Thầy
Tuệ Sỹ trong ba ngàn thế giới
25 THÁNG 11, 2023
https://www.voatiengviet.com/a/thay-tue-sy-trong-ba-ngan-the-gioi/7369942.html
Tháng 9
năm 1988, sau bốn năm bị bắt giam, hai thầy Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị
tuyên án tử hình vì “hoạt động lật đổ chính quyền.” Người Việt Nam khắp thế giới
đã kêu gọi các chính phủ nơi mình cư ngụ can thiệp, đòi phải xóa bỏ bản án.
https://gdb.voanews.com/06400000-0aff-0242-37c9-08da8ce9a541_w650_r1_s.png
Hòa thượng
Thích Tuệ Sỹ (trái) và Hòa thượng Thích Quảng Độ năm 2019. Photo screenshot
Quangduc.com.
Lời tâm sự
đầu năm Tân Sửu, Phật lịch 2564, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ kể lại lời Đức Thích
Ca dặn dò các đệ tử trước khi nhập Niết-bàn: “Mọi thứ đều vô thường, các con
hãy không ngừng tinh tấn.”
Bây giờ,
theo lý vô thường, Hòa thượng cũng về cõi tịch diệt, những người kính yêu Hòa
thượng có thể nhớ lại lời Phật dạy trên đây, lấy làm phương châm: “Hãy không ngừng
tinh tấn.” Thầy Thích Tuệ Sỹ đã viết nhiều, đã giảng dạy nhiều, nhưng điều đáng
học hỏi, tu tập tinh tấn chính là con người, hành vi, thái độ thong dong mà vẫn
thiết tha với cuộc sống của vị thiền sư nhập thế.
Năm ngoái,
lần sau cùng được hầu chuyện Thầy Tuệ Sỹ, có bạn Tâm Thường Định tham dự, chúng
tôi đang nôn nóng với tin tức thời sự, đã đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất đưa ra một bản tuyên bố về việc quân đội Nga tấn công nước Ukraine.
Tôi bàn rằng việc này rất ích lợi, cho thấy Giáo hội vẫn hoạt động, lại nhắc nhở
cả thế giới thấy dân Việt Nam cũng xúc động trước số phận dân Ukraine. Thầy
bình thản nghe, không phê phán, cũng không tán thành. Rồi tiếp tục nói chuyện về
công trình phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt. Tâm không dao động.
Đêm nằm tôi mới thấy mình quá nông nổi, không hiểu Thầy, cũng không hiểu đồng
bào trong nước. Thầy mang những mối suy nghĩ, ưu tư mà tôi không nhìn thấy.
Thầy Tuệ Sỹ
có lần nhắc lại một câu thơ Nguyễn Trãi: “Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn, 人生識字多憂患” nghĩa là: “Người đời, càng biết chữ
càng nhiều lo nghĩ.” Mối lo nghĩ được Thầy giãi bày “Thảm họa chết chóc bởi bom
đạn vô tình đã không làm nhụt chí tình tự dân tộc; nhưng ám ảnh không nguôi về
một tương lai bấp bênh đè nặng bởi bóng tối của hận thù, nghi kỵ, bởi tham vọng
quyền lực, tham ô tài vật, trong một xã hội bất an, đạo đức băng hoại, …” Đó là
mối lo lớn. Những chuyện khác, những phiếm đàm, tạp thoại, chỉ nghe, biết,
thông cảm, rồi buông thả, cho trôi qua. Nhưng Thầy rất lạc quan con người Việt
Nam: “Dù vậy, trong tận cùng tâm khảm của đồng bào vẫn âm thầm trôi chảy dòng
tâm thức thấm nhuần đức tính từ bi, nhân ái, giữ vững khí tiết của một dân tộc
qua nhiều thế hệ.”
Người Việt
có thể lạc quan. Thầy kể lại chuyện lịch sử với hai câu thơ của Trần Nhân Tông:
“Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông thiên cổ vững âu vàng,” ( Xã tắc lưỡng hồi
lao thạch mã - Sơn hà thiên cổ điện kim âu – 社稷兩回勞石馬,山河千古奠金甌).
Sau khi đuổi
được giặc Mông Cổ ba lần xâm lăng, triều đình trình lên Nhân Tông những văn
thư, tài liệu của quân Nguyên, muốn tố cáo những người đã muốn đầu hàng. Nhà
vua bảo đem đốt hết.
Thầy
Tuệ Sỹ bàn: “Đất nước đang cần sự hòa hiệp đồng tâm nhất trí của toàn dân để
xây dựng lại những gì đổ vỡ do chiến tranh. Hãy quên đi những lỗi lầm lớn nhỏ của
bên này hay bên kia, ứng xử với nhau bằng khoan dung, tha thứ, không nhìn nhau
bằng đôi mắt hoài nghi…” Nghe những lời bàn này, người Việt Nam còn sống sau
năm 1975 phải suy ngẫm!
Rồi Thầy kết
luận với một cách nhìn tích cực: “… dù cho thế lực tham tàn hung bạo như thế
nào cũng chưa hề, và cũng sẽ không bao giờ làm cho cạn kiệt” được nguồn “phẩm
chất đạo đức quân vương ấy!” Phẩm chất đạo đức quân vương này, Thầy Tuệ Sỹ
nghĩ, “khơi nguồn dòng suối nuôi dưỡng khí phách của dân tộc này.”
Sau khi
đánh đuổi quân xâm lăng rồi, Trần Nhân Tông lại viết biểu “xin hàng,” tự xưng
là “Một bầy tôi nhỏ xíu” – “vi thần,” rất nhỏ bé so với chữ “tiểu thần!” Nhà
vua biết lực lượng và lòng tự kiêu của triều đình Mông Cổ rất lớn! Họ có thể mở
những cuộc chinh phạt mới, không biết bao giờ đất nước mới yên! Nhờ lời lẽ
khiêm cung của vị Hoàng đế Đại Việt, dân chúng tránh được những cuộc xâm lăng
trả thù!
Mối quan
tâm lớn khác của Thầy Tuệ Sỹ là trách nhiệm Tăng thống do “di chúc ủy thác của
Đức Cố Tăng Thống Thích Quảng Độ.” Thầy kể trong Thư Khánh Tuế, viết sau mùa An
Cư Kiết Hạ năm Canh Tý, Phật lịch 2564: “… trông lên Tổ đức uy nghiêm, vô khả nại
hà, tôi cúi đầu lãnh thọ.”
Thầy nhìn
công việc của vị Tăng thống rất khiêm tốn: “… trong thực tế (tôi) chỉ có vai
trò liên lạc, chuyển tải tôn ý giữa Chư Tôn đức, trong nước và Hải ngoại đang
hoằng hóa tại các châu lục khác nhau…” Tuy vậy, Thầy tận tâm tận lực để “liên lạc,
chuyển tải” này. Trong bức “Thư Khánh Tuế,” Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viết: “Cầu
nguyện cho bốn chúng đệ tử … cùng hòa hiệp đồng tu trong Chánh Pháp, vì sự tăng
ích và an lạc cho chính mình và cho nhiều người...” Một kết quả là kho “Đại Tạng
Kinh Việt Nam” đã tiến được một bước đầu. Đây là công trình Thầy đã khởi xướng
từ năm 1973, rồi tiếp tục theo đuổi suốt đời.
Phật Giáo
Việt Nam đã được vua Nhà Nguyên tặng một số bản trong Đại Tạng Kinh, sau khi
hai bên giao hảo. Từ đó đến nay, rất nhiều hòa thượng đã bỏ công phiên dịch
nhưng vẫn chưa hoàn tất. Các nước Phật Giáo khác ở Á châu đều có kinh tạng bằng
ngôn ngữ mà người dân nghe là hiểu được. Tiếng Việt là một trong 20 ngôn ngữ được
nhiều người dùng nhất thế giới, nhưng người Việt vẫn còn đọc nhiều kinh tạng
qua chữ Hán. Quả thật, đây là một vấn đề đáng quan tâm. Thầy Tuệ Sỹ đã khuyến
khích, thúc đẩy chư tăng và Phật tử, ở trong và ngoài nước, góp công dịch và in
Đại Tạng Kinh. Năm nay, bản Thanh Văn Tạng hoàn tất, ra mắt các vị hòa thượng từ
khắp nơi trên thế giới về Quận Cam chứng kiến, kể cả các thầy từ Việt Nam qua.
Phổ biến
Kinh điển, Hoằng dương Phật Pháp là một trách nhiệm của vị Tăng thống. Cùng với
Pháp, một phần trách nhiệm nữa là Tăng Già, ngôi thứ ba trong Tam Bảo, là tập
thể của những người tu học. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ nhấn mạnh: Chư Tăng và các
Phật tử cần giữ gìn “tự thể thanh tịnh hòa hiệp.”
Trong bức
“Thư Khánh Tuế,” Hòa thượng viết, “Tăng-già, chúng đệ tử Phật, tự thể vốn thanh
tịnh và hòa hiệp, là cỗ xe vững chắc mà Đức Thích Tôn đã tác thành.” Thực hành
tâm bất phóng dật thì có thể đạt được mười điều thanh tịnh, như lời Kinh Hoa
Nghiêm. Hòa thượng lập lại nhiều lần hai chữ Hòa Hiệp. “Tôi được ủy thác nhiệm
vụ kế thừa, … chính xác là kế thừa tâm nguyện chưa được viên thành của Hòa Thượng
Trưởng lão Thích Quảng Độ, muốn thấy uy đức Tăng-già được thể hiện trong bản thể
thanh tịnh hòa hiệp,...” Giữ thể tính thanh tịnh hòa hiệp của Tăng-già thì mới
có thể “từ đó phục hồi và kiện toàn cơ chế Giáo Hội.”
Dù đảm
đương trách nhiệm Tăng Thống, nhưng Thầy Tuệ Sỹ vẫn tâm sự: “Bản thân tôi trước
sau vẫn chỉ là nhà giáo dục, sự nghiệp suốt đời chỉ giới hạn trong những việc
trước tác, phiên dịch kinh điển. Những khi cần đến kiến thức hàn lâm, Chư tôn
Trưởng lão triệu tôi đến để thông diễn tôn ý cho bốn chúng đệ tử. Khi không cần
thiết, tôi được phép trở về bản vị trong các giảng đường và thư viện.” Thầy phải
hy sinh không làm theo ước nguyện của mình, chấp nhận nghiệp dĩ: Lãnh đạo Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Bản chất Thầy
là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu, giáo dục, nhưng lại bị chế độ nhìn như một
người đấu tranh chính trị! Tất cả mọi người Việt Nam phải chịu đựng nghiệp dĩ
này, các thầy cũng không tránh khỏi.
Tháng 9
năm 1988, sau bốn năm bị bắt giam, hai thầy Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị
tuyên án tử hình vì “hoạt động lật đổ chính quyền.” Người Việt Nam khắp thế giới
đã kêu gọi các chính phủ nơi mình cư ngụ can thiệp, đòi phải xóa bỏ bản án.
Giáo sư
John T.P. Humphrey, Đại học McGill ở Montréal, rất xúc động khi nghe chúng tôi
kể câu chuyện, trong bối cảnh chế độ vô sản chuyên chính ở Việt Nam. Ông đã tổ
chức một cuộc họp báo, về án tử hình trên hai vị thầy tu khác đạo mà ông mới biết
tên. Hàng trăm nhà trí thức ở Montréal đã ký kiến nghị yêu cầu chính phủ Canada
lên tiếng đòi đảng Cộng Sản Việt Nam trả tự do cho hai thầy.
Ông
Humphrey lúc đó đã 77 tuổi, từng giữ chức Giám đốc Ủy ban Nhân Quyền Liên Hiệp
Quốc, từ năm 1946 đến 1966. Đại học McGill vẫn dành riêng cho ông một văn
phòng. Ông là tác giả đầu tiên soạn thảo bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1948.
Chúng tôi báo tin cho ông Humphrey về hai bản án tử hình vì đã đọc cuốn hồi ký
ông cho, trong đó ông nhắc đến Hai Bà Trưng. Ông ca ngợi hai phụ nữ lãnh đạo đầu
tiên của dân tộc Việt chống cường quyền. Ông đã đến Việt Nam năm 1963, đứng đầu
phái đoàn Liên Hiệp Quốc gửi sang vì “Vụ Phật Giáo.”
Nghiệp Báo
đã vô tình đưa đẩy khiến Giáo sư Humphrey có lúc rơi vào một cơn gió cuốn với
nước Việt Nam, với Phật Giáo Việt Nam, rồi với hai Thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu. Hai
thầy không bao giờ biết đến tên ông. Ai gây ra những Nghiệp Báo như vậy? Không
ai là tác giả. Cũng giống như trọng lực hoặc điện từ lực, không có ai là tác giả.
Như ý Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Bồ Tát Vấn Minh: “Hựu như chư thế giới - Đại hỏa sở
thiêu nhiên - Thử hỏa vô lai xứ - Nghiệp sinh diệc như thị.” (又如諸世界,大火所燒然,此火無來處,業性亦如是).
Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch: “Lại như các thế giới – Lúc đại hỏa cháy tan –
Lửa này không từ đâu (tới) – Nghiệp tánh cũng như vậy.”
Hòa thượng
Thích Tuệ Sỹ đã ra đi. Thần thức có thể còn ở lại thế gian hay đã qua một thiên
hà nào trong “ba ngàn thế giới.” Nghiệp tánh như vậy. Hãy không ngừng tinh tấn!
============================================
.
.
Thích Tuệ Sỹ, vị tu sỹ ‘xuất chúng’ về tri thức và
giáo dục
24/11/2023
https://www.voatiengviet.com/a/thich-tue-sy-vi-tu-sy-xuat-chung-ve-tri-thuc-va-giao-duc/7368637.html
.
.
Hòa
thượng Thích Tuệ Sỹ, vị trưởng lão uyên bác, viên tịch ở tuổi 81
VOA EXPRESS
25/11/2023
https://www.voatiengviet.com/a/7369230.html
.
THẦY TUỆ SỸ TRONG VẬN MỆNH PHẬT GIÁO VIỆT
NAM (Tuấn Khanh)
.
No comments:
Post a Comment