Mạc Văn Trang
27/11/2023
https://baotiengdan.com/2023/11/27/suy-tu-ve-mot-su-kien-van-hoa/
Trước khi Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ mất, tôi không biết tiểu sử của ông,
không hiểu ông có vai trò gì trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(GHPGVNTN); tôi chỉ đọc mấy bài thơ của ông và bài nhà thơ Bùi Giáng bình thơ
Tuệ Sỹ… và cảm thấy mến mộ cả hai người.
Nhưng khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch, trên mạng xã hội trong và
ngoài nước tràn ngập những bài viết về Ngài, tôi bỏ công tìm hiểu, và thấy Nhân
cách của Ngài, sự nghiệp của Ngài đã hoàn toàn chinh phục trái tim và khối óc của
tôi: Đây đích thực là một vị Chân tu, một Trí thức lớn, một nhà Phật học uyên
thâm, một Nhân cách văn hoá không chỉ của Phật giáo mà của Dân tộc.
Điều ngạc nhiên là sau khi Ngài mất ba ngày, đến sáng nay tôi gõ cụm từ
“HT Thích Tuệ Sỹ viên tịch” trên Google xuất hiện Khoảng 178.000 kết quả (0,29
giây), mà trên toàn bộ hệ thống báo chí Nhà nước chỉ có báo Tuổi trẻ đưa tin về
sự kiện này.
Vậy là từ trước đến nay và cả khi Ngài mất, toàn hệ thống truyền thông
nhà nước không được giới thiệu về Thích Tuệ Sỹ, ém nhẹm mọi thông tin về Ngài,
cố tình vùi lấp đi một Nhân cách Văn hoá, một sự kiện Văn hóa đáng được tôn
vinh.
Trong Tiểu sử của ông, viết:
“Ông thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng
Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá
cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch
thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật [1]. Lúc bị bắt
năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật
giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển [2]”.
Như vậy nhân vật Thích Tuệ Sỹ gắn liền với cộng đồng GHPGVNTN tạo nên một
thực thể văn hoá trong lòng dân tộc. Văn hoá là cái được hình thành tự nhiên
trong lịch sử, nó gắn liền với những con người, những cộng đồng sản sinh ra văn
hoá; trải qua bao nhiêu biến động của lịch sử nó vẫn tồn tại và tích tụ, toả
sáng giá trị trường tồn. Có những thế lực muốn xóa nó đi, nhưng nó vẫn tồn tại
dưới nhiều dạng thức và khi có cơ hội sẽ lại phục hưng…
Đảng Cộng sản từ khi cầm quyền đã tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hoá tư tưởng, cách mạng khoa học kỹ
thuật, nhằm xóa cái Cũ, xây dựng cái Mới, nhưng nhìn lại tất cả ba cuộc cách mạng
đó đều sai lầm và thất bại. Xóa cái CŨ nhưng cuối cùng lại phục hồi cái CŨ mà
chẳng ra sao, còn cái MỚI tạo ra nhiều cái phản giá trị!
Ở đây chỉ nói về “Cách mạng Văn hoá tư tưởng” tiến hành bằng cách phá
đình chùa, đốt sách cũ, bài trừ “hủ tục, văn hoá phong kiến, thực dân đồi truỵ”…;
vùi dập các trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tu hành chân chính… Còn xây dựng “nền
văn hoá mới”, đến nay được những gì?
Bao nhiêu Nghị quyết, bao nhiêu cuộc vận động “chống và xây”, bao nhiêu
phong trào thi đua “xây dựng văn hoá mới”… suốt từ 1954 rồi 1975 đến nay, mấy
mươi năm, để lại những GIÁ TRỊ VĂN HOÁ GÌ đáng được tôn vinh?
– Ta có 5 DI TÍCH VĂN HÓA VẬT THỂ đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới cần bảo tồn là: Quần thể di tích Cung đình Huế, phố cổ Hội An,
Thánh địa MỸ Sơn, di tích Hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ. Đó đều là những
di sản của chế độ phong kiến để lại, may bị cách mạng phá mà chưa hết!
– Có 15 DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ đã được UNESCO công nhận là
di sản của nhân loại cần được bảo tồn: Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Kinh Bắc, Ca Trù, Hội Gióng, Hát
Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đờn ca Tài tử Nam bộ. Dân ca ví giặm Nghệ
Tĩnh, Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, Đờn ca tài tử Nam Bộ,
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ, Thực hành Then của người
Tày- Nùng- Thái, Nghệ thuật Xòe Thái, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm.
Tất cả những di sản này đều gắn với những nhân vật, những cộng đồng tạo
ra, gìn giữ không gian văn hoá, phát triển nó một cách tự nhiên trong đời sống,
trong dòng chảy của lịch sử, trải bao thăng trầm, nhưng vẫn tồn tại.
Hãy xem, Thiền sư Thích Nhất Hạnh với pháp môn “Phật giáo Làng Mai”, đã
trở thành cộng đồng Phật giáo Làng Mai quốc tế, có ở hơn một chục cơ sở ở các
nước là sự kiện văn hoá rất lớn. Vậy mà năm 2007 Phật Giáo Làng Mai mới được hoạt
động ở Việt Nam; nhưng chưa bao lâu đã bị đánh đuổi tơi bời, phải chạy sang
Thái Lan lập ra Phật giáo Làng Mai tại đất nước Thái và phát triển mạnh mẽ.
“Một bài viết trên Tạp chí Phật giáo Tricycle vào
năm 2008 đã chỉ trích rằng nếu bạn thực hành Bát Chánh Đạo tại Việt Nam, trong
đó có chánh ngữ (nói lời đúng đắn, công bình, ngay thẳng), chánh mệnh (sống
chân chính bằng khả năng của mình, không luồn cúi, không ăn bám kẻ khác), và
chánh nghiệp (hành động theo lẽ phải), thì bạn có thể sẽ ngồi tù vì “tội tuyên
truyền chống nhà nước”.
“Nhận xét vừa nêu cũng trùng hợp với nhận định của thiền sư Nhất Hạnh sau
vụ việc Bát Nhã vào 2009, khi các tu sinh Làng Mai bị đuổi ra khỏi một ngôi chùa của
GHPGVN tại tỉnh Lâm Đồng: “Trong thời Thực dân, trong thời ông Diệm và ông Thiệu,
tuy hành đạo có khó khăn thật đấy, nhưng người tu cũng không bị kiểm soát gắt
gao quá đáng như trong hiện tại. Người ta chỉ muốn có một đạo Phật của tín mộ,
của thờ cúng, người ta không muốn có một đạo Phật có khả năng lãnh đạo tinh thần
và văn hóa đạo đức cho quốc dân”.
Nhìn vào Phật giáo nước nhà thấy rõ GHPGVNTN và Phật Giáo Làng Mai có những
nhân vật văn hóa lỗi lạc gắn liền với sinh hoạt của các cộng đồng này, tạo ra
những giá trị văn hoá dẫn dắt phật tử tu tập theo Chính đạo, đem lại nhiều lợi
ích cho cá nhân và xã hội bền vững.
Vì vậy tôi nghĩ, đừng nhân danh cái gì mà xoá bỏ GHPGVNTN và Phật giáo
Làng Mai. Xoá đi là tội lỗi với dân tộc, với Phật giáo nước nhà. Mà xóa cũng
không được vì nó gắn liền với những con người, những nhân cách văn hoá lớn tạo
dựng nên cộng đồng văn hoá đó; nó sẽ tồn tại lâu dài.
Theo thiển nghĩ, GHPGVNTN và Phật giáo Làng Mai cũng là tiếp nối, phát
triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. “Thiền phái Trúc Lâm
(zh. 竹林禪派) là một tông phái của Thiền tông Việt Nam, hình
thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của
Trần Nhân Tông từ khi xuất gia ở động Vũ Lâm (Ninh Bình), đồng thời cũng là hiệu
của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng Thiền
này. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu
Đà), Pháp Loa và Huyền Quang (gọi chung là Trúc Lâm Tam tổ).
Đây là cội nguồn văn hoá dân tộc đáng tự hào, cần được bảo tồn, chấn
hưng, phát triển, vì các giá trị văn hoá ấy gắn liền với tên tuổi những nhân
cách văn hoá lớn và những di sản văn hoá phi vật thể đồ sộ, vô cùng phong phú.
Còn Nhà nước muốn “chỉ đạo xây dựng” GHPGVN thành nền văn hoá Phật giáo
XHCN với các hoạt động “Dâng sao giải hạn”, “trục vong”, “phóng sinh”, “cúng lễ,
cầu xin”… thì cứ chỉ đạo; nhà nước tôn vinh mấy ông sư nói: Dâng sao giải hạn mỗi
người đóng 200 ngàn, nhà chùa lỗ chổng vó ra; càng nghèo càng phải cúng dường để
thoát nghèo… thì cứ tôn vinh. Những đừng vì muốn tôn vinh “cái của mình” mà đi
xoá bỏ cái tốt đẹp thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc. Thời đại này rồi, hãy để
văn hoá “trăm hoa đua nở”, cạnh tranh với nhau thì chỉ thêm phong phú và cái tốt
đẹp sẽ được cuộc sống nuôi dưỡng, cái xấu hại sẽ bị loại bỏ.
Bộ Văn hoá có đem hết 3.500 tỷ đồng đầu tư chấn hưng Văn hóa GHPGVN cũng
không sao tạo ra được những nhà sư như Thích Nhất Hạnh, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí
Siêu và cộng đồng phật tử tu theo những vị Chân tu này.
Văn hoá nảy sinh từ cuộc sống, các nhà văn hóa lỗi lạc như Trời Đất sinh
ra để dẫn dắt những cộng đồng văn hoá đó; nó hình thành tự nhiên, chẳng có Nghị
quyết hay ai chỉ đạo xây dựng nên được! Cho nên đường lối quản lý văn hoá là
phát hiện ra những sự kiện văn hoá, nhân vật văn hoá, cộng đồng văn hoá có giá
trị Chân, Thiện, Mỹ đích thực thì bảo tồn, tạo điều kiện cho nó phát triển bình
thường trong đời sống xã hội và có thể trở thành những di sản văn hoá của dân tộc
và nhân loại.
No comments:
Post a Comment