1975 – Khi Xuân về
Phước Long khởi đầu hoàng hôn của VNCH
Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng
January
6, 2025 : 7:26 PM
https://www.nguoi-viet.com/dien-dan/1975-khi-xuan-ve-phuoc-long-khoi-dau-hoang-hon-cua-vnch/
Miền
Nam Việt Nam là miền đồng bằng, ít có địa điểm cao, cho nên Phước Long với địa
hình nhiều đồi núi, rừng dày là một địa điểm chiến lược. Tháng Ba, 1965, Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ Đà Nẵng thì chỉ ba tháng sau, toán Công Binh Mỹ Seabee
Team 1104 và bốn đại đội VNCH đã mau chóng xây dựng một căn cứ quân sự gần Đồng
Xoài (Đôn Luân, một trong bốn quận lỵ của tỉnh Phước Long). Lập tức một trận
chiến đã xảy ra vào nửa đêm ngày 9 Tháng Sáu, 1965.
Giao
tranh ác liệt kéo dài ba ngày, nhưng phía quân đội VNCH đã là bên thắng cuộc:
“Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime, hay Đức Cơ, Đồng Xoài Bình Giã…”
Gần
10 năm sau, một trận chiến ác liệt nữa lại đến với Phước Long, cũng bắt đầu từ
Đồng Xoài. Pháo binh VNCH ở lợi thế trên cao cùng với những đơn vị Địa Phương
Quân chống trả mãnh liệt trước lực lượng áp đảo của quân đội Bắc Việt. Nhưng
trung ương đã hết đạn, cạn xăng, và cũng chẳng còn quân trừ bị để tiếp viện.
Phước Long thất thủ ngày 6 Tháng Giêng, 1975 sau gần bốn tuần lễ giao tranh, khởi
đầu buổi hoàng hôn của nền Cộng Hòa.
Phước
Long là trận chiến định mệnh, vì Washington không những không có hành động nào
để yểm trợ đồng minh, mà còn phát đi những tín hiệu phủi tay. Thấy vậy, Hà Nội,
với sự yểm trợ dồi dào của Liên Xô, đã lấy quyết định cuối cùng là tổng tấn
công miền Nam
Bài
này trả lời câu hỏi tại sao lại có cuộc tổng tấn công vào mùa Xuân năm 1975 chứ
không phải Xuân năm 1974 hay 1976, và diễn tiến ở hậu trường, cùng những hệ lụy
của trận Phước Long.
***
Đã
vào mùa thu…mùa thu năm 1974.
“Tháng
Mười, 1974, trời cuối Thu đã bắt đầu lạnh, gợi cho cán bộ quân sự chúng tôi nhớ
đến mùa chiến dịch sắp tới,” Tướng Văn Tiến Dũng, nguyên tổng tham mưu Trưởng
quân đội Bắc Việt, viết trong hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” (1976). Ông tiết lộ động
cơ nào đã thúc đẩy Hà Nội quyết định tiến hành cuộc tấn công miền Nam vào mùa
Xuân 1975.
Tháng
Tám, 1974 tại Washington xảy ra hai sự kiện quan trọng:
-Tổng
Thống Richard Nixon phải từ chức ngày 8 Tháng Tám, 1974.
-Quốc
Hội Mỹ cắt viện trợ quân sự cho VNCH từ trên $1.614 tỷ (tài khóa 1972-1973) xuống $1.026 tỷ, (tài khóa 1973-1974), rồi xuống
$700 triệu (tài khóa 1974-1975).
Bộ
Chính Trị ‘thẩm định’ tình hình miền Nam
Như
đã đề cập trong cuốn “Bức Tử VNCH – Kissinger và 9 Thủ Đoạn Nham Hiểm” (viết tắt
là BTVNCH), Tướng Dũng đã ghi lại về những phiên họp kéo dài vào mùa Thu 1974
khi Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương họp để bàn về việc gấp rút thay đổi chiến
lược và nghe Bộ Tổng Tham Mưu trình bày kế hoạch tác chiến.
[Lưu
ý độc giả: Khi trích dẫn cuốn sách của Tướng Dũng chúng tôi đã thay đổi một số
từ ngữ có tính cách mạ lỵ, thí dụ như những chữ “của hắn,” “của chúng,” “ngụy,”
v.v… Ngoài ra, chữ “ta” và “địch” ở đây là trích dẫn thẳng từ cuốn sách đó chứ
không phải nhìn từ phía VNCH]
Trong
những buổi họp này, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam (từ 1976 đổi
thành Đảng CSVN) đã bàn về việc khẩn cấp thay đổi chiến lược: “Bộ Chính Trị và
Quân Ủy Trung Ương họp nghe Bộ Tổng Tham Mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến
lược…với những bản đồ, biểu đồ, bảng so sánh các số liệu treo khắp bốn bức tường
trong phòng họp. Qua nghe báo cáo và thảo luận, hội nghị nhất trí đánh giá tình
hình miền Nam gọn trong năm điểm (tác giả thay đổi một vài chữ cho dễ hiểu
hơn):
–Một
là miền Nam ngày một suy yếu cả về quân sự, chính trị, lẫn kinh tế. Lực lượng
ta đã mạnh hơn địch ở miền Nam.
–Hai
là Mỹ càng ngày càng gặp nhiều khó khăn trong nước và trên thế giới, khả năng
viện trợ cho miền Nam ngày càng giảm bớt cả về chính trị và kinh tế…chẳng những
phải giảm bớt viện trợ mà còn khó có thể nhảy lại vào miền Nam…
–Ba
là ta đã tạo được một thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, đã tăng cường được
lực lượng và dự trữ vật chất, đã hoàn chỉnh được hệ thống đường giao thông chiến
lược và chiến dịch (đường mòn Hồ Chí Minh).
–Bốn
là ở đô thị đã có phong trào đòi hòa bình, dân sinh, dân chủ, độc lập dân tộc,
đòi lật đổ Thiệu.
–Năm
là nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân ta.
Điểm
2 là quan trọng nhất. Ông Dũng viết:
“Mỹ
giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng của Sài Gòn
không thể thực hiện được theo ý muốn. Trong tài khóa 1972-1973, Mỹ viện trợ
$1.614 tỷ về quân sự. Tài khóa 1973-1974 chỉ còn $1.026 tỷ và tài khóa
1974-1975 giảm xuống còn $700 triệu.”
Viết
như vậy là Tướng Dũng đã dùng đúng những con số về tình hình viện trợ mà chính
cá nhân tác giả – sau chuyến đi Washington mùa Hè 1974 – đã trình với Tổng Thống
Thiệu, và còn thêm rằng “trên thực tế thì VNCH cũng chẳng có $700 triệu, vì con
số thật thì chỉ là $500 triệu (sau khi trừ đi các chi tiêu của cơ quan DAO ở
Sài Gòn).” Với mức lạm phát là 37% vảo năm 1974 thì con số này hầu như vô
nghĩa.
Tướng
Dũng còn dùng luôn cả những từ ngữ “đặc biệt” trong bản báo cáo. Thí dụ như
hai chữ “tài khóa” là để chỉ “năm tài chính” của Mỹ (Fiscal Year). Đó là một
khái niệm kế toán không mấy quen thuộc, ngay cả đối với miền Nam và chắc chắn
là rất xa lạ đối với miền Bắc. Tướng Dũng dùng luôn cả cách viết. Thí dụ như
“1974-1975,” thông thường thì chỉ dùng “Fiscal Year 1974” (Tài Khóa 1974).
Nhưng để cho giới hữu trách miền Nam hiểu rõ hơn, thì thay vì viết “Tài
khóa 1974,” chúng tôi đã viết thành “Tài Khóa 1974-1975” (vì nó bắt đầu từ
ngày 1 Tháng Bảy, 1974 tới 30 Tháng Sáu, 1975). Như vậy là ông Dũng đã “sao y
chính bản!”
Ông
viết thêm: “Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân đội chuyển sang cung cách tác
chiến theo ‘kiểu con nhà nghèo.’ Lý do
là vì hỏa lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn, khả năng di động cũng giảm
đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu.”
Hai
con số 60% và 50% mà ông Dũng nói đến cũng chính là những con số mà chúng tôi,
và sau đó, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH đã trình Tổng Thống Thiệu.
Chiến
đấu theo “kiểu con nhà nghèo”
Tháng
Hai, 1975 trong buổi họp với một dân biểu Mỹ và Phó Đại sứ Wolfgang Lehmann, Tổng
Thống Thiệu đã đặt vấn đề là Mỹ nên hỗ
trợ miền Nam để sớm chuyển sang “chiến đấu kiểu con nhà nghèo.”
Tại
sao phải thay đổi ? Ông cắt nghĩa là vì trong chương trình Việt Nam Hóa Chiến
Tranh, Mỹ đã giúp đào tạo quân đội và chiến đấu theo mô hình của Mỹ, mô hình của
con nhà giàu. Đó là dựa vào hai yếu tố nòng cốt: Di động tính (dùng trực thăng
và máy bay không vận C-130) và hỏa lực (đại pháo). Bây giờ thì cả hai yếu tố
này không còn nữa. Vậy cần phải chuyển gấp sang “chiến đấu kiểu con nhà
nghèo.” Ông Dũng đã lập lại nguyên văn “khái niệm” đó.
Hà
Nội thay đổi chiến lược
Trong
bối cảnh ấy (và nhờ những tin tức nhận được qua liên hệ Kissinger và Dobrynin –
xem Chương 17 Nối Dài trong cuốn “Bức Tử VNCH,” Hà Nội đã thay đổi chiến lược,
từ tập trung vào “tái thiết kinh tế” miền Bắc chuyển sang “tổng tấn công miền
Nam.”
Sau
Hiệp Định Paris, một Kế Hoạch Ngũ Niên 1976 – 1980 đã được Hà Nội soạn thảo với
mục tiêu “tập trung toàn lực quốc gia, mọi ngành, mọi cấp, tiến tới phát triển
đột phá về nông nghiệp’ giúp giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm thiếu hụt
trầm trọng, và để tái thiết hạ tầng cơ sở bị phá hủy vì chiến tranh.” (Xem:
Nguyễn Tiến Hưng, Economic Development of Socialist Viet Nam, 1955-1980, Chương
10 – Preager Publishers, 1977).
Bây
giờ, sau cuộc họp của Bộ Chính Trị như đề cập ở trên, Hà Nội đi đến quyết định
tổng tấn công miền Nam. Trong cuốn sách Việt Nam, Những Sự Kiện Lịch Sử
1945-1975 (Hà Nội – Giáo Dục xuất bản) trang 527 ghi lại “Nghị quyết lịch sử” về
kế hoạch hai năm 1975-1976 giải phóng hoàn toàn miền Nam, và chuẩn bị “chớp thời
cơ để giải phóng miền Nam trong năm 1975.”
Nhận
được đầy đủ thông tin tình báo, Đại Sứ Graham Martin đã báo cáo về Washington.
Ngày 26 Tháng Tư, 1975, tức là chỉ còn bốn ngày trước khi sụp đổ, ông Martin
gởi công điện cho Ngoại Trưởng Henry Kissinger – như để ghi lại cho lịch sử,
vì ông là chứng nhân cuối cùng ở tại chỗ.
Ông
viết: “Thế rồi, bỗng nhiên cái đáy thùng rơi xuống, Quốc Hội bỏ phiếu chuẩn chi
chỉ có một nửa số tiền quân viện và kinh viện. Thấy vậy, Hà Nội thẩm định lại
và quyết định tăng áp lực quân sự. Trước một cơ hội tốt, Liên Xô liền tăng ngay
viện trợ quân sự – tăng lên gấp bốn lần trong tam cá nguyệt đầu năm nay – và đã
khích lệ Hà Nội thật chính xác rằng chiến dịch tuyên truyền đang được tung ra sẽ
tiếp tục làm xói mòn ý chí và quyết tâm của Hoa Kỳ đến mức giúp Hà Nội có thể
thu lượm được những thành công đáng ngạc nhiên.”
Thực
ra thì cũng không cần ông Martin báo cáo, vì qua mối liên hệ “mật thiết”
Kissinger-Dobrynin (Đại sứ Liên Xô ở Washington) và đường giây điện thoại
24/24 giữa hai người thì Kissinger đã biết rõ Hà Nội thay đổi chiến lược và việc
Liên Xô gấp rút tăng viện gấp bốn lần cho miền Bắc. Ngược lại, Hà Nội cũng biết
hết về ý chí xói mòn của Hoa Kỳ qua liên hệ Dobrynin-Kissinger (như đề cập
trong cuốn BTVNCH).
Tuy
nhiên, khi quyết định tấn công, Hà Nội vẫn e ngại về việc Mỹ có thể trở lại. Tướng
Dũng viết: “Hội nghị lần này có một vấn
đề được đặt ra và thảo luận sôi nổi: Liệu Mỹ có khả năng đưa quân trở lại miền
Nam khi ta đánh lớn dẫn đến nguy cơ sụp đổ của quân đội miền Nam không?”
Bộ
Chính Trị kết luận: “Ta vẫn đề phòng khả năng Mỹ có thể can thiệp bằng không
quân, hải quân…”
Để
cho chắc ăn, Hà Nội quyết định đi tìm câu trả lời ngay trên chiến trường: Tấn
công Phước Long.
***
Trong
cuốn hồi ký “Những Ngày Cuối Của VNCH,” Đại Tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu
trưởng VNCH, ghi rõ nhiều chi tiết về trận
này như sau: “Trong hai năm 1973-1974, CSBV không chiếm được một tỉnh hay phần
đất nào của VNCH. Có lúc họ đã nghĩ đến chuyện đánh Tây Ninh hay Kontum, nhưng
phòng thủ của hai tỉnh đó nằm ngoài khả năng quân sự của cộng sản. Không còn mục
tiêu nào, cộng sản chuyển hướng về Phước Long.”
“Đầu
Tháng Mười, 1974, qua tin tức thâu thập từ tình báo, phản gián, hồi chánh viên
và tù binh, Bộ Tổng Tham Mưu đã biết được kế hoạch CSBV chuẩn bị đánh chiếm Phước
Long, cho nên đã không phải là một bất ngờ, ngoài ước đoán của chúng ta. Nhưng
cái khó nó bó cái khôn, trung ương hết còn khả năng tiếp viện.”
Đêm
ngày 13 Tháng Mười Hai, 1974, quân đội Bắc Việt khai hỏa ở Phước Long (tỉnh lỵ
là Sông Bé), nằm khoảng 100 cây số ở Đông Bắc Sàigòn. Tỉnh này gồm bốn quận:
Đôn Luân, Đức Phong, Bố Đức, và Phước Bình với dân số khoảng 40,000 gồm một số
lớn đồng bào Thượng sống ở các buôn, rẫy hẻo lánh. Đây là một khu vực ở vị trí
cô lập, luôn cần tiếp tế từ Sài Gòn bằng những chuyến công-voa định kỳ.
Lực
lượng của VNCH ở Phước Long rất khiêm nhượng, chỉ gồm Địa Phương Quân, Nghĩa
Quân, và bốn trung đội Pháo Binh lãnh thổ, tổng cộng khoảng 4,000 người.
Lực
lượng của CSBV ở thế thượng phong vì gồm hai sư đoàn bộ binh, và các trung đoàn
xe tăng, pháo binh, phòng không, và các đơn vị đặc công. Họ lại có những vũ khí
và phương tiện truyền tin tối tân dược Liên Xô cung cấp.
Khởi
đầu, Sư Đoàn 7 Bắc Việt đánh vòng ngoài, tấn công quận lỵ Đôn Luân ở phía Nam
thị xã Phước Long do một tiểu đoàn Địa Phương Quân trấn giữ. Với yểm trợ của
Không Quân, lực lượng trú phòng đã đẩy lui được nhiều đợt tấn công. Đêm hôm
sau, quân đội BV ngừng, không đánh Đôn Luân nhưng tập trung tấn công quận lỵ Đức
Phong và Bố Đức. Cả hai đã thất thủ nhanh chóng.
Được
trực thăng vận chuyển, Tiểu Đoàn 2/7 (thuộc Sư Đoàn 5) và 10 khẩu pháo tới tiếp
viện, Ngày 16 Tháng Mười Hai, lực lượng Phước Long phản kích, chiếm lại quận lỵ
Bố Đức. Nhưng đêm ngày 23 Tháng Mười Hai, Sư Đoàn 7 Bắc Việt tràn ngập Bố Đức lần
thứ hai, và đêm 25 Tháng Mười Hai, sau khi đã nã hơn 1,000 trái pháo, tấn công
thành công Đôn Luân.
Sáng
ngày 1 Tháng Giêng, 1975 quân đội Bắc Việt dốc toàn lực tấn công thị xã Phước
Long. Dù mọi loại pháo đã bị tê liệt và số quân chẳng còn bao nhiêu, lực lượng
miền Nam chống trả quyết liệt.
Ngày
cuối cùng của Phước Long
Ngày
5 Tháng Giêng, Liên Đoàn 81 Biết Kích Dù (hai đại đội, chừng 250 người) được thả
xuống tiếp viện, nhưng vừa tới nơi đã bị xe tăng của Bắc Việt áp đảo, bị thương
vong khoảng một nửa.
Ngày
6 Tháng Giêng, quân Bắc Việt pháo trên 1,000 quả đạn, dọn đường cho trận cuối
cùng vào Phước Long. Lực lượng trú phòng tiếp tục chống cự, nhưng nửa đêm hôm
đó Phước Long đã thất thủ sau khi cầm cự được gần bốn tuần – từ 13 Tháng Mười
Hai, 1974 tới 6 Tháng Giêng, 1975.
Trong
cuộc chiến kéo dài 20 năm, Phước Long là tỉnh lỵ đầu tiên bị mất.
Tại
sao không tiếp viện cho Phước Long?
Ngày
2 Tháng Giêng, 1975 tại Dinh Độc Lập, Tổng Thống Thiệu triệu tập khẩn cấp Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia để họp với Trung Tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Quân Đoàn III và
Quân Khu III. Tướng Đống trình bày kế hoạch tăng viện cho Phước Long. Nhưng sau
cùng – như ông Viên viết lại: “Trung
ương không thể thỏa mãn nhu cầu vì nhiều lý do, đặc biệt là vì không còn lực lượng
trừ bị nào và cũng không thể rút đơn vị nào khác đang trấn giữ các vị trí quan
trọng.”
Nơi
đây chúng tôi xin mở ngoặc để ghi thêm về việc hết quân. Đầu năm 1975 chúng tôi
nghe Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình (tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và tổng giám đốc
Trung Ương Tình Báo VNCH, hiện sống ở San Jose, California) nói: “Tôi phải đưa
Cảnh Sát Dã Chiến đến đóng ở Vườn Tao Đàn để bảo vệ Dinh Độc Lập vì những đơn vị
bảo vệ Dinh đã được di chuyển ra chiến trường rồi!”
Nghe
vậy chúng tôi thật ngỡ ngàng vì cứ tưởng là quân đội VNCH gồm trên một triệu
quân nhân – một sự kiện mà cho tới bây giờ nhiều người – nhất là truyền thông Mỹ
– vẫn nói như vậy. Thực ra thì số quân tác chiến chính quy chỉ có 13 sư đoàn
hay khoảng 130,000 quân nhân. Còn lại là Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Đã từ mấy
năm, VNCH yêu cầu Mỹ giúp trang bị thêm hai sư đoàn để làm lực lượng trừ bị.
Năm 1974 chúng tôi cũng đã nối tay với ĐT Cao Văn Viên để vận động thêm, nhưng
không thành công vì các nghị sĩ, dân biểu Mỹ luôn nói rằng: “Các ông đã có hòa
bình rồi, vậy nên giải ngũ chứ không phải tăng thêm quân.”
Về
chuyển vận, khả năng không vận bị thu hẹp tối đa. Theo Tướng Viên thì tất cả có
32 máy bay chuyển vận C-130, nhưng vì hư hỏng, thiếu phụ tùng, giới hạn về số
giờ bay (thiếu xăng) nên mỗi ngày chỉ sử dụng được từ bốn đến tám chiếc trên
toàn lãnh thổ. Ông thêm: “Chưa bao giờ miền Nam lại cảm thấy bất lực như lúc
này: Không có quân tăng viện mà nếu có thì cũng không còn phương tiện chở quân
tăng viện và chở đến cho kịp thời.”
Về
tiếp tế, Không Quân tiếp tục thả xuống tới 10 lần nhưng phạm vi kiểm soát của lực
lượng trú phòng đã co lại, đồ tiếp tế lọt vào tay đối phương rất nhiều. Sau
cùng vì hết quân bắt buộc phải bỏ Phước Long để tập trung lực lượng giữ Tây
Ninh.
Ngày
6 Tháng Giêng, Phước Long thất thủ.
Ngày
8 Tháng Giêng, Bộ Chính Trị hạ lệnh cho quân đội vượt qua ranh giới Bến Hải để
tấn công.
Hà
Nội đánh giá chiến thắng
Tướng
Dũng viết tiếp trong hồi ký: “Chiến thắng này còn cho thấy rõ hơn về đế quốc Mỹ
trong ý đồ và khả năng can thiệp của họ vào miền Nam Việt Nam…Ngày nay Mỹ đã yếu
thế đến mức không thể muốn làm gì thì làm.”
“Chiến
dịch đường số 14 – Phước Long thắng lớn có ý nghĩa hết sức quan trọng…Quân chủ
lực của miền Nam không còn đủ sức hành quân giải tỏa quy mô lớn để lấy lại các
vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng mà ta đã chiếm trên các vùng rừng núi và
giáp ranh. Bọn hiếu chiến ở Lầu Năm Góc dọa ném bom trở lại miền Bắc… Nhưng rồi
cuối cùng Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ James Schlesinger bắt buộc phải bỏ qua “sự
kiện Phước Long” và tuyên bố: “Đây chưa phải là một cuộc tiến công của miền Bắc
Việt Nam.”
Như
vậy, câu hỏi “liệu Mỹ có can thiệp trở lại hay không” đã có được câu trả lời dứt
khoát trên chiến trường.
Sau
Phước Long, ngày 24 và 25 Tháng Giêng, 1975 Tổng Thống Thiệu cay đắng gửi hai
lá thư liên tục cho Tổng Thống Gerald Ford yêu cầu gấp rút tăng viện.
Ông
viết: “Khi chúng ta đang tiến gần đến kỷ
niệm hai năm ngày ký Hiệp Định Paris 27 Tháng Giêng, 1973, tôi muốn lưu ý ngài
đến tình hình vô cùng nghiêm trọng mà đất nước chúng tôi đang phải đối mặt… Vì
miền Bắc tiếp tục nhận được một lượng lớn thiết bị và đạn dược từ các nước Cộng
Sản để theo đuổi cuộc tấn công tại miền Nam Việt Nam, chúng tôi phải dựa vào sự
hỗ trợ của Hoa Kỳ để cung cấp thiết bị và đạn dược cần thiết cho việc phòng thủ
của chúng tôi. Trong hầu hết các trường hợp, chúng tôi đã phải chấp nhận những
thất bại chỉ vì hỏa lực và thiết giáp áp đảo của Cộng Sản.
Về
phía VNCH, quân đội chúng tôi đã phải đếm từng viên đạn để chiến đấu dược lâu
hơn… Tôi hy vọng rằng ngài sẽ có thể thuyết phục Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ rằng
việc cắt giảm và hạn chế viện trợ cho VNCH sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến sự tồn tại
của đất nước này, và còn làm cho những cam kết của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ hòa
bình tại Việt Nam mất hết ý nghĩa…”
Tổng
Thống Thiệu nóng lòng chờ đợi từng giờ, nhưng một tháng sau, ngày 26 Tháng Hai,
1975 Tổng Thống Ford mới trả lời! Văn thư lại do Ngoại Trưởng Henry Kissinger
soạn thảo. Ông là người đã quyết tâm “bức
tử VNCH.” Chỉ cần sắp xếp làm sao để quốc gia này tồn tại thêm vài năm sau Hiệp
Định Paris. Hiệp định này ký Tháng Giêng, 1973 thì đến Tháng Giêng, 1975 là
đúng hai năm. Cho nên Phước Long chính là “ga cuối đường tàu” của Kissinger.
Dù
trong giờ phút cực kỳ nguy nan, thay vì nói đến tăng thêm quân viện, văn thư lại
kết luận:“Chúng tôi tiếp tục tin tưởng rằng việc thực thi Hiệp Định Paris, cùng
các cuộc điều đình trực tiếp giữa các phe phái Việt Nam, là con đường nhanh nhất,
hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc đổ máu tại Việt Nam.”
***
Nhìn
sang Âu Châu ngày nay, tuy cuộc chiến Ukraine và cuộc chiến Việt Nam khác hẳn
nhau – cả về bản chất lẫn hoàn cảnh lịch sử –
ta vẫn có thể đặt ra câu hỏi rằng liệu sự “cắt giảm quân viện cho
Ukraine” và lập trường “điều đình trực tiếp giữa các phe phái” có phải là con
đường nhanh nhất, hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc đổ máu tại quốc gia này hay không? Sau thỏa thuận hòa
bình, nếu có, do tân Tổng Thống Donald Trump làm trung gian vào mùa Xuân 2025,
liệu Ukraine có sớm hết đạn dược để bảo vệ hòa bình? [đ.d.]
No comments:
Post a Comment