50
năm – còn đó nỗi buồn
Phạm Tín An Ninh
April
30, 2025
https://diendantheky.net/pham-tin-an-ninh-50-nam-con-do-noi-buon/
Ngày
24.2.2025 tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh
NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía
Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân Cộng sản, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt
lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm
ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng
hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga,
ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ Tổng thống
Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng
thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của
Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn
đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch
Ốc, giữa Tổng thống Zelensky của Ukraine và Tổng thống D. Trump cùng Phó
Tổng thống J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của
các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình.
Sau khi “mời” Tổng thống Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục,
Tổng thống Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng
như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào
bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa
chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!
***
Sự
kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày
kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày miền Nam Việt Nam hay
nước VNCH bị Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng
minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo
danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc
gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong
các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay
sai, con rối do Cộng sản Bắc Việt nặn ra.
Vẫn
biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi
của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay
lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên
nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau
đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của
chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của
Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
Ukraine
và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có
cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống
này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá
lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy
phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/
1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động,
một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng
viện Quốc hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa
nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng
Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng.
Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được
Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết
lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết,
VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc,
Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!
***
Vào
thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum –
Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực
lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng Cộng sản Hoàng Minh Thảo. Với khẩu
hiệu “sinh Bắc tử Nam”, Cộng sản Bắc Việt chuyên áp dụng chiến thuật biển người,
đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập
ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá
phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, mở cánh cửa ngõ
xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương
SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng
quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn
968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc
công 400, 2 trung đoàn Pháo, 6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng
T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm
Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng
bằng, duyên hải, nhưng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất
mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu,
đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yểm trợ. Điều này đủ
để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.
Ngay
trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả
hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 Cộng sản cùng 1 tiểu đoàn xe
tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không
còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong
trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục, Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi
trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ
vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của
Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này
Cộng sản Bắc Việt đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)
Chiến
thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với
Bình Long ở Quân Đoàn III và Quảng Trị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính
VNCH của Cộng sản Bắc Việt, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước,
đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến
Tranh”.
Nhưng
rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu
hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xương để đạt được,
cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong
men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết
trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng
tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc
gia đồng minh VNCH sau đó.
Ủy
Ban Nobel Hòa Bình Na Uy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một
quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả
thế giới và nhiều dân biểu Na Uy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra
khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết,
chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng Cộng sản đều biết trước là sẽ
không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định
mà chỉ lợi dụng những kẽ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng
chiếm Nam Việt Nam.
Hiệp
định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”,
để các lực lượng Cộng sản Bắc Việt không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện
diện hợp pháp tại các phần đất mà họ vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện
trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi Cộng sản Bắc Việt vẫn được
Trung Cộng, Liên Xô cùng khối Cộng sản gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình
hình này, Cộng sản Bắc Việt đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược,
nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ
Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến
đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn
dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.
Hồi
tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người
lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt
Trận miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của
nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời
Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
“Ngày
tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời
gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không
thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến
này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không
còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc
tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn –
và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Là
những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau
đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong
tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!
Hơn
mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề
một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng
địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điển hình như trận chiến Kontum.
Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục
hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên
phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân
danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ,
nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng
sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại bảo ông giành chức tổng
thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ
ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người
kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn
khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với
tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết
gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày
tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.
***
Trong
chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ
1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật
hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do
Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn
minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp
đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại
trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
Bị
đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không
đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng
một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh
Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ
đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà
văn bộ đội Cộng sản Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra
mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất
tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ
nghĩa” của mình.
Đến
hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những
dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt,
ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các
viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là
những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu
điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất
muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm
hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các
nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn
còn sót lại, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như nghĩa trang quân
đội Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm
để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng
thế giới tự do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một
chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.
Mới
đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẩn khuất trong
một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ
phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô
hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước
tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ.
Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền Cộng sản đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền
muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng
vì đó mà đành phải hủy bỏ.
Hàng
vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước,
nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn
nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng
sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng
cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy
nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu
trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu
phong, lẩn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-37.jpg
(Mộ
tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – Ảnh từ youtube)
Một
chứng tích đau lòng khác, những thương phế binh VNCH bị đối xử tệ hại, đang phải
sống từng ngày khốn cùng trong nước. Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo
đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố.
Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc,
luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào
từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục
nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần
buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo
trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần
thân thể, vậy mà chính quyền Cộng sản cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa,
ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-38.jpg
(thương
phế binh VNCH – Ảnh: Dân Làm Báo)
Chứng
tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã
phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975,
cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn
cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương
mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết
nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia
chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện
phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm
của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ
mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền Cộng sản từng
tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút
bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những
“khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả” của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng
đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền Cộng sản
vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các
quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục,
khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất
tích cực cho các quốc gia đón nhận họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà
chính quyền Cộng sản trong nước hằng mơ ước.
Trong
suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh
phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng”
miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu,
người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn
đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ
tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại
Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa,
cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả
mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù
không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh cao nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người
miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng,
vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.
50
năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học
trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng
viên trường Đại học Sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình
trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông
Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa
trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và học trò. Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp
dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả
thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.
Đặc
biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện,
ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào
đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê
Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường
học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất,
lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng. Chính ông GS
Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê,
nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất
nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa. (GS
Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa
Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này năm
2005, người dân trong nước do đó đều biết câu chuyện gian dối lừa mị
này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
50
năm, nền văn học “xã hội chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ
tuyên truyền, nịnh lãnh tụ, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa
sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi
ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình
thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác
đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng
Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót
Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất
nhiên chẳng ai còn muốn nghe!
Nhưng
50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán,
đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp, tù đày để
người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẩn say đắm
mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra
Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa. Mà oái ăm
thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người
lính “bên thua cuộc”.
Trong
một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một
đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại trường Đại
Học Quy Nhơn) đã viết:
“Việt
Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến
sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.
Thế
nhưng, người miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh
kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức miền Nam không
còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân
loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng
duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu
hủy, nền văn chương miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần
Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…
Bắt
đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng
có một nền văn học nghệ thuật miền Nam vô cùng gíá trị với nhiều thể loại “trăm
hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp
trào lưu thế giới…
Bên
trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn
cũng dày công sưu tầm văn học miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ
đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam
này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân
bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học
trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận
văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô
Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:
“Ta
về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.
(Tô
Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13
năm, sau tháng 4.1975)
Tuy
đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng văn chương miền Nam (1954-1975) sẽ
được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với
đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không
ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà.
Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ văn học miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của
chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn
chương Việt Nam”
Một
vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định
“Trong hai thập niên
1955-1975, nếu không có Văn Học miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như
không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”
Nhà
thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về
ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi
lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:
“…nhìn
một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn
học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà
tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà
mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….
Đến
nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước!
Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn
học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do,
Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”
***
Sau
50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng,
đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triển, đời sống người dân ở đây có khá
hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt Nam vẫn còn tụt hậu khá xa
so với nhiều nước chung quanh. Chính ông Tổng Bí thư Tô Lâm mới đây đã công
khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ
mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ
được vào khám bệnh ở Singapore.”
Theo
thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức
tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk),
trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia
Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:
-Hàn
Quốc (Nam Hàn): 37,675 Mk
-Nhật Bản
: 35,611 Mk
-Đài Loan
: 34,944 Mk
-Malaysia
: 14,423 Mk
-Thái Lan
: 7,754 Mk
Tệ
hơn, Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có
đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là:
7,576 Mk.
Điều
đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ
Cộng sản khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt
Nam (4,896 Mk).
-Tiệp
Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk
-Hung Gia Lợi (Hungary) = 25,703 Mk
-Ba Lan (Poland)
= 25,040 Mk
-Lỗ Ma Ní (Romani) = 21,570 Mk
-Bảo Gia Lợi (Bulgari) = 18,456 Mk
Tuy
vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực
tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe
nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu
giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục
tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng Cộng sản từng hô hào; đấu tố,
giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tội trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ
rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một
đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc
ngay sau khi cướp được miền Nam.
Sự
làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng
xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn
Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng
ngũ đảng Cộng sản, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ
trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc
chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị”
của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản
quốc gia. Đảng viên sống phè phỡn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn.
Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi
tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng,
chuẩn bị cho các vai trò kế vị.
Một
ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam
bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân
thì cũng đã chạy hết về Việt Nam” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô
con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn
tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô
không liên lạc được với gia đình. Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động
mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt
Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những
giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người
con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất
khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những
nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước.
Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt Nam, để một
số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống
trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để
dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của
bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn
Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó
là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ
chiếu” Việt Nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.
***
Sau
đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước Cộng sản Việt Nam đang
chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “thống nhất”, thao dược một cuộc diễn binh rất qui mô
mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh
thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy,
đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân
nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để
chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ
cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài
thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:
Thời
trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường “ đánh Mỹ!”
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!
Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót, áo sờn vai thấm lạnh!
Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!
“Ba mươi tháng Tư” bên thắng cuộc, hả hê
Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”
Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!
Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?
Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.
Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!
Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.
Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.
Tràn vào miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị
thành, lầu cao, gác tía ….!”
Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.
…
Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?
Riêng tôi!
…
Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”
Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!
…
Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Xin lỗi! miền Nam, những việc tôi đã làm!
Xin lỗi tất cả!
Cả những người “bên thua cuộc!”
Biết sao được!
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc
Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.
Hay
trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8,
Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ
Tạ Lỗi miền
Nam
Tôi
sinh ra ở miền Bắc
Không hình dung ra giặc thế nào
Người ta hô hào
Phải căm thù giặc…?
Người ta dạy tôi là người miền Bắc
Phải biết thương yêu đồng bào miền Nam
Bà con ruột thịt đang lầm than
Dưới gót giày của Mỹ Diệm…
Những người con nông dân thật thà như đếm
Mặc áo lính vai khoác súng lên đường
Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương
Đánh đuổi quân xâm lược…
Thống nhất đất nước
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình
miền Nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền Bắc…”
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!
…
Sám Hối
Thế
hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…
Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác
Thế
hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn
Gieo thù hận trong lòng con cháu
Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm
Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm
Mất chính mình mang tội ác với tương lai
***
Riêng
những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly
tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80,
nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một
quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải
buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi
cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.
Xin
được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên
nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:
“Tuổi
đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội
dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội
và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng
phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa
về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau
thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”
Cuối
tháng 4-2025
Phạm
Tín An Ninh