất, với khả năng chế tạo hơn 100 chiến đấu cơ thế hệ thứ tư mỗi năm. Trong hầu hết những kỹ thuật phi đạn, Trung Hoa có lẽ là nước dẫn đầu thế giới: nước này tự hào có phi đạn đạn đạo chống chiến hạm đầu tiên, tầm bắn phi đạn không đối không đáng chú ý và kho dự trữ phi đạn hành trình và phi đạn đạn đạo thông thường lớn nhất. Và trong ngày càng nhiều lãnh vực quân sự, từ truyền thông lượng tử đến kỹ thuật siêu thanh, Trung Hoa đang dẫn trước mọi đối thủ cạnh tranh. Những lợi thế này, được xây dựng trong nhiều thập niên, sẽ vẫn tồn tại ngay cả khi Trung Hoa trì trệ.

 

 

BIẾT ĐỐI THỦ

 

Những thách thức của Trung Hoa là rất lớn. Nhưng tầm quan trọng chiến lược của họ thường bị cường điệu hóa. Ví dụ, những thách thức về nhân khẩu sẽ là vấn đề lớn trong dài hạn, nhưng trong trung hạn — mốc thời gian liên quan nhiều hơn đến sự cạnh tranh với Mỹ — thì họ có thể kiểm soát được. Một “tiếng vang bùng nổ” theo thế hệ, khi những đứa cháu của thế hệ bùng nổ trẻ em thời Mao bước vào lực lượng lao động, có nghĩa là, mặc dù dân số đang già đi, tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi thực sự đã tăng lên, hơn 30 triệu người trong cuộc điều tra dân số năm 2010 và năm 2020, và nó cũng tăng theo tỷ lệ của tổng dân số. Tỷ lệ phụ thuộc của Trung Hoa (từ người lao động trưởng thành đến trẻ em và người đã nghỉ hưu) sẽ vẫn thấp hơn tỷ lệ hiện tại của Nhật Bản cho đến năm 2050. Và những khoản đầu tư lớn vào giáo dục, robot kỹ nghệ và trí tuệ nhân tạo hiện thân sẽ giúp Trung Hoa vượt qua tình trạng thiếu hụt lao động.

Mức nợ cũng mang tính minh họa. Mặc dù nợ của mỗi gia đình, doanh nghiệp và chính phủ của Trung Hoa đang ở mức kỷ lục 300% GDP, những cường quốc khác — gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Anh quốc và Mỹ — có mức tổng nợ tương tự. Trong một số trường hợp, những số liệu chỉ ra điểm yếu ở một lãnh vực lại phản ảnh điểm mạnh chiến lược ở lãnh vực khác. Ví dụ, sự sụp đổ của thị trường nhà ở Trung Hoa đang kìm hãm tăng trưởng. Nhưng Bắc Kinh đang chuyển tín dụng từ lãnh vực đó vào những nỗ lực chính sách kỹ nghệ nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh. Tương tự như vậy, trong khi những công ty Mỹ tiếp tục chiếm lãnh thị phần lợi nhuận cao hơn và thống trị bảng xếp hạng vốn hóa thị trường, những công ty Trung Hoa lại tập trung vào những mục tiêu khác nhau, thường chịu lỗ để giành thị phần và loại bỏ đối thủ khỏi thị trường. Bất chấp những thách thức ngắn hạn, Trung Hoa vẫn tiếp tục cuộc trường chinh.

Ngay cả khi điểm yếu của nước này nghiêm trọng hơn dự kiến, Trung Hoa vẫn sẽ mạnh hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào trong quá khứ của Mỹ về những số liệu có liên quan nhất đến khả năng cạnh tranh. Washington có thể đã đánh giá quá cao những đối thủ trong quá khứ, gồm Đức, Nhật Bản và Liên Xô. Nhưng Trung Hoa là nước đầu tiên vượt trội hơn Mỹ về quy mô cũng như một số lãnh vực có liên quan đến chiến lược. Có trì trệ hay không, Bắc Kinh vẫn sẽ đáng gờm hơn bất kỳ đối thủ nào trong quá khứ.

 

Một số chuyên gia trong giới phân tích cảnh cáo rằng sự suy thoái của nước Mỹ cũng là một rủi ro, có thể trở thành “lời tiên tri tự ứng nghiệm.” Có sự khôn ngoan trong lời khuyên đó; Sự trỗi dậy và sụp đổ của những cường quốc thường bắt đầu bằng sự tự chẩn đoán sai lầm. Nhưng đúng như chuyên gia khoa học chính trị Samuel Huntington đã lập luận trong những trang này trước khi Liên Xô sụp đổ, việc lo lắng về sự suy thoái cũng thường thúc đẩy sự đổi mới. Rủi ro lớn nhất không phải là sự suy thoái; đó là sự tự mãn, dẫn đến thiếu ý định chiến lược và không thúc đẩy được hành động tập thể để vượt qua thách thức của Trung Hoa. Trên thực tế, Mỹ — đặc biệt là trong thời đại của Tổng thống Donald Trump — có nguy cơ đánh giá quá cao sức mạnh đơn phương và đánh giá thấp khả năng chống lại sức mạnh đó của Trung Hoa.

 

 

QUẢN LÝ QUỐC GIA TẬP TRUNG VÀO KHẢ NĂNG

 

Đối với Washington, có ba thực tế phải là trọng tâm của bất kỳ chiến lược nghiêm túc nào cho mục tiêu cạnh tranh lâu dài. Đầu tiên, kích cỡ là yếu tố cần thiết. Thứ hai, kích cỡ của Trung Hoa không giống bất kỳ điều gì Mỹ từng phải đối phó, và những thách thức của Bắc Kinh sẽ không làm thay đổi căn bản điều đó theo bất kỳ mốc thời gian liên quan nào. Và thứ ba, một cách tiếp cận mới đối với những liên minh là cách khả thi duy nhất để Mỹ có thể xây dựng tầm cỡ đủ lớn cho riêng mình. Nhìn chung, điều này có nghĩa là Washington cần những đồng minh và đối tác theo cách mà trước đây họ không cần. Họ không phải là những kẻ giăng bẫy, những quốc gia bảo hộ xa xôi, chư hầu hay dấu hiệu của địa vị, mà là giới cung cấp khả năng cần thiết để đạt được tầm cỡ cường quốc [cho Mỹ]. Lần đầu tiên kể từ khi Thế chiến II kết thúc, những liên minh của Mỹ không phải nhằm mục đích thể hiện quyền lực mà là duy trì quyền lực.

Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ và những đồng minh đã đánh bại Liên Xô. Ngày nay, một cấu hình mở rộng hơn một chút sẽ dễ dàng đánh bại Trung Hoa. Tổng cộng, Úc, Canada, Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Hàn, Mexico, New Zealand, Mỹ và Liên minh Âu châu có nền kinh tế kết hợp là 60 ngàn tỷ đô la so với 18 ngàn tỷ đô la của Trung Hoa, một số tiền lớn hơn gấp ba lần so với Trung Hoa theo tỷ giá hối đoái thị trường và vẫn lớn hơn gấp đôi nếu điều chỉnh theo sức mua. Liên minh này sẽ chiếm khoảng một nửa tổng sản lượng sản xuất toàn cầu (so với khoảng một phần ba của Trung Hoa) và có nhiều bằng sáng chế đang hoạt động cũng như những luận văn nghiên cứu được trích dẫn nhiều nhất hơn so với Trung Hoa. Nó sẽ chiếm 1,5 ngàn tỷ đô la chi tiêu quốc phòng hàng năm, gấp đôi so với Trung Hoa. Và nó sẽ thay thế Trung Hoa trở thành đối tác thương mại hàng đầu của hầu hết những quốc gia. (Trung Hoa hiện là đối tác thương mại hàng đầu của 120 quốc gia.)

Nói một cách thô thiển, sự liên kết giữa nền dân chủ và nền kinh tế thị trường này vượt trội hơn Trung Hoa ở hầu hết mọi khía cạnh. Tuy nhiên, nếu sức mạnh của nó không được phối hợp thì lợi thế của nó vẫn chỉ là lý thuyết. Theo đó, việc phát huy tiềm năng của liên minh này phải là nhiệm vụ trọng tâm của chính sách đối ngoại của Mỹ trong thế kỷ này. Và điều đó không thể thực hiện được chỉ bằng cách áp dụng chiến lược liên minh truyền thống.

Điểm khởi đầu của Mỹ có thể là những liên minh song phương lâu đời (như liên minh với Nhật Bản và Nam Hàn) và những liên minh đa phương (như NATO), cùng với những quan hệ đối tác mới hơn (như thỏa thuận kỹ thuật quốc phòng AUKUS với Úc và Anh quốc) và những nhóm ít mang tính thể chế hơn (như Quad, cũng bao gồm Úc, Ấn Độ và Nhật Bản). Nhưng thay vì chỉ đơn thuần tôn vinh những khuôn khổ này hoặc mở rộng thành viên, nhiệm vụ trước mắt là đào sâu chức năng của chúng — biến chúng thành nền tảng cho chính sách nhà nước lấy khả năng làm trọng tâm trên nhiều lãnh vực. Những mối quan hệ này thường hoạt động dựa trên giả định rằng Mỹ cung cấp an ninh trong khi những nước khác chỉ đóng góp hỗ trợ chính trị hoặc, trong trường hợp tốt nhất, chỉ cung cấp khả năng chuyên biệt. Chiến lược này cũng phần lớn tập trung vào an ninh — tập trung vào răn đe, tiếp cận và trấn an — trong khi lại coi sự phối hợp kinh tế, hội nhập kỹ nghệ và hợp tác kỹ thuật là những mối quan tâm mới nổi nhưng vẫn là thứ yếu. Mô hình truyền thống đơn giản là không được thiết kế để cạnh tranh với đối thủ có hệ thống như Trung Hoa. Nó hoàn toàn không đủ để đáp ứng nhu cầu của thời điểm hiện tại.

Cách tiếp cận của Mỹ đối với những liên minh và quan hệ đối tác trong những thập niên gần đây được hình thành từ sự kết hợp giữa thói quen chiến lược và hệ thống phân cấp cấu trúc. Bây giờ, nó phải trở thành nền tảng tạo ra khả năng chung trên mọi lãnh vực quan trọng, không chỉ lãnh vực quân sự. Điều đó sẽ đòi hỏi mức độ phối hợp và phụ thuộc lẫn nhau chưa quen thuộc và đôi khi sẽ gây khó chịu cho cả Mỹ và những đối tác. Đối với sức mạnh quân sự, việc tạo ra quy mô đòi hỏi khả năng lan tỏa theo cả hai hướng, bao gồm đầu tư vào những bộ phận yếu hơn của ngành kỹ nghệ quốc phòng Mỹ và cung cấp rộng rãi hơn những kỹ thuật quân sự tiên tiến của Mỹ cho những đồng minh mà trước đây chưa nhận được. Đối với nền kinh tế, quy mô có nghĩa là xây dựng một mức quan thuế chung và bức tường quản lý chống lại tình trạng dư thừa công suất của Trung Hoa, đồng thời xây dựng những cơ chế mới để phối hợp chính sách kỹ nghệ và tập hợp thị phần đồng minh. Đối với kỹ thuật, thách thức tương tự cũng sẽ là xây dựng những quy tắc đầu tư chung, kiểm soát xuất cảng và tái tìm kiếm biện pháp bảo vệ để ngăn chặn việc chuyển giao kỹ thuật sang Trung Hoa trong khi thực hiện đầu tư chung. Những bước này đánh dấu sự khác biệt giữa một liên minh thống nhất về nguyên tắc và một liên minh thống nhất về thực tế. Sự thay đổi đó — hướng tới khả năng chia sẻ làm nền tảng của chiến lược — sẽ cho phép Mỹ và những đối tác cạnh tranh ở quy mô và tốc độ cao.

 

 

PHÁT TRIỂN LƯỠNG CỰC

 

Chính quyền Biden đã sử dụng những liên minh và quan hệ đối tác an ninh hiện có để xây dựng một “mạng lưới” nhằm phân bổ lực lượng tốt hơn, tăng chi tiêu quốc phòng của những nước đồng minh và đưa ra những thỏa thuận an ninh mới như AUKUS trong khi nâng cao vị thế của những cơ quan như Quad. Những nỗ lực này cần được tăng cường, nhưng bước tiếp theo là chuyển đổi hợp tác kỹ nghệ quốc phòng. Bài học từ việc Ukraine bị Nga xâm lăng rất rõ ràng: Mỹ sẽ không có đủ khả năng để tự mình duy trì một cuộc xung đột kéo dài với Trung Hoa. Mặc dù sự đổi mới từ những công ty mới trong những hệ thống không người lái rất hứa hẹn, nhưng quy mô thực sự, đặc biệt là trong những hệ thống cũ, sẽ đòi hỏi sự hợp tác sản xuất và hội nhập kỹ nghệ sâu hơn với những đồng minh. Kho vũ khí dân chủ của Thế chiến thứ II khó có thể quay trở lại. Thay vào đó, Mỹ cần xây dựng cái mà sử gia Arthur Herman gọi là Kho vũ khí dân chủ: một cơ sở kỹ nghệ quốc phòng kết nối mạng lưới dựa trên sản xuất chung, đổi mới sáng tạo chung và chuỗi cung ứng tích hợp.

Điều này đánh dấu sự thay đổi lớn so với quá khứ, khi Mỹ phần lớn cung cấp khả năng cho những nước khác. Hiện nay, quy mô đòi hỏi dòng chảy hai chiều, gồm đầu tư liên minh và sản xuất tại Mỹ. Một số bước đầu mà chính quyền Biden đã thực hiện, chẳng hạn như yêu cầu Nhật Bản sửa chữa tầu khu trục của Mỹ, chỉ cung cấp cái nhìn khiêm tốn về những gì có thể thực hiện được. Những nỗ lực tham vọng hơn có thể gồm việc liên doanh với những công ty đóng tầu Nhật Bản và Nam Hàn (có năng suất cao gấp hai đến ba lần so với những công ty Mỹ); quan hệ đối tác giữa giới sản xuất phi đạn của Âu châu và những công ty Mỹ; hoặc tuyển dụng những công ty Nhật Bản hoặc Đài Loan để xây dựng những thiết bị vi điện tử truyền thống tại Mỹ. Quá thường xuyên, những ràng buộc về mặt chính trị và quy định lỗi thời, phải được Quốc hội và cơ quan hành pháp cùng giải quyết, tạo ra rào cản đối với việc hưởng lợi từ khả năng của liên minh.

Khả năng của Mỹ cũng phải lan tỏa ra bên ngoài tới những đồng minh. Những nỗ lực thời Biden như AUKUS và việc hợp tác sản xuất phi đạn Tomahawk với Nhật Bản là những bước đi đúng hướng. Nhưng tiến bộ thực sự đòi hỏi phải vượt qua liên minh quan liêu giữa Bộ Ngoại giao lo ngại về phổ biến vũ khí và Bộ Quốc phòng lo sợ làm xói mòn lợi thế của mình. Chia sẻ kỹ thuật nhanh chóng là chìa khóa để bảo đảm rằng Úc chế tạo được tầu ngầm hạch tâm, rằng những đồng minh Á châu có đủ phi đạn hành trình chống chiến hạm và phi đạn đạn đạo, rằng Đài Loan có thể ngăn chặn cuộc xâm lăng của Trung Hoa và rằng Ấn Độ có thể biến quần đảo Andaman ở phía đông thành một pháo đài mà Bắc Kinh không thể làm ngơ. Trên thực tế, điều này có thể có nghĩa là phải điều hòa những luật kiểm soát xuất cảng, thống nhất những tiêu chuẩn mua sắm và phối hợp đầu tư vào những thành phần then chốt, từ chất bán dẫn đến thiết bị quang học.

Giới quan sát người Mỹ có khuynh hướng đánh giá thấp khả năng đổi mới của Trung Hoa.

 

Những đồng minh cũng có thể chuyển giao khả năng cho nhau, cả trong cùng một khu vực và giữa những khu vực khác nhau. Một số điều này đã bắt đầu diễn ra một cách chậm chạp, nhưng vẫn có thể xẩy ra nhiều điều hơn thế nữa. Vũ khí của Nam Hàn có thể giúp Âu châu tái vũ trang và kỹ nghệ hóa. Kỹ thuật hạch tâm của Pháp có thể hỗ trợ chương trình tầu ngầm của Ấn Độ. Phi đạn của Na Uy và Thụy Điển có thể giúp Indonesia và Thái Lan bảo vệ vùng biển của họ. Việc hợp nhất khả năng đòi hỏi phải có sự suy nghĩ của nhiều liên minh, trong đó Mỹ sẽ tạo điều kiện cho hành động tập thể.

Sự hội nhập chặt chẽ hơn cũng đòi hỏi phải chia sẻ gánh nặng nhiều hơn—và chuyển giao gánh nặng. Ngay cả khi những đồng minh và đối tác xây dựng cầu nối xuyên lục địa, họ cũng phải đóng vai trò lớn hơn trong việc răn đe gần nhà hơn, với việc Âu châu tăng cường hiện diện ở Âu châu và Á châu tăng cường hiện diện ở Á châu. Điều đó có thể thực hiện được một phần bằng cách tăng cường khía cạnh an ninh của những nhóm ngày càng quan trọng (Bộ tứ hoặc mối quan hệ ba bên với Nhật Bản và Nam Hàn). Nhưng Washington cũng cần tăng cường phối hợp với những đồng minh cho hoạt động chiến tranh hiện tại — bằng những bước như hiện đại hóa hệ thống chỉ huy và kiểm soát chung, đầu tư mới vào khả năng tương tác và những cuộc tập trận chung tinh vi hơn. Điều đó có thể bao gồm việc thành lập những đơn vị chung với những đồng minh và đối tác của Mỹ, bắt đầu với những tiểu đoàn phi đạn phòng không và chống hạm trên bộ để sử dụng trong trường hợp xẩy ra khủng hoảng ở Ấn Độ Dương — Thái Bình Dương và sau đó mở rộng sang những đội hình không quân và hải quân phức tạp hơn. Mỹ cũng nên tăng cường khả năng răn đe mở rộng bằng cách trao cho những đồng minh quyền quyết định lớn hơn trong việc chỉ huy và kiểm soát hạch tâm cũng như những loại thỏa thuận chia sẻ hạch tâm mà nước này đã theo đuổi với những đồng minh Âu châu trong Chiến tranh Lạnh.

 

Trên toàn cầu, Mỹ có thể theo đuổi phiên bản mới của “Học thuyết Guam” của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, theo đó trao lại trách nhiệm cho những đối tác sau Chiến tranh Việt Nam. Điều đó sẽ trao quyền cho những quốc gia trong khu vực — những gì mà cựu Thủ tướng Úc John Howard gọi là “phó cảnh sát trưởng” — dẫn đầu trong việc giải quyết những thách thức về an ninh tại khu vực lân cận của họ: Úc ở những đảo Thái Bình Dương, Ấn Độ ở Nam Á, Việt Nam ở lục địa Đông Nam Á, Nigeria ở Phi châu. Trên thực tế, lần tới khi một quốc gia Nam Á phải đối mặt với thách thức, Mỹ sẽ tôn trọng phán đoán của Ấn Độ về điều gì có thể phục vụ cho sự ổn định khu vực hoặc chống lại ảnh hưởng của Trung Hoa thay vì tìm cách thúc đẩy sở thích riêng của mình.

 

 

THỊ TRƯỜNG CHUNG

 

Chính quyền Biden đã có những bước đi quan trọng trong cuộc cạnh tranh kinh tế và kỹ thuật với Trung Hoa, với những sáng kiến ​​như Hội đồng Thương mại và kỹ thuật Mỹ-EU, Sáng kiến ​​Mỹ-Ấn Độ về kỹ thuật quan trọng và mới nổi, và phối hợp kiểm soát xuất cảng chất bán dẫn với Nhật Bản và Hòa Lan. Nhưng việc chống lại khả năng dư thừa của Trung Hoa và duy trì vị thế dẫn đầu về kỹ thuật sẽ đòi hỏi những hành động tham vọng hơn, vượt xa những gì Washington thường sẵn sàng thực hiện.

Những hoạt động phi thị trường và quy mô lớn của Trung Hoa đã lấn át Tổ chức Thương mại Thế giới và hiện gây ra rủi ro hiện sinh cho nền tảng kỹ nghệ của Mỹ cùng những đồng minh và đối tác của nước này. Cố gắng hành động đơn độc chống lại mối đe dọa này sẽ dẫn đến thất bại: việc bảo vệ thị trường Mỹ sẽ không mang lại nhiều lợi ích nếu Trung Hoa vẫn có thể đẩy những công ty Mỹ ra khỏi những thị trường đối tác, khiến họ mất đi tầm cỡ cần thiết để duy trì khả năng cạnh tranh. Thay vào đó, Mỹ và những đồng minh cũng như đối tác phải cùng nhau tìm được kích cỡ chung bằng một hào phòng thủ chống lại hàng xuất cảng của Trung Hoa. Việc xây dựng một thị trường chung được bảo vệ có thể bắt đầu bằng việc áp dụng quan thuế chung đối với hàng hóa Trung Hoa. Nhưng vì quan thuế có thể dễ dàng lách được nên giải pháp tốt hơn có thể là sử dụng những rào cản phi quan thuế phối hợp, gồm những công cụ quản lý. (Chính quyền Biden đã sử dụng những rào cản như vậy đối với những phương tiện kết nối kỹ thuật số từ Trung Hoa.) những biện pháp quản lý như vậy có thể phối hợp với những nước đối tác tương đối nhanh chóng và dễ dàng.

Một công cụ khác là “chủ nghĩa đa phương ưu đãi” – mở cửa có chọn lọc những thị trường đồng minh và đối tác trong khi tạo ra những rào cản cao hơn đối với hàng hóa Trung Hoa. Cách tiếp cận này, được nhiều nhân vật trong giới chính trị ủng hộ, từ Robert Lighthizer, đại diện thương mại Mỹ trong nhiệm kỳ đầu của Trump, cho đến giới lập pháp Dân chủ nổi tiếng, phản ảnh những khía cạnh của hệ thống thương mại đầu thời hậu Thế chiến II, trong đó những thành viên của thế giới tự do được đối xử ưu tiên hơn những đối thủ độc đoán. Nếu kỷ nguyên của những hiệp định thương mại tự do đã kết thúc, thì những thỏa thuận theo ngành với những đồng minh có thể mang lại con đường đầy hứa hẹn để tập hợp thị trường đồng thời tránh được những vấn đề nhậy cảm về chính trị.

Những công cụ chính sách kỹ nghệ được phối hợp cũng sẽ hữu ích, chẳng hạn như một ngân hàng đầu tư kỹ nghệ quốc tế mới sẽ cho những công ty trong những lãnh vực chiến lược vay vốn để đa dạng hóa chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Hoa, đặc biệt là trong những lãnh vực quan trọng như y học và khoáng sản quan trọng. Và những nỗ lực phối hợp nhằm xóa bỏ rào cản đối với đầu tư của những đồng minh và đối tác có thể cho phép bỏ qua việc xem xét an ninh quốc gia. Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan đã đầu tư rất nhiều vào hợp tác kỹ nghệ với Mỹ (hơn 300 tỷ đô la dưới thời chính quyền Biden và tiếp tục tăng trưởng dưới thời Trump). Và mặc dù có khuynh hướng coi Âu châu là trì trệ về kinh tế, nhưng Âu châu lại vượt trội hơn Mỹ về sản xuất thép, xe hơi, tầu thủy và máy bay dân dụng; chiếm thị phần lớn hơn trong sản xuất toàn cầu; và có lực lượng công nhân sản xuất lớn gấp ba lần so với Mỹ. Trong khi đó, mối liên kết chặt chẽ hơn giữa những hệ sinh thái khoa học — với nhiều sự hợp tác và gắn kết giữa người với người hơn, cùng với những biện pháp bảo vệ nghiên cứu chung — sẽ giúp bảo đảm rằng những đồng minh và đối tác của Mỹ có thể sánh ngang với quy mô của Trung Hoa.

Thị phần chung cũng sẽ tạo ra đòn bẩy chiến lược. Một khuôn khổ chung cho phòng thủ kinh tế — cái mà một số người gọi là “Điều 5 về kinh tế”, dựa trên điều khoản phòng thủ chung của NATO — là phản ứng đã quá hạn từ lâu đối với sự cưỡng ép kinh tế của Trung Hoa. Một thỏa thuận như vậy sẽ kích hoạt những lệnh trừng phạt phối hợp, kiểm soát xuất cảng hoặc hành động thương mại nếu một trong những thành viên của nhóm gặp phải áp lực kinh tế từ Bắc Kinh. Nó cũng có chức năng như một nền tảng để ngăn chặn sự xâm lược quân sự.

 

 

RÚT LUI HAY TRUNG THÀNH?

 

Trump đã đặt ra cho những đối tác của Mỹ những lựa chọn khó khăn và những lời đe dọa thẳng thừng. Dễ hiểu hiều khi nhiều quốc gia không muốn tiếp tục gắn bó với Washington trong thời gian tới. Niềm tin được xây dựng qua nhiều thế hệ dễ bị lãng phí.

Những cường quốc thường đánh giá quá cao ảnh hưởng của họ đối với những nước khác. Thủ tướng Liên Xô Mikhail Gorbachev không tin rằng những cuộc thí nghiệm của ông về quyền tự chủ khu vực sẽ dẫn đến việc những nước cộng hòa Xô Viết rời khỏi Liên Xô. Chính quyền Trump có thể không mong đợi việc hạ thấp và ép buộc những đồng minh của mình sẽ dẫn đến “khoảnh khắc Gorbachev”, nhưng những đồng minh chủ chốt của Mỹ đã cân nhắc tuyên bố “độc lập” với Washington — theo đuổi vũ khí hạch tâm, xây dựng những nhóm khu vực mới, thách thức vai trò của đồng đô la. Một số nước, bị thúc đẩy do phản ứng trong nước trước áp lực của Mỹ, đang cân nhắc việc xích lại gần Trung Hoa, bất chấp nguy cơ to lớn đối với ngành kỹ nghệ hoặc an ninh của họ. Mỹ có nguy cơ làm rạn nứt thế giới tự do và đóng lại con đường tốt nhất để mở rộng quy mô.

Tuy nhiên, khi Washington quay lưng lại với liên minh của mình, Trung Hoa lại đang xây dựng liên minh của riêng họ. Được thúc đẩy bởi sự bất bình chống phương Tây và lợi ích cục bộ của riêng họ, Trung Hoa, Iran, Bắc Hàn và Nga đang tạo ra khối độc tài đáng kể. Trung Hoa đã xây dựng cơ sở kỹ nghệ quốc phòng cho Nga, giúp Iran cung cấp cho Nga những máy bay không người lái tấn công một chiều và được chấp thuận khi Bắc Hàn gửi quân sang chiến đấu ở châu Âu. Cả bốn chính phủ đều đang nỗ lực làm xói mòn các lệnh trừng phạt của Mỹ và tham gia vào hoạt động phối hợp ngoại giao, chia sẻ thông tin tình báo và tập trận quân sự. Đây là một thách thức thống nhất đòi hỏi phải có phản ứng thống nhất.

Sự trỗi dậy và sụp đổ của những cường quốc thường bắt đầu bằng sự tự chẩn đoán sai lầm.

Trong khi một số người ở Mỹ nói về việc tạo ra sự chia rẽ giữa những đối tác của Trung Hoa bằng cách thực hiện “Kissinger ngược” với Nga, Bắc Kinh quyết tâm khai thác những vết nứt trong liên minh phương Tây, đặc biệt là giữa Mỹ và Âu châu. Rủi ro hiện nay là Washington sẽ tách khỏi Âu châu trong khi không thể tách khỏi Trung Hoa và Nga. Những nỗ lực xây dựng khả năng dân chủ đã được hỗ trợ do chính những sai lầm của Trung Hoa trong việc tiến hành ngoại giao “chiến lang” đối đầu; Mỹ hiện đang tham gia vào cuộc đấu tranh ngoại giao phản tác dụng của riêng mình, tạo cơ hội cho Trung Hoa đóng vai trò là đối tác hợp lý. Washington sẽ có nhiều may mắn hơn khi hợp tác với những đồng minh hơn là với những đối thủ náo nhiệt với thái độ chống Mỹ sâu sắc.

Nếu Mỹ không thể mở rộng tầm cỡ với những nước khác hoặc rút lui về Tây bán cầu trong khi phá vỡ những liên minh, thì Trung Hoa sẽ là nước dẫn đầu cuộc trong cuộc cạnh tranh trong thế kỷ tới. Mỹ, giống như Anh quốc trước đây, sẽ thấy mình bị suy yếu trước một cường quốc có tầm cỡ chưa từng có. Nó sẽ đối mặt với một thế giới bị chia cắt bằng nhiều cường quốc, nhưng Trung Hoa là cường quốc mạnh nhất trong số đó và ở một số lãnh vực còn mạnh hơn tất cả những cường quốc kia. Kết quả sẽ là một nước Mỹ yếu hơn, nghèo hơn và ít ảnh hưởng hơn—và một thế giới mà Trung Hoa sẽ đặt ra những quy tắc.

Mặc dù ngày càng có nhiều sự đồng thuận về việc đánh giá thấp sức mạnh của Trung Hoa và phóng đại sự trỗi dậy của Mỹ, nhưng suy nghĩ đó vẫn phản ảnh những chu kỳ đánh giá sai lầm trong quá khứ. Quan điểm lạc quan về lộ trình phát triển của nước Mỹ có nguy cơ thúc đẩy chủ nghĩa đơn phương tự hành động, ngầm hiểu và ngày càng rõ ràng rằng những đồng minh và đối tác của Mỹ đã lỗi thời hoặc được coi trọng quá mức trong khi thực tế họ là con đường duy nhất để mở rộng quy mô trước một đối thủ đáng gờm. Để thành công, cần phải tiến xa hơn nhiều và có tham vọng lớn hơn những chính sách thân thiện với đồng minh của chính quyền Biden trước đây và từ chối thẳng thừng cách ứng xử “Nước Mỹ trên hết” gây xa lánh và đơn phương đang hình thành dưới thời Trump.

 

Cam kết như vậy không chỉ là một chính sách mà còn là tín hiệu về khả năng của Mỹ, đồng minh và đối tác. Đảng Cộng sản Trung Hoa đặc biệt chú trọng vào nhận thức về sức mạnh của Mỹ, và một yếu tố quan trọng trong phương trình đó là ước tính của đảng này về khả năng thu hút các đồng minh và đối tác của Washington mà ngay cả Bắc Kinh cũng công khai thừa nhận là lợi thế lớn nhất của Mỹ. Theo đó, chiến lược hiệu quả nhất của Mỹ — chiến lược khiến Bắc Kinh bất ổn nhất trong những năm gần đây và có thể ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của nước này trong tương lai — là xây dựng năng lực mới, bền vững và mạnh mẽ với các quốc gia này. Cam kết bền vững của lưỡng đảng đối với mạng lưới liên minh được nâng cấp, kết hợp với hợp tác chiến lược trong những lãnh vực mới nổi, sẽ mở ra con đường tốt nhất để tìm ra kích cỡ chống lại đối thủ đáng gờm nhất mà Mỹ từng gặp phải.

Tác giả:

 

https://uploads.concordia.net/2017/09/11152158/Kurt-Campbell.png

KURT M. CAMPBELL từng giữ chức Thứ trưởng Ngoại giao và Điều hợp viên Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tại Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời chính quyền Biden.

 

https://www.thewirechina.com/wp-content/uploads/2025/03/Rush-Doshi-300x424.jpg

RUSH DOSHI là Phó giáo sư tại Đại học Georgetown và Giám đốc Sáng kiến ​​Chiến lược Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Ông từng giữ chức Phó giám đốc cấp cao phụ trách các vấn đề Trung Hoa và Đài Loan tại Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời chính quyền Biden.

 

© 2025 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

________________________

Nguồn: Underestimating China | Kurt M. Campbell and Rush Doshi| Foreign Affairs | April 10, 2025

 

 

 



No comments: