Việt
Long - Nghiên Cứu Quốc Tế
Posted on 15/02/2019 by The Observer
CHIẾN
TRANH VIỆT TRUNG 1979
*
*
Diễn biến chiến tranh 1979
Cuộc tấn công được bắt đầu vào 3 giờ sáng ngày
17/2/1979. Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6
tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng
Ninh) với chiều dài 1.200 km. Từ đêm 16/2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang
theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với “lực lượng thứ năm” bí mật
cắt các đường dây điện thoại, phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, cây cầu, khai
quật các hầm vũ khí đã được chôn lấp chuẩn bị trước. Được sự dẫn đường của lính
sơn cước và đạo quân thứ năm, quân Trung Quốc vòng qua các vị trí đồn công an
vũ trang Việt Nam, thọc sâu, đánh chiếm các vị trí huyện lỵ quan trọng.[1] Có
thể nói Trung Quốc đã hoàn toàn giữ được yếu tố bất ngờ và chủ động trong dụng
binh.
Tối 17/2/1979, Thông tấn xã Việt Nam kêu gọi Liên Xô
và các nước anh em giúp đỡ bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược
của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng gửi ngay Công hàm cho Liên Hợp Quốc
kêu gọi Trung Quốc ngừng ngay cuộc chiến xâm lược.
Ngày 18/2/1979, Liên Xô ra tuyên bố ủng hộ cuộc chiến
đấu của Việt Nam; “Nhân dân Việt Nam anh hùng, lại vừa trở thành nạn nhân của
cuộc xâm lược hôm nay, có đủ khả năng để quật khởi cho chính họ một lần nữa, và
hơn thế họ có những người bạn tin cậy được. Liên Xô sẽ nghiêm chỉnh tôn trọng
những cam kết theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa Liên bang CHXHCN Xô viết
và CHXHCN Việt Nam”.[2] Liên
Xô cũng cảnh báo Trung Quốc bằng việc đặt các lực lượng vũ trang Liên Xô ở
Siberia vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam một số thông
tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Ngày 19/2/1979, một nhóm các cố vấn
quân sự của Liên Xô do đại tướng Gennady Obaturov dẫn đầu tới Hà Nội.[3] Trong
giai đoạn từ khi cuộc xung đột bắt đầu (giữa tháng 2) đến cuối tháng 3/1979, bằng
đường thủy, Liên Xô đã hỗ trợ cho Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe bọc
thép, xe chở quân, 400 cỗ pháo và súng phóng lựu, 50 dàn phóng đạn phản lực 40
nòng, cỡ 122 mm “Grad”, hơn 100 cỗ pháo cao xạ, 400 đồng bộ cao xạ di động cùng
hàng ngàn tên lửa đi theo, 800 súng chống tăng của bộ binh,
20 máy bay tiêm kích.[4] Hai
hoạt động trợ giúp quân sự đáng kể nhất của Liên Xô là giúp hỗ trợ vận chuyển
hàng không quân đội Việt Nam từ biên giới Tây Nam về Bắc và triển khai một số
tàu chiến ngăn chặn tàu Mỹ ở Biển Đông vào những tuần đầu tháng 3. Liên Xô cũng
triển khai một cuộc tập trận từ ngày 12 đến 26 tháng 3 năm 1979 trên lãnh thổ
Mông Cổ và trên biển Thái Bình Dương.[5] Phản
ứng ngoại giao và quân sự của Liên Xô cho thấy họ sẽ không can thiệp khi cuộc
xung đột chỉ ở mức độ hạn chế.[6] Liên
Xô không có ý định động binh ở một quy mô lớn nguy hiểm với Trung Quốc chỉ để cứu
Việt Nam. Trong cùng thời gian, các cuộc đàm phán biên giới Xô – Trung vẫn được
tiến hành và đạt được một số thỏa thuận về hải hành trên sông biên giới.[7]
Nghiên cứu của Trung Quốc chia cuộc chiến 29 ngày
thành hai giai đoạn: cuộc chiến phản kích tự vệ (17/2-5/3) và cuộc rút lui
(5/3-16/3).
Trong những ngày đầu tiên, quân Trung Quốc đã tiến
sâu vào lãnh thổ Việt Nam có chỗ đến 15-20 km.[8] Dù
bị bất ngờ song chỉ với lực lượng công an vũ trang và dân quân địa phương, Việt
Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày. Trung Quốc chỉ
vào được Lạng Sơn ngày 5/3[9] trước
khi tuyên bố rút quân. Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường
của Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông
Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên đã không đạt
được mục tiêu hợp điểm ở thị xã Cao Bằng. Một lực lượng nhỏ bộ đội Việt Nam và
dân quân tự vệ đã kiên cường chặn đứng bước tiến của quân đoàn Trung Quốc tại
đèo Khau Chỉa, thuộc địa phận thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa, Cao Bằng), Trung Quốc
buộc phải đưa thêm xe tăng, xe bọc thép và lực lượng dự bị vào vòng chiến. Tại
các tuyến Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, quân
Trung Quốc cũng chịu những tổn thất nặng nề.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Tôn Đức
Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc.[10] Cùng
ngày, Trung Quốc tuyên bố “hoàn thành mục tiêu chiến tranh” và rút quân. Tuyên
bố rút quân có đoạn: “Quân đội biên phòng Trung Hoa sau khi đạt được những mục
đích đề ra vì buộc phải mở cuộc phản công tự vệ ngày 17 tháng 2 chống lại những
cuộc xâm lấn và xâm lược có vũ trang không dứt của quân xâm lược Việt Nam chống
Trung Hoa, nay Chính phủ Trung Hoa tuyên bố kể từ ngày 5/3 tất cả các quân biên
giới Trung Hoa sẽ rút lui về lãnh thổ Trung Hoa. Chính phủ Trung Hoa nhấn mạnh
rằng chúng tôi không muốn một phân đất của Việt Nam nhưng chúng tôi cũng không
chịu được những cuộc xâm nhập phá hoại vào trong lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả những
gì mà chúng tôi muốn là một đường biên giới hòa bình và bền vững…”.[11]Trung
Quốc cũng kêu gọi nối lại các cuộc đàm phán mà ngay từ đầu chiến tranh Việt Nam
đã từng đề nghị nhưng không được đáp ứng. Đặng Tiểu Bình phát biểu quân đội
Trung Quốc có thể đánh thẳng đến Hà Nội nếu muốn song chiếm đóng thủ đô Việt
Nam không phù hợp với mục tiêu cuộc “phản kích tự vệ” của Trung Quốc.[12] Quân
giải phóng Trung Hoa đã đánh bại hoang tưởng bất khả chiến bại và đội quân mạnh
thứ ba thế giới của Việt Nam. Trung Quốc đã chứng tỏ Việt Nam không mạnh như họ
tưởng.[13]
Các tác giả Trung Quốc coi đây là 16 ngày gây sốc
cho thế giới[14] vì
hành vi dạy cho Việt Nam một bài học từ Trung Quốc, hai nước anh em XHCN. Dù từng
tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ
với Việt Nam và cả thế giới.[15] Các
nước đều chăm chú theo dõi với quan ngại cuộc chiến có thể kéo theo sự can thiệp
của các cường quốc khác như Liên Xô và Mỹ. Từ phía khác, đây đúng là những ngày
gây sốc vì:
1. Tính chất ác liệt của chiến tranh và sức chiến đấu kiên cường của dân
quân tự vệ, bộ đội địa phương Việt Nam đã làm phá sản nhanh chóng kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của đội quân mạnh hơn gấp 10 lần. Sức chiến đấu và lòng yêu
nước của nhân dân Việt Nam đã làm ngạc nhiên thế giới trong điều kiện không có
giúp đỡ vật chất từ nước khác, ngoài các tuyên bố lên án chiến tranh, ủng hộ Việt
Nam từ các nước XHCN và nhân loại tiến bộ. [16]
2. Năng lực chiến đấu của Quân giải phóng Trung Hoa không như đánh giá. Các
tướng Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ đổ gục ngay từ cú đánh đầu tiên và họ sẽ
dễ dàng bị quét sạch. Thực tế quân đội Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề. Quân
Việt Nam cũng thực hiện những cú giáng trả ngay vào hậu phương Trung Quốc. Ngày
1/3/1979, AFP và Tân Hoa Xã đều xác nhận có một cuộc đột kích “cảm tử” vào phi
trường Ninh Minh (Ningming) trong tỉnh Quảng Tây, cách xa biên giới bốn mươi
cây số.
3. Tuyên bố rút quân nhanh chóng của Đặng Tiểu Bình khi Trung Quốc thông báo
đã chiếm được Lạng Sơn mở toang cánh cửa vào Hà Nội. Ngoài sức chiến đấu không
ngờ tới của quân địa phương Việt Nam, lý do Quân giải phóng Trung Quốc phải rút
còn do những trở ngại khó khắc phục về hậu cần và khả năng đụng độ lớn với quân
chủ lực Việt Nam được điều động từ chiến trường Tây Nam ra Bắc. Một lý do khác
là những người lãnh đạo ở hai bên chiến tuyến đã quá hiểu nhau. Đặng Tiểu Bình
và Lê Duẩn đã có nhiều lần gặp mặt và đều là những người quyết đoán. Trong bài
phát biểu của mình sau chiến tranh 1979, Lê Duẩn đã khái quát: “Trung
Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người nhưng họ phải để lại một nửa
trên biên giới Trung – Xô để phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó nếu họ có mang một
hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta
chỉ có sáu trăm ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai
triệu quân thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết
cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở
phía Bắc. …Phải đối mặt với những làng mạc, thành phố, nhân dân và công tác
phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tiến công hiệu quả chống lại từng
người dân. Thậm chí có phải đánh nhau hai, ba năm hoặc bốn năm, họ cũng không
thể tiến vào được. …Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường.
Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể xâm nhập vào được”.[17] Lý
do thứ tư, Trung Quốc chủ động rút quân theo kế hoạch khi mục tiêu hợp thức hóa
các tranh chấp lãnh thổ đã đạt được và Trung Quốc tính toán đủ để vấn đề không
bị đưa ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, không gây cớ cho sự can thiệp nếu
có từ phía Liên Xô hay khó xử cho Mỹ, nước ngầm ủng hộ cuộc chiến tranh. Tuyên
bố rút quân được đưa ra vài giờ trước khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng ban hành lệnh
tổng động viên. Khi đó hoàn toàn là một cuộc chiến tranh xâm lược, đe dọa hòa
bình và an ninh quốc tế, buộc Hội đồng Bảo an phải xem xét. Đặng Tiểu Bình hiểu
rõ quyết tâm của Việt Nam và sự lợi hại của chiến tranh du kích. Tuyên bố rút
quân của ông đã được tính toán kỹ song nó gây sốc cho công chúng, những người
chưa hiểu rõ thế mạnh chiến tranh du kích của Việt Nam. Lịch sử nhiều lần chứng
minh các cuộc tấn công thần tốc từ phương Bắc cuối cùng đều bị đánh bại khi tiến
sâu vào đồng bằng Bắc Bộ.
4. Mức độ tàn ác của quân Trung Quốc khi thực hiện lệnh của Hứa Thế Hữu “sát
cách vô luận”, bất kể là gặp người Việt Nam nào dù già hay trẻ, nam hay
nữ đều là kẻ địch và phải giết hết[18].…Ngày
22/2/1979, lính Trung Quốc thả hơi độc vào pháo đài Đồng Đăng giết hại hơn 400
dân và thương binh; ngày 9/3/1979, trong vụ thảm sát ở thôn Tổng Chúp,
xã Hưng Đạo, TP. Cao Bằng, lính Trung Quốc trên đường rút quân về nước đã dùng
gậy, cuốc đập sọ 43 người, phần lớn là phụ nữ, trẻ em và quẳng tất cả thi thể
xuống giếng cổ.
Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam
tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu
rõ: “Nhân dân Việt Nam tôn trọng nhân dân Trung Hoa, cố gắng duy trì tình hữu
nghĩ bền vững và mong muốn lập lại hòa bình trong khu vực Đông Nam Á. …Nếu việc
triệt thoái là một âm mưu che đậy chính sách xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ
đánh trả. Lệnh tổng động viên đã có hiệu lực và nhân dân Việt Nam sẽ đáp ứng lời
kêu gọi để sẵn sàng chiến đấu.”[19] Các
cuộc đàm phán ở cấp Thứ trưởng ngoại giao sẽ được tiến hành với điều kiện quân
Trung Quốc phải rút hết về nước. Quân đội Việt Nam thi hành chính sách nhân đạo
“trải thảm đỏ” cho quân Trung Quốc rút lui mà không tổ chức các cuộc truy kích.
Ngược lại, cuộc rút quân của Trung Quốc với chính sách tận diệt đã mang lại biết
bao đau thương, thiệt hại cho Việt Nam. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang,
Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Các nhà báo nước ngoài đưa tin
quân Trung Quốc trên đường rút đã cướp bóc, tàn sát và phá hoại, đốt phá nhà cửa
của dân chúng Việt Nam.[20] Chiến
dịch tàn phá này được lính Trung Quốc gọi là “nụ hôn từ biệt”.
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam ra một
“Bị vong lục”, tố cáo Trung Quốc:
1. xâm canh, xâm cư, xâm lược lấn đất;
2. lợi dụng các công trình hữu nghị để di chuyển những trụ mốc;
3. đơn phương xây dựng các công trình biên giới lấn vào lãnh thổ Việt Nam;
4. “mượn đất Việt Nam để lấn vào lãnh thổ;”
5. xê dịch mốc biên giới và xuyên tạc luật pháp để lấn đất;
6. Làm đường biên giới lấn sang Việt Nam;
7. Lợi dụng việc vẽ bản đồ cho Việt Nam để sửa biên giới;
8. Dùng lực lượng vũ trang để đóng đồn, lấn đất;
9. Chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, nhưng nhai đi nhai lại luận điểm “Trung Quốc
không thèm một tấc đất của Việt Nam.”[21]
Ngày 16/3/1979, Bắc Kinh tuyên bố đã hoàn tất việc
rút quân, và kêu gọi Việt Nam triệt thoái khỏi Campuchia.
Tuy nhiên, một số tài liệu chưa được kiểm chứng cho
biết ngày 22/3/1979, Trung Quốc huy động thêm quân, chiếm 30 điểm trên lãnh thổ
Việt Nam, dời 6 cột mốc biên giới ở Lạng Sơn; 10 ở Hoàng Liên Sơn; 10 ở Hà
Tuyên. Lỗ Minh, Ðại biện Trung Quốc ở Hà Nội, tuyên bố quân Trung Quốc chỉ chiếm
lại lãnh thổ Trung Hoa. Thực sự cho đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút
hết quân như tuyên bố. Suốt hơn 10 năm (1979-1990), chiến sự vẫn tiếp diễn, cao
điểm nhất là năm 1984-1985. Chiến sự tập trung ở những khu vực không được biết
đến, xa đường giao thông, cửa khẩu quốc tế nhằm hạ thấp sự chú ý của dư luận quốc
tế. Nhiều đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển tới biên giới, biến
biên giới Bắc Việt Nam thành thao trường.
Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực
lượng quân sự lớn dọc biên giới.
Hậu quả chiến tranh
Hoàn Cầu Thời báo bản điện
tử ngày 2/3/2015 dẫn nguồn Trung Quốc viết rằng: “Trong cuộc phản kích tự vệ
này, quân ta đã chiếm được Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng
Ninh, Hà Tuyên và 21 huyện, thị trấn khác nhau của Việt Nam; tiêu diệt 4 sư
đoàn, 7 trung đoàn, 25 tiểu đoàn của Việt Nam. Tổng số binh lính Việt Nam bị
tiêu diệt là hơn 50.000 người; 2.173 lính đầu hàng; thu giữ 916 khẩu pháo các
loại; 16.000 súng, hỏa tiễn; 236 xe ô tô. Quân ta cũng phá hủy nhiều pháo, xe
tăng, xe thiết giáp, thu được thắng lợi huy hoàng”.[22] Hà
Nội cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc
xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên
tục, gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho đối phương. Theo VNExpress ngày
17/2/2015, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn
toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ;
400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng
một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài
sản.[23] Hầu
hết các thị xã, thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ
thống. Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công
trình gì từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu.
Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10km, ngoài việc
phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit. Những hoạt động này một
phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức với mục đích đánh vào nền
kinh tế Việt Nam, một phần do binh lính Trung Quốc sang Việt Nam bị sốc vì sự
khốc liệt, sức kháng cự của quân đội Việt Nam cũng như sự bất hợp tác, xa lánh,
chống đối của dân bản xứ. Giáo sư sử học Edward C. O’dowd tổng kết “người Việt
Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không dễ bị
lung lạc,…”.[24]
Theo tướng Ngũ Tu Quyền, Phó Tổng tư lệnh Quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc, Trung Quốc có hơn 2 vạn chiến binh tử trận trên chiến trường
Bắc Việt Nam.[25] Theo
nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần
500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy.. Russell D. Howard thì cho rằng quân
Trung Quốc thương vong 6 vạn người, trong đó số chết là 26.000. Sử gia Mỹ gốc
Hoa King C. Chen nói phía Trung Quốc có 26.000 quân bị chết và 37.000 người bị
thương. Trương Hiểu Minh sử dụng con số này.[26] Phía
Việt Nam có 30.000 binh sĩ bị chết và 32.000 người bị thương; Phía Trung Quốc
đã trao trả 1.638 tù binh Việt Nam đổi lấy 260 tù binh Trung Quốc.[27] Tạp
chí Time của Mỹ lại đưa ra con số khá khác biệt: ít nhất
20.000 lính Trung Quốc thiệt mạng, trong khi số bộ đội Việt Nam chết chưa tới
10.000.[28]
Gần đây, phía Trung Quốc đưa ra số liệu khác, giảm tổn
thất, cho rằng chỉ có 6.900 lính chết và 15.000 bị thương, tổng số thương vong
là 21.000 trong tổng số lực lượng tham gia chiến hơn 300.000 tức chưa tới 1%
(0.7%).[29] Tạp
chí Quân đội Nhân dân và Tạp chí Cộng sản của Việt Nam số tháng 4 năm 1979 cho
biết Việt Nam đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn
cháy và phá hủy 280 xe tăng và xe bọc thép, 279 xe vận tải, phá hủy 115 khẩu
pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự, bắt nhiều tù binh”[30] Con
số ước lượng của Việt Nam về tổng thiệt hại và thương vong của quân Trung Quốc
là 62.500 người trên tổng số 600.000 quân tham chiến (chiếm 1.04%). Đã có cả một
đại đội sơn cước Trung Quốc gồm cả phó chỉnh ủy trung đoàn đi cùng ra đầu hàng.[31]
Dù theo con số nào thì các nghiên cứu nước ngoài đều
cho rằng Việt Nam “trên thực tế đã chiến đấu tốt hơn” quân Trung Quốc và thương
vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, trung bình
một ngày mất một trung đoàn, phản ánh chiến thuật biển người của Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc, sẵn sàng thí quân.[32] Henry
Kissinger trong cuốn On China đã đưa ra một so sánh: “…PLA tiến
quân rất chậm và phải trả giá đắt. Theo thống kê của một số nhà phân tích,
trong một tháng giao tranh với Việt Nam, số thiệt mạng của PLA ngang với số
lính Mỹ bị giết trong những năm tháng khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam”.[33] Ông
cũng nhận định: Cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của Trung Quốc khoảng 1,3 tỷ
USD và làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình cải cách kinh tế. Việt Nam cũng bị
tổn hại nặng nề về kinh tế, chịu hậu quả bởi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ
và Trung Quốc. Hai nước có hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ
trang dọc biên giới, trong đó Việt Nam bị ảnh hưởng nặng hơn do buộc phải thường
xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả mất cân
đối, mất cân bằng, tác động xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người
dân vùng biên giới bị ảnh hưởng tiêu cực.
————————–
[1]Bài
học đau đớn từ “đội quân thứ 5” của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh
1979, Lao Động, 18/2/2015.
[2]Sông
Hồng, Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, www.vietrade.net In tại Mỹ, 1999-2005
[3]Các
cố vấn Liên Xô và cuộc chiến tranh 30 ngày ở Việt Nam, http://vietnamese.ruvr.ru/2011/02/17/44740573.html
http://soha.vn/quan-su/vi-dai-tuong-lien-xo-da-sat-canh-cung-viet-nam-nam-1979-la-ai-20160216171001044.htm ngày
18/2/2016
[4]“Tháng
2/1979: Liên Xô cảnh cáo “Không được động đến Việt Nam”. http://soha.vn/quan-su/thang-21979-lien-xo-canh-cao-khong-duoc-dung-den-viet-nam-20140217022631312.htm ngày
18/2/2016
[5] Các
cuộc diễn tập quy mô lớn nhất diễn ra trên lãnh thổ Mông Cổ, huy động tới 6 sư
đoàn bộ binh cơ giới và sư đoàn tăng, trong đó có 3 sư đoàn được điều động tới
Mông Cổ từ Sibir và Zabaikal. Trong khuôn khổ cuộc diễn tập này còn có sự góp mặt
gần 3 sư đoàn không quân, 2 lữ đoàn độc lập và một số liên binh đoàn và đơn vị
tăng cường. Tại biển Đông, và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái
Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến
hành tập trận đánh tiêu diệt hải quân đối phương. “Tháng 2/1979: Liên Xô cảnh
cáo “Không được động đến Việt Nam”. http://soha.vn/quan-su/thang-21979-lien-xo-canh-cao-khong-duoc-dung-den-viet-nam-20140217022631312.htm ngày
18/2/2016
[6]John
Blodgett, “Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?” in Rodney W. Jones and
Steven A. Hildreth, eds., Emerging Powers Defense and Security in the
Third World, New York, Praeger Publishers, 1986, 98
[7]Xinhua (Tân
Hoa Xã), 27 Tháng Hai 1979.
[8] Edward
C. O’Dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War:
The Last Maoist War. Routledge., p. 46
[9]Videoclip“Tái
hiện cuộc chiến tranh tự vệ phản kích Việt Nam”.Đài phát thanh truyền hình tỉnh
Liêu Ninh, Trung Quốc thực hiện, Bản điện tử của Hoàn Cầu thời báo ngày
2/3/2015
[10] Quyết
định Tổng động viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Lệnh Tổng động viên của Chủ
tịch nước Tôn Đức Thắng ngày 5/3/1079, Nhân Dân ngày 6.3.1979
[11]New
York Times, March 6, 1979.
[12] Henry
Kisinger, On China, p. 501-503
[13]Li
Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International
Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 58.
[14]Li
Man Kin, Sino-Vietnanese War, p. 56.
[15]Herbert
S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives, Calculations and
Strategies, China Report (New Delhi, India), Vol. 16, No 1,
1980, p. 15-32.
[16] Liên
Xô có yêu cầu gửi phi công chiến đấu sang Việt Nam nhưng Hà Nội đã từ chối.
Laurent Cesari (1995). L’Indochine en guerres 1945-1993. Paris:
Belin, 1995, p.266
[17] Bài
phát biểu của Lê Duẩn.(Tài liệu lưu tại thư viện quân đội, Hà Nội. Tài
liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu
Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Bùi Xuân Bách lại chuyển
ngữ ngược lại từ Anh sang Việt
[18] Những
tư liệu quý về cuộc chiến chống bành trướng Bắc Kinh 1979, http://thcsbachthuan.vuthutb.edu.vn/tin-tuc-thong-bao/tai-nguyen/tu-lieu/nhung-tu-lieu-quy-ve-cuoc-chien-chong-banh-truong-bac-kinh-1.html
[19]Nhân
Dân, 7/3/1979.
King C. Chen, China’s War Against Vietnam: A Military
Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983,
p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[20]Linda
Mathew, Los Angeles Times, March 7. 1979, p. 1 and 19
Henrry Kamm, New York Times, March 9,
1979
[21] Nguyễn
Ngọc Minh, “Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược,
tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế;” UBKHXHVN, Phê phán chủ nghĩa
bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh(Hà Nội:
KHXH, 1979), tr. 134-135
[22]Videoclip“Tái
hiện cuộc chiến tranh tự vệ phản kích Việt Nam”.Đài phát thanh truyền hình tỉnh
Liêu Ninh, Trung Quốc thực hiện, Bản điện tử của Hoàn Cầu thời báongày
2/3/2015
[23]35
năm cuộc chiến biện giới phía Bắc, http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/35-nam-cuoc-chien-bien-gioi-phia-bac-2950346-p2.html ngày
truy cập 27/7/2015
[24]Edward
C. O’Dowd, Chinese
Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge:
New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign, p. 45-73; Chapter 5: The Battle
of Lang Son, February – March 1979, p. 74-88; Chapter 10: Conclusion: the
legacy of an “incredible, shrinking war”, p. 159-166.Ngô Bắc dịch
[25]Trả
lời phỏng vấn của tướng Ngũ Tu Quyềnvới nhà báo Pháp AFP, 2 Tháng Năm,
1979, trong Foreign Broadcast Information Service, Daily
Report, China (FBIS), Số 80, các trang E1-E2.
Edward C. O’Dowd, Chinese
Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge:
New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,p. 45-73; Ngô Bắc
dịch
[26] Xiaoming
Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, p. 866
[27]King
C. Chen, China’s War With Vietnam, 1979: Issues, Decisions and
Implications, Stanford, CA: Hoover Institution Press, 1987, p. 114. Tác giả
Nayan Chanda tường thuật rằng phía Trung Quốc đã bắt giữ “khoảng 2,000 người Việt
Nam” trong khi Việt Nam bắt giữ “ít hơn 1,000 quân Trung Quốc”. Xem, “A
Breather Between Rounds” trong tờ Far Eastern Economic Review (FEER),
20 April, 1979, p.17.
[28] BBC
Vietnamese, Trung Quốc nói về chiến tranh biên giới 1979.htm ngày 16/2/2012
[29]Xiaoming
Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”
[30]Chống
chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc (Hà Nội: 1982), tr. 20 [trích đăng
“Xã luận” của Tạp chí Cộng sản (TCCS), 4/1979]
[31]Nguyễn Nguyên Bình, Chuyện hỏi
cung đại đội tù binh Trung Quốc ra hàng quân du lích ở Cao Bằng tháng
3/1979, http://nguoidongbang.blogspot.com/2014/08/hinh-anh-tam-ly-tu-binh-trung-quoc-o.html “Cái
đại đội ra hàng đó là thuộc trung đoàn bộ binh 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50,
quân khu Thành Đô. Đơn vị còn có đầy đủ cả bộ sậu: Đại đội trưởng, chính trị
viên, cả ban chi ủy, các trung đội trưởng…và đầy đủ vũ khí trang bị. Cùng đi với
đại đội còn có hai cán bộ do trung đoàn phái xuống để đốc chiến, một ‘vị’là
tham mưu phó trung đoàn, ‘vị’kia là phó chính ủy trung đoàn. Cả đại đội còn đầy
đủ cả trăm con người. Đơn vị này thuộc thê đội hai của chiến dịch, mới ngơ ngáo
tiến vào vùng núi Cao Bằng trập trùng bí hiểm, bị quân dân địa phương dồn đuổi
mấy ngày, hoang mang quá, không biết làm thế nào, đã bàn nhau(bàn trong chi ủy
Đảng CSTQ hẳn hoi) kéo cờ trắng ra hàng”. Tư liệu này cũng được phóng viên chiến
trường Lý Bảo Tồn xác nhận tr ong cuốn tiểu thuyết Vòng hoa dưới chân núi do
Dương Danh Dy dịch sang tiếng Việt.
[32] Trong một tháng giao
tranh, quân Trung Quốc thiệt hại 62.500 người trên tông số 600.000 quân tham
chiến trong khi Mỹ đưa nửa triệu quân vào chiến tranh Việt Nam, chịu tổn thất
khoảng 58.000 binh chết và hơn 305.000 người bị thương trong vòng 21 năm dính
líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Xem Congressional Research Service, American
War and Military Operations Casualties: Lists and Statistics, January 2,
2015, https://fas.org/sgp/crs/natsec/RL32492.pdf
[33] Henry Kisinger, On
China, p. 503.
No comments:
Post a Comment