Việt Nam thật sự kỷ niệm
gì vào ngày 30 tháng 4?
Bill Hayton - RSAA
Song Phan chuyển
ngữ
30/04/2025
https://baotiengdan.com/2025/04/30/viet-nam-that-su-ky-niem-gi-vao-ngay-30-thang-4/
Vào ngày 30 tháng 4, Việt Nam kỷ niệm ngày
chính thức kết thúc một cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến đó kéo dài bao lâu? Nó bắt
đầu từ năm 1965 khi lính chiến Mỹ đến Việt Nam, năm 1960 khi giao tranh nổ ra ở
miền Nam Việt Nam, năm 1945 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập với
Pháp – hay thậm chí sớm hơn?
Trong thông điệp chính thức xung quanh cuộc
diễu binh ngày 30 tháng 4, Việt Nam đang kỷ niệm ngày giải phóng “miền Nam” và
thống nhất đất nước. Nhưng khi xe tăng đâm vào cổng Dinh Tổng thống ở Sài Gòn
vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng không chỉ kết thúc một cuộc đấu tranh quân
sự mà còn là một cuộc đấu tranh chính trị, một cuộc đấu tranh đã bắt đầu từ đầu
thế kỷ 20. Ngày nay, ở Việt Nam không thể thảo luận công khai cuộc đấu tranh
chính trị đó, đơn giản là các cách diễn giải khác về lịch sử hiện đại của đất
nước không được dung thứ.
Bi kịch của Việt Nam là cuộc đấu tranh chính
trị này đã trở thành một cuộc nội chiến, và cuộc nội chiến này đã trở thành một
phần của một cuộc chiến toàn cầu, lôi kéo các cường quốc – Hoa Kỳ, Nga và Trung
Quốc – những nước mà ban lãnh đạo sẵn sàng trợ giúp và vũ trang cho các đối tác
tại chỗ để phục vụ các mục tiêu rộng lớn hơn của họ. Cả hai bên trong cuộc nội
chiến của Việt Nam đều từ các phong trào yêu nước. Sự chia rẽ của họ nằm ở ý thức
hệ, vai trò của nhà nước trong xã hội, văn hóa, tôn giáo và nhiều vấn đề khác.
Điều này chưa được hiểu thật rõ. Ngay cả ngày
nay, “Chiến tranh Việt Nam” thường được mô tả như một cuộc chiến giữa một quốc
gia gọi là Bắc Việt và một quốc gia khác gọi là Nam Việt. Không phải vậy. Đó là
cuộc chiến giữa hai nhóm chủ chốt chính trị, cả hai đều tuyên bố chủ quyền trên
toàn bộ đất nước, nhưng có tầm nhìn khác nhau về tương lai của nó. Hai tầm nhìn
đó ban đầu được thể hiện qua hai người: Nhà cải cách tự do Phan Châu Trinh và
nhà hoạt động cấp tiến Phan Bội Châu.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cả hai
ông đều vận động để chấm dứt ách thống trị của Pháp trên vùng đất mà lúc đó được
gọi là “Đông Dương”. Sau Thế chiến Thứ nhất, Phan Châu Trinh và một học trò của
Phan Bội Châu là Hồ Chí Minh đã đưa đơn thỉnh nguyện tới các nhà lãnh đạo tại Hội
nghị Hòa bình Versailles để đòi hỏi “tự do, bình đẳng và bác ái” cho Việt Nam.
Yêu cầu của họ bị từ chối thẳng thừng. Việc Pháp từ chối trao cho các dân tộc
Đông Dương những quyền mà họ hứa hẹn cho chính dân chúng của mình đã phá hủy cơ
hội chấm dứt chế độ thực dân một cách hòa bình. Con đường tự do dẫn đến độc lập
bị đóng lại và Hồ Chí Minh bắt đầu một hành trình chính trị hướng về chủ nghĩa
cộng sản.
Trước năm 1919, một dòng tư tưởng dân tộc chủ
nghĩa tự do của Việt Nam có thể đã trở thành chủ đạo. Sau đó nó bị mất uy tín,
và khoảng trống chính trị được chủ nghĩa cộng sản lấp đầy. Đến thập niên 1920,
có hai luồng ý kiến chính trị không thể hòa giải ở Việt Nam, đều bắt nguồn từ
các ý thức hệ châu Âu: Những người yêu nước tự do và những người cộng sản, hai
nhóm có sự thù hận sâu sắc với nhau. Một tương lai không có xung đột huynh đệ
tương tàn giờ đây là bất khả.
Trong thập niên 1930 và 1940, với sự hậu thuẫn
và che chở từ các đối tác ý thức hệ ở Trung Quốc, các nhà yêu nước thuần túy và
cộng sản đã xây dựng mạng lưới và lực lượng quân sự của họ. Chính quyền thực
dân Pháp vẫn từ chối nhượng bộ bất kỳ điều gì có ý nghĩa. Với việc ngăn chặn
con đường cải cách, tự do dẫn đến độc lập, họ buộc ngày càng nhiều nhà yêu nước
phải theo con đường cách mạng. Khi Thế chiến Thứ hai xảy ra và quân Nhật chiếm
đóng Đông Dương, cả hai bên chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài.
Nhưng chiến tranh kết thúc nhanh chóng, sau vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật
Bản. Tình cờ, những người cộng sản đã chuẩn bị lập một Quốc hội trong tuần tiếp
theo và do đó cán bộ của họ đã sẵn sàng chiếm Hà Nội. Vào ngày 2 tháng 9 năm
1945, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố độc lập cho nước “Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa”, tức VNDCCH.
Đến lúc này, giao tranh giữa các phe phái Việt
Nam đã bắt đầu. Vào giữa năm 1945, cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương bắt đầu
ám sát các đối thủ của họ thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tự do – yêu nước
và các đảng Trotskyite cánh tả. Đây là lúc “Chiến tranh Việt Nam” thực sự bắt đầu.
Cuối năm đó, quân Pháp đến giành lại quyền kiểm soát và lập ra chính quyền đối
thủ. Sân khấu cho cái mà chúng ta gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất”
đã được dựng lên.
Tuy nhiên, sẽ sai lầm nếu coi cuộc chiến này
chỉ đơn thuần là giữa “người Pháp” với “người Việt”. Có rất nhiều người Việt
không muốn thấy cộng sản chiến thắng. Điều này vẫn đúng ngay cả sau khi VNDCCH
đánh bại lực lượng Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954. Trận chiến đó được theo
sau bởi một loạt các thỏa thuận quốc tế, gọi là Hiệp định Genève. Hiệp định này
quy định rằng, các lực lượng quân sự của hai bên tranh chấp chủ quyền Việt Nam
phải rút về phía bắc và phía nam của một ranh giới “tạm thời” tại vĩ tuyến 17
cho đến khi diễn ra một cuộc bỏ phiếu, dự kiến trong vòng hai năm, để quyết định
ai sẽ lãnh đạo đất nước thống nhất.
Việt Nam chưa bao giờ bị “chia cắt” theo
cách, chẳng hạn như Anh chia cắt Ấn Độ. Khu vực phía bắc vĩ tuyến 17 được đặt
dưới sự kiểm soát tạm thời của VNDCCH, và khu vực phía nam dưới sự kiểm soát của
Quốc gia Việt Nam – được Pháp thành lập vào năm 1949 với sự hợp tác của một số
nhà yêu nước. Không bên nào coi sự phân chia này là hết chuyện. Cả hai đều
tuyên bố quyền cai trị trên toàn bộ đất nước. Nhưng hệ quả là, gần một triệu
người Việt Nam bình thường đã rời bỏ nhà cửa ở miền Bắc, vì lo sợ cuộc sống dưới
chế độ cộng sản.
Sau khi người Pháp rời đi vào năm 1955-1956,
một ban lãnh đạo Việt Nam mới nắm quyền kiểm soát miền Nam, do Ngô Đình Diệm đứng
đầu, tuyên bố thành lập nước “Việt Nam Cộng hòa” (VNCH). Với sự hậu thuẫn của
Hoa Kỳ, ông hủy bỏ cuộc bầu cử theo quy định của Hiệp định Genève và bắt tay đè
bẹp mạng lưới cộng sản ở miền Nam. Chính sự thành công của ông trong việc này
đã thúc đẩy lãnh đạo cộng sản đồng ý khởi động lại cuộc đấu tranh vũ trang vào
năm 1960. “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai” bắt đầu.
Khi giao tranh leo thang, các nhà bảo trợ của
hai bên đổ thêm nhiều nguồn lực vào cuộc xung đột. Nga và Trung Quốc (khi thì đồng
lòng, khi thì xung khắc) ủng hộ VNDCCH, trong khi Hoa Kỳ và một số đồng minh hậu
thuẫn VNCH. Dân chúng Việt Nam bị kẹt ở giữa. Không ai biết chính xác bao nhiêu
người đã bị giết chết. Ước tính dao động từ hai đến ba triệu người.
Nhiều thêu dệt chính trị phải được duy trì bởi
các bên trong cuộc chiến này. Người Mỹ tự cho rằng mình đang ủng hộ một quốc
gia gọi là “Nam Việt” chống lại một quốc gia khác gọi là “Bắc Việt”. Trong khi
đó, lãnh đạo cộng sản ở miền Bắc vờ rằng lực lượng kháng chiến chống Mỹ ở miền
Nam, “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” (MTGP), và “Quân Giải
phóng miền Nam” (thường được gọi là Giải phóng quân hoặc GPQ), là tự lập. Thực
tế, MTGP và GPQ đều do VNDCCH kiểm soát.
Khi giao tranh tiếp diễn, “bàn tay dẫn dắt” của
VNDCCH ngày càng lộ rõ. Đến năm 1965, lực lượng của họ, “Quân đội Nhân dân Việt
Nam” (QĐND), đã tham chiến tại VNCH nhưng dưới vỏ bọc hỗ trợ GPQ. Đến năm 1975,
QĐND công khai dẫn đầu cuộc tiến quân cộng sản vào Sài Gòn. Tuy nhiên, khi hai
xe tăng của QĐND húc sập cổng dinh Tổng thống vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, các
chỉ huy của họ cẩn thận chắc chắn rằng chúng treo cờ của MTGP, chứ không phải cờ
VNDCCH. Việc tô vẽ rằng đây là một cuộc kháng chiến do miền Nam lãnh đạo cần được
tiếp tục.
Chính thức, MTGP đã phát triển thành “Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, sau đó nắm quyền ở Sài Gòn.
Cũng như MTGP, đây là một chế độ cộng sản do VNDCCH kiểm soát. Chính phủ cách mạng
lâm thời sau đó đổi tên thành “Cộng hòa miền Nam Việt Nam”. Mãi đến ngày 2
tháng 7 năm 1976, nhà nước bình phong này mới chính thức đồng ý tự giải thể và
sáp nhập với VNDCCH để thành lập “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.
Vì vậy, khi đám đông tụ tập ở Sài Gòn mỗi dịp
30 tháng 4, ngày kỷ niệm họ đang đánh dấu không thật sự là ngày “thống nhất”
chính thức của Việt Nam mà là ngày cuối cùng VNCH ở miền Nam bị thua về quân sự.
Hiểu điều này là quan trọng bởi vì điều mà lãnh đạo hiện nay của đất nước quan
tâm là quyền cai trị không bị thách thức của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
ĐCSVN không thể chấp nhận ý niệm rằng VNCH
trước đây có bất kỳ tính hợp pháp chính trị nào. Trong cách nhìn của họ, Chiến
tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc đấu tranh giữa “nhân dân Việt Nam” và Hoa
Kỳ; không có chuyện “nội chiến”. Các cựu lãnh đạo của VNCH chỉ là “con rối của
ngoại bang” và không thể có “hòa giải” với các cựu thù. Điều mà lãnh đạo Việt
Nam hiện nay đòi hỏi là sự thừa nhận rằng VNCH đã sai và phía cộng sản luôn
đúng.
No comments:
Post a Comment