Chủ thuyết phát triển – Khát vọng Việt
Nam Thế kỷ XXI
TS. Tô Văn Trường
Posted
on 23/07/2025 by Boxit VN
https://boxitvn.online/?p=94417
Đại
hội XIV của Đảng CSVN sắp tới dự kiến sẽ tạo nên một bước ngoặt quan trọng về
tư duy lãnh đạo. Lần đầu tiên, ba báo cáo lớn: Chính trị, Kinh tế – Xã
hội và Xây dựng Đảng sẽ được thống nhất trong một bản báo cáo duy nhất. Đây
không chỉ là sự tinh gọn về hình thức mà là bước đột phá chiến lược, thể hiện tầm
nhìn mới về quản trị quốc gia: đồng bộ, hiệu quả, lấy hành động và kết
quả làm thước đo. Trong bối cảnh ấy, việc hình thành một chủ thuyết phát
triển nền tảng định hướng lâu dài cho mọi chính sách và quyết sách càng trở
thành yêu cầu cấp bách.
*
Phản biện
– Động lực của tiến bộ
Trong
mọi giai đoạn phát triển, ý kiến phản biện luôn là động lực thúc đẩy đổi mới.
Hiến pháp và pháp luật đã khẳng định quyền công dân tham gia phản biện chính
sách, từ kinh tế, văn hóa, giáo dục đến an ninh, quốc phòng, trật tự xã hội.
Khi phản biện dựa trên dữ liệu thực tiễn, chuẩn mực khoa học và được lắng nghe
một cách cầu thị, xã hội sẽ tiếp cận được tinh hoa nhân loại, nâng cao nhận thức
và điều chỉnh chính sách phù hợp hơn.
Trên
cơ sở lắng nghe phản biện từ Nhân dân, với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng,
trước Dân tộc và Tổ quốc, Đại hội Đảng – cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và mỗi thành viên Ban lãnh đạo, mỗi đại biểu
tham dự Đại hội, mỗi cán bộ, đảng viên cũng cần
tham gia phản biện, góp phần hoàn
thiện Báo cáo chính trị, hoàn thiện chủ thuyết phát triển đất nước để có thể “đưa
dân tộc ta bước tới đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như
ước vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thực trạng
chủ thuyết và yêu cầu đột phá
Các
văn kiện chính thức của đảng xác định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và phương thức phát triển là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Xây
dựng xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nhất quán với đường lối của đảng từ trước tới nay. Tuy
nhiên, phương châm phát triển nào là sự hiện thực hoá chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp nhất với bối cảnh hiện thời? Mô hình “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Việt Nam đang thực hiện nếu cứ tiếp tục áp dụng với
hai yếu tố đối lập nhau, nhất là khi “định hướng xã hội chủ
nghĩa” được áp dụng tuỳ tiện để can thiệp vào “thị
trường” thì kinh tế Việt Nam sẽ như một cỗ xe vừa chạy vừa
phanh, không thể nào đuổi kịp những cỗ xe
kinh tế khác đang băng băng chạy trước hàng thế kỷ.
Nhìn ra
thế giới: các
quốc gia thành công đều cho thấy sự linh hoạt và thực dụng
Trung
Quốc đã phát triển học thuyết “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, không còn
trích dẫn cứng nhắc lý luận kinh điển mà tập trung vào đổi mới và công nghệ,
coi đó là trọng tâm. Mỗi thế hệ lãnh đạo đều cập nhật học thuyết để giải quyết
các vấn đề của thời đại:
Giang
Trạch Dân có thuyết “ba đại diện”, dỡ bỏ “vòng kim cô” của quan điểm phân biệt
giai cấp hẹp hòi. Theo tư tưởng này, Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra năm 2002 đã “mở cửa” kết nạp các chủ
doanh nghiệp tư nhân vào đảng; tới nay một phần
ba giới siêu giàu Trung Quốc đã trở thành đảng viên.
Hồ
Cẩm Đào có thuyết “phát triển khoa học” và “xã hội khá giả, hài
hoà”.
Tập
Cận Bình có thuyết “bốn toàn diện” (xây dựng toàn diện xã hội khá giả, làm
sâu sắc toàn diện cải cách, quản lý toàn diện đất nước bằng pháp luật
và quản lý đảng nghiêm minh toàn diện) nhằm thực hiện“giấc mơ Trung Hoa”
trở thành một “siêu cường kinh tế”.
Hàn
Quốc và Singapore đã vươn lên hàng ngũ các nền kinh tế phát triển nhờ đặt
lợi ích dân tộc và hiệu quả quản trị lên trên mọi định kiến ý thức hệ, kết
hợp kinh tế thị trường với vai trò kiến tạo của nhà nước và chính sách thu hút
nhân tài.
Ngược lại, Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ chính vì sự giáo điều, duy trì mô
hình tập trung quan liêu, chậm đổi mới thể chế và không thích ứng được với thời
đại, dẫn đến kinh tế trì trệ và suy giảm niềm tin xã hội.
Làm sâu
sắc hơn 3 trụ cột cho chủ thuyết phát triển
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội
XI của đảng bổ sung, phát triển năm 2011 đã xác định mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có thể khẳng định đây là một
công thức thể hiện được đầy đủ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới
hình thức phổ thông, sinh động, dễ đi vào lòng người, dễ hiểu đối với quần
chúng nhân dân.
Để
chủ thuyết đi vào cuộc sống, có 3 trụ cột là “lòng dân, thực tiễn, tinh hoa
nhân loại” cần được cụ thể hóa:
Lòng
dân – Thể
chế hóa sự đồng thuận và quyền làm chủ: “Lòng dân” không chỉ là một khái niệm
trừu tượng mà phải được thể chế hóa rõ ràng. Đó là sự đồng thuận
xã hội được xây dựng thông qua các cơ chế tham vấn chính sách thực chất, các cuộc
thảo luận công khai và vai trò giám sát, phản biện của các cơ quan dân cử, các
tổ chức xã hội và truyền thông. Khi người dân thấy tiếng nói của mình được lắng
nghe, quyền làm chủ của mình được tôn trọng thì niềm
tin xã hội sẽ được củng cố.
Thực
tiễn – Tôn
trọng sự thật và quy luật khách quan: “Thực
tiễn“ đòi
hỏi chúng ta phải đối mặt với những con số và sự thật, dù dễ chịu hay không: từ
tốc độ tăng trưởng, năng suất lao động, chỉ số minh bạch cho đến mức độ hài
lòng của người dân. Nó cũng có nghĩa là phải thừa nhận các quy luật của kinh tế
thị trường và xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, khoa học – công
nghệ. Chỉ khi tôn trọng thực tiễn thì các quyết sách mới
tránh được sự chủ quan, duy ý chí.
Tinh
hoa nhân loại – Chắt
lọc giá trị phổ quát: Tiếp thu “tinh hoa nhân loại” không phải là sao chép máy
móc mà là chắt lọc những giá trị đã được chứng minh về hiệu quả. Đó là mô hình
nhà nước pháp quyền hiện đại, nguyên tắc kiểm soát quyền lực, nền quản trị công
minh bạch, hiệu quả và các thể chế kinh tế thị trường tiên tiến; đặt
lợi ích quốc gia và tương lai dân tộc lên trên mọi giáo điều hay lợi ích cục bộ.
Hội
đồng Lý luận Trung ương và những người làm công việc tham mưu chính sách có thể
làm rõ thêm: Những tinh hoa nào là ưu tiên? Mô hình phát triển nào gần nhất với
hoàn cảnh Việt Nam? Theo tôi hiểu, chúng ta cần phân biệt những tinh hoa phổ
quát như pháp quyền, minh bạch, kiểm soát quyền lực với mô
hình cụ thể Bắc Âu, Đông Á, Mỹ… để chọn lọc mô hình phù hợp với thực tế Việt
Nam.
Giải
quyết mâu thuẫn và vượt qua nỗi sợ “chệch hướng”
Nỗi
lo “chệch hướng” khi đổi mới là một rào cản tâm lý có thật. Tuy nhiên, lịch sử
đã chứng minh rằng:chính sự trì trệ, giáo điều và không dám thay
đổi mới là con đường dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ, như bài học cay đắng từ
Liên Xô. Sự ổn định bền vững không đến từ việc kìm nén thay đổi mà đến từ khả
năng thích ứng và tự điều chỉnh của thể chế. Năm 1986, công cuộc Đổi
mới từng bị nghi ngại là “chệch hướng”. Nhưng chính nhờ chấp nhận đổi mới tư
duy mà Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng và vươn lên mạnh
mẽ.
Để
giải quyết mâu thuẫn cốt lõi, nội hàm của “định hướng xã hội chủ nghĩa” cần được
diễn giải lại cho phù hợp với thế kỷ XXI. Đó không nên là sự duy trì một cách cứng
nhắc vai trò của kinh tế nhà nước hay các can thiệp trái quy luật thị trường.
Thay vào đó, nó nên được hiểu là cam kết của Nhà nước kiến tạo trongcác nội dung:
– Kiến
tạo một sân chơi minh bạch, công bằng cho mọi thành phần kinh tế; đảm bảo công
bằng xã hội và bình đẳng về cơ hội;
– Xây
dựng một mạng lưới an sinh xã hội toàn diện;
– Bảo
vệ môi trường và phát triển bền vững.
Các định
hướng lớn và giải pháp cụ thể
Để
tháo gỡ ba “điểm nghẽn” chính là: đổi mới chưa
triệt để, thiếu dân chủ trong các quyết sách, thiếu kiểm soát quyền lực, cần có
những hành động quyết liệt và cụ thể:
– Thực
hiện đổi mới triệt để về nhận thức, phát triển kinh tế và công tác cán bộ. Trên
cơ sở tiếp tục coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng, cần phân tích những nội
dung không còn phù hợp và cách thức vận dụng sáng tạo trong thời đại mới. Giao
cho Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với các chuyên gia hàng đầu trong và
ngoài đảng thực hiện công trình nghiên cứu toàn diện về vấn đề này. Tiếp tục
phát triển kinh tế thị trường; đa dạng hoá cơ cấu kinh tế, khắc phục tình trạng
bán nguyên liệu thô, thiên về gia công, lắp ráp thuê cho nước ngoài; có biện
pháp khuyến khích chuyển giao, sáng tạo, đổi mới công nghệ; thực
hiện đánh giá toàn diện công tác cán bộ, đề cao trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Công khai xin lỗi nhân dân về các sai lầm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng làm
trong cải cách ruộng đất cần phải trở thành một chuẩn mực về trách nhiệm.
– Thượng
tôn pháp luật, xác định rõ vai trò của các nhánh quyền lực: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Giảm chồng chéo trong bộ máy thông qua nhất thể hóa
các chức danh có chức năng tương đồng. Thí điểm nhất thể hóa chức danh Bí thư cấp
ủy đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân ở một số tỉnh/thành phố để tăng cường
trách nhiệm cá nhân và hiệu quả giám sát. Tăng cường quyền giám sát tối cao của
Quốc hội đối với Chính phủ.
– Hòa hợp dân tộc và phát huy nguồn lực con người: Thúc đẩy
hòa hợp, đoàn kết toàn dân, không đặt nặng ý thức hệ khi đất nước đã thống nhất
nửa thế kỷ. Phát huy trí tuệ của 95% dân số ngoài Đảng và cộng đồng người Việt ở
nước ngoài, coi đây là nguồn lực quan trọng của chiến lược.
– Ban hành các chính sách đột phá để thu hút nhân tài người
Việt ở nước ngoài tham gia các dự án chiến lược quốc gia. Thành lập các hội đồng
tư vấn chính sách độc lập gồm các chuyên gia uy tín trong và ngoài nước để phản
biện các dự luật và chính sách quan trọng.
Thông
điệp hành động
Một
đất nước muốn vươn lên không thể chỉ dựa vào khẩu hiệu, nhất là những khẩu hiệu
giáo điều. Việt Nam cần một chủ thuyết phát triển được xây dựng trên nền tảng vững
chắc của lòng dân, thực tiễn khách quan và tinh hoa nhân loại.
Đó
phải là kim chỉ nam giúp đảng và nhà nước đổi mới tư duy, dũng cảm sửa sai, mạnh
mẽ cải cách thể chế, xây dựng văn hóa chính trị liêm chính và đặt lợi ích của Tổ
quốc, của Nhân dân, của Dân tộc lên trên hết. Chỉ với một đường hướng như vậy,
Việt Nam mới hội đủ sức mạnh để vươn lên thành quốc gia phát triển, sánh vai
cùng bạn bè quốc tế trong thế kỷ XXI.
T.V.T.
Tác
giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment