26/02/2019
Từ mấy năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong
trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ.
Nhưng rồi sự sụp đổ của chế độ Maduro đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung
Quốc và chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân
chủ thứ tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh
lên và đạt tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan
trọng mà vì một lý do nền tảng hơn nhiều. Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ
nguyên mới trong cuộc hành trình về tự do. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều
là một cuộc nội chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới
trong lịch sử thế giới là từ nay xã hội mạnh hơn.
Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội
chiến giữa một nhóm người cầm quyền và một xã hội.
Điều đáng ngạc nhiên nhất tại Venezuela là Nicolas
Maduro đã không đàn áp như thường lệ mỗi khi bị chống đối, dù ông ta không thiếu
thủ hạ, vũ khí và sự hung bạo. Trái lại ông ta đề nghị đối thoại và thỏa hiệp
trong khi đối thủ của ông ta, một thanh niên 35 tuổi không có lực lượng vũ
trang nào và mới cách đây hơn một tháng không ai biết tới, từ chối và đòi ông
ta đầu hàng. Kết quả là vào lúc này Venezuela đang có hai tổng thống kình địch
nhau. Phải hiểu rằng có một cái gì đó đã thay đổi. Venezuela vừa quá xa vừa quá
lạ đối với Việt Nam nhưng chúng ta sẽ sai lầm lớn nếu không dành cho nó một
quan tâm đặc biệt.
Một lịch
sử ngắn và điên loạn
Venezuela mới trước đây không lâu còn là một đất nước
đầy hứa hẹn với một lãnh thổ rộng gần một triệu cây số vuông cho 34 triệu dân,
một khí hậu tốt, một bờ biển dài và đẹp và một trữ lượng dầu lửa lớn nhất thế
giới được ước lượng vào khoảng 300 tỷ thùng (ba-rin). Ngoài ra còn khí đốt và
nhiều mỏ khác, nhất là vàng. Đó đã có thể là một đất nước rất đáng mơ ước.
Nhưng trường hợp Venezuela, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác, một lần nữa
nhắc lại một cách hùng hồn rằng, ngay cả nếu có những điều kiện thiên nhiên rất
thuận lợi, người ta không thể xây dựng được một quốc gia thịnh vượng và hạnh
phúc nếu không có tinh thần dân tộc, nghĩa là tình liên đới và ý muốn xây dựng
và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Venezuela là quốc gia đầu tiên giành được độc lập từ
tay người Tây Ban Nha. Chính tại Angostura (hiện nay là thành phố Ciudad
Bolivar) mà cách đây đúng 200 năm, vào ngày 15/02/1919, Simon Bolivar, một người
Venezuela nhưng được coi là anh hùng của tất cả các nước Nam Mỹ, đã triệu tập đại
hội tuyên bố độc lập cho Châu Mỹ La-tinh, để rồi nhờ tình trạng suy sụp của Tây
Ban Nha sau cuộc chiến của Napoleon I giành được độc lập cho Venezuela một năm
sau đó.
Dầu vậy, cũng như các nước Châu Mỹ La-tinh khác,
Venezuela không phải là một dân tộc đúng nghĩa. Nói chung đã chỉ có những người
thống trị thẳng tay bóc lột và người bị trị hừng hực căm thù sẵn sàng nổi loạn.
Đất nước Venezuela vì vậy liên tục quằn quại trong nghèo khổ, bạo lực và tội phạm.
Độc lập chỉ có nghĩa là những kẻ bóc lột Tây Ban Nha được thay thế bằng những kẻ
bóc lột bản xứ toa rập với các thế lực tài phiệt nước ngoài, chủ yếu là Mỹ. Nền
dân chủ hình thức chỉ bắt đầu từ 1958 để ngay sau đó trên thực tế nhường chỗ
cho một cho một chế độ độc tài quân phiệt đương đầu với các lực lượng cộng sản
võ trang trong một cuộc nội chiến kéo dài gần hai mươi năm. Nội chiến chỉ chấm
dứt khi quân cộng sản kiệt quệ và chấp nhận hạ vũ khí để tranh đấu bất bạo động
chứ không hề có hòa giải dân tộc.
Venezuela được hưởng mười năm tương đối yên bình cho
đến năm 1989, khi chính quyền Carlos Perez thực hiện cuộc cải tổ kinh tế hữu
khuynh do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) khuyến cáo. Cuộc cải tổ này về nguyên tắc
là đúng. Nó nhắm chấm dứt tình trạng cả nước chỉ sống nhờ xuất khẩu dầu lửa,
các cơ quan và công ty nhà nước đầy những công chức và công nhân chỉ lãnh lương
chứ không có việc làm, với hậu quả là khối nợ ngày càng phình ra. Tuy vậy ngay
cả một cải tổ đúng cũng cần được thực hiện một cách có bài bản và phù hợp với
hiện trạng xã hội. Chính quyền Perez đã không hiểu như vậy, họ áp đặt một cách
thô bạo và đàn áp thẳng tay khi bị chống đối. Hàng ngàn người đã bị giết trong
những cuộc biểu tình, hơn 3000 người riêng trong ba ngày đầu tháng 3-1989. Sự
thô bạo này càng khó hiểu vì đảng Hành Động Dân Chủ của Perez tự xưng là thuộc cánh
tả và chính tổng thống Carlos Perez lúc đó đang là phó chủ tịch của Quốc Tế Xã
Hội Chủ Nghĩa.
Không có gì hợp lý tại Châu Mỹ La-tinh, nhất là tại
Venezuela, các từ ngữ chẳng có nội dung chính xác nào. Tình hình kinh tế sau đó
có phần cải tiến, lôi kéo hàng trăm ngàn di dân từ các nước chung quanh, nhưng
tác dụng của cuộc cải tổ kinh tế này và các biện pháp đàn áp đẫm máu đi kèm đã
đẩy một phần lớn quần chúng về phía liên minh dân túy cực tả dưới danh xưng Cộng
Hòa Thứ Năm bao gồm Đảng Cộng Sản và các đảng cùng ý thức hệ Mác-Lênin. Cuối
cùng, năm 1999, lãnh tụ Hugo Chavez của liên minh này lên cầm quyền sau khi đắc
cử tổng thống trong một cuộc bầu cử dân chủ và lương thiện. Từ năm 2007 liên
minh này đổi tên thành Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất.
Hugo Chavez có thể được nhìn như một sản phẩm trung
thực của lịch sử hai thế kỷ lập quốc của Venezuela trong đó nét đậm rõ nhất là
sự thiếu vắng toàn diện của tư tưởng chính trị và tinh thần dân tộc. Xã hội gần
như chia làm hai thành phần, một giai cấp tư bản trục lợi gồm những người có
tài sản và bằng cấp từ các trường đại học Mỹ hoặc Tây Ban Nha nhưng thiếu cả tư
duy lẫn tâm hồn và chỉ có một mục đích là làm giầu tối đa và một quần chúng
nghèo khổ uất ức. Hugo Chavez đã thực sự muốn phục vụ quần chúng, chính vì thế
mà ông đã được ái mộ trong suốt thời gian cầm quyền (1999 – 2013) và ngay cả
sau khi đã chết.
Chavez là một
bằng chứng rằng một người cầm quyền ngu dốt càng có ý chí và dũng cảm bao nhiêu
càng tác hại bấy nhiêu. Lên cầm quyền trong một thời cơ thuận lợi –dầu lửa,
tài nguyên chính của Venezuela, tăng giá từ 20 USD lên 140 USD một ba-rin-
Chavez phung phí đến nỗi khiến Venezuela không giầu lên mà còn lụn bại và mắc nợ
thêm. Chavez đã trợ giúp người nghèo và giảm bất công xã hội một cách đáng kể,
ông cũng đã nâng cao chi phí về giáo dục, y tế, gia cư và hạ tầng cơ sở. Các biện
pháp xã hội này đã nâng cao mức sống lôi kéo thêm hàng trăm nghìn người khác đến
Venezuela từ các nước lân cận. Vấn đề là ông ta chỉ biết chi tiêu chứ không biết đầu tư và hoàn toàn
không có một kiến thức nào về quản trị quốc gia.
Chavez tăm tối đến mức coi chủ nghĩa Mac-Lênin như một
chân lý tuyệt đối dù bức tường Berlin đã sụp đổ từ hơn mười năm trước. Ngay khi
lên cầm quyền ông đã quốc hữu hóa tất cả các công ty có tầm vóc, bổ nhiệm vô số
tay chân và đồng đảng vào các chức vụ lãnh đạo dù họ không có khả năng và kinh
nghiệm chuyên môn nào. Quyền lực đã chỉ làm cho ông ta mê man mất trí và làm những
việc điên cuồng, như ra mặt tuyên chiến với Mỹ, dù chỉ bằng lời, coi Cuba, Nga
và Trung Quốc như những nước anh em. Không thể phủ nhận sự câu kết giữa các
công ty Mỹ và các chính quyền tham nhũng Venezuela trước đó nhưng cũng không thể
đồng hóa nước Mỹ với các công ty này và càng không thể vì thế mà chống Mỹ. Venezuela
vừa quá yếu vừa quá tùy thuộc vào Mỹ, chống Mỹ chẳng khác gì đập đầu vào vách
đá.
Một hành động điên rồ vào năm 2003 của Chavez đã làm
kinh tế Venezuela sụp đổ là quyết định sa thải tức khắc 30.000 (ba chục ngàn !)
kỹ sư và kỹ thuật viên của Công ty Dầu khí PDVSA khi họ biểu tình phản đối việc
bổ nhiệm các cấp lãnh đạo theo tiêu chuẩn chính trị. Kết quả là công ty PDVSA
suy sụp, sản xuất giảm từ 3,5 triệu ba-rin xuống còn không đầy một triệu ba-rin
mỗi ngày trong khi PDVSA là 96% xuất khẩu của Venezuela. Kết quả của 13 năm cầm
quyền của Hugo Chavez là, dù gặp thời cơ rất thuận lợi nhờ giá dầu tăng vọt, nền
kinh tế Venezuela đã gần như phá sản, nợ nước ngoài tăng từ 28 tỷ USD lên 130 tỷ
USD.
Venezuela phá sản thực sự ít lâu sau khi Hugo Chavez
chết và Nicolas Maduro lên thay năm 2013. Xuất thân là một vệ sĩ chuyên nghiệp
rồi tài xế xe buýt, Maduro là một tay anh chị chỉ được huấn luyện chính trị sơ
sài trong Đảng Cộng Sản Venezuela trước khi trở thành cộng sự viên thân tín của
Chavez. Maduro còn thiếu kiến thức hơn nhiều so với Chavez, lại không có tài
hùng biện và sức thu hút của Chavez, nhưng thô bạo hơn hẳn. Việc ông ta đắc cử
tổng thống năm 2013, với 50,6%, bị tố giác là gian lận.
Sau đó Maduro nhanh chóng kéo Venezuela xuống địa ngục.
Trước sự phẫn nộ ngày càng lên cao Maduro đã chỉ biết phản ứng như một tay côn
đồ vô học, bất chấp cả sinh mạng người dân lẫn hiến pháp và luật pháp. Cuối năm
2015, sau khi đối lập dân chủ giành được đa số quá 2/3 trong quốc hội, Maduro
ngang ngược cho Tòa Án Tối Cao mà ông ta mua chuộc được tuyên bố tước quyền của
Quốc hội. Hành động này làm cả nhân dân Venezuela lẫn thế giới phải kinh ngạc
vì sự vô lý của nó khiến sau cùng Maduro phải rút lại. Tuy vậy Maduro cũng vẫn
ngang ngược cho bầu ra một "Quốc hội lập hiến" khác sau một cuộc bầu
cử gian trá một cách lố lăng. Hiện nay không còn ai nói đến cái quốc hội lập hiến
này nữa.
Tháng 5/2018 Maduro bất chấp luật pháp đột ngột tổ
chức bầu cử tổng thống bẩy tháng trước hạn kỳ chính thức, liên minh đối lập
không kịp trở tay đã kêu gọi tẩy chay. Đã chỉ có không tới 33% cử tri tham gia
cuộc bầu cử tổng thống này, một số đông vì sợ bị sách nhiễu, nhưng Maduro cũng
chỉ được 67,6%. Cuộc bầu cử này bị Quốc hội Venezuela và đa số các nước trên thế
giới phủ nhận. Maduro không còn chính danh nữa.
Những số liệu kinh tế và xã hội thật kinh khủng : lạm
phát năm 2018 được ước lượng là 10.000.000%, nghĩa là đồng Bolivar mất hết giá
trị ; 90% người Venezuela sống dưới mức nghèo, 50% dưới mức nghèo khổ cùng cực
; tiền lương tháng của công nhân chỉ còn tương đương với 6 USD và chưa đủ để sống
một ngày ; trọng lượng trung bình của một người Venezuela giảm 7 kg so với hai
năm trước vì thiếu ăn ; 5% dân chúng chết vì cướp bóc, đói và thiếu thuốc ;
hàng ngàn người bị giết trong những cuộc biểu tình phản đối chính quyền ; khoảng
ba triệu người Venezuela phải tỵ nạn sang các nước bên cạnh vì lý do thực phẩm.
Maduro cáo buộc Mỹ và các đồng minh đã gây ra thảm
trạng này bằng những biện pháp trừng phạt và cô lập. Điều này có phần đúng
nhưng làm sao có thể trách Mỹ khi đã coi Mỹ là kẻ thù ? Vả lại, lý do chính của
thảm trạng này là do sự sụp đổ của các công ty, kể cả công ty dầu lửa PDVSA, do
Chavez và Maduro gây ra, khi họ bổ nhiệm vào vai trò lãnh đạo những đồng chí
không biết gì về quản trị xí nghiệp. Sự sụp đổ kinh tế của Venezuela cũng khá
giống như sự sụp đổ của kinh tế miền Nam Việt Nam say ngày 30/04/1975.
Năm 2019 đã bắt đầu với những cuộc biểu tình lớn của
một quần chúng không còn gì để mất, hưởng ứng lời kêu gọi của một đối lập dân
chủ mà trước đây đa số đã bất tín nhiệm. Dĩ nhiên Maduro đã ra lệnh cho quân đội
và cảnh sát đàn áp thẳng tay. Hơn ba mươi người đã bị giết. Chính trong thảm kịch
quốc gia này mà chủ tịch quốc hội Juan Guaido đã tự xưng làm tổng thống lâm thời
đồng thời tuyên bố Nicolas Maduro bất hợp pháp. Phản ứng của Maduro là cho quân
đội bắt Guaido và chuẩn bị đàn áp tiếp.
Tuy nhiên một điều rất không bình thường đã xẩy ra.
Vài giờ sau Guaido được thả ra và từ đó các cuộc biểu tình không bị đàn áp nữa.
Chắc chắn không phải vì Maduro bỗng nhiên hiền lành. Ngay chính các đồng minh
Nga và Trung Quốc cũng đã khuyến cáo ông ta thỏa hiệp thay vì đàn áp. Ông ta đã
hiểu là chính mình đang lâm nguy.
Một kế
hoạch lật đổ có chuẩn bị
Cho tới ngày 05/01/2019 trừ một số người Venezuela
không ai biết đến Juan Guaido, một dân biểu 35 tuổi mà thành tích duy nhất là
đã tham gia các cuộc biểu tình chống Chavez rồi Maduro. Hôm đó ông ta thình
lình được bầu làm chủ tịch quốc hội.
Khi nhìn lại các diễn biến người ta nhận ra là tất cả
đã được chuẩn bị. Ngày 10/01/2019, theo dự trù Maduro sẽ chấm dứt nhiệm kỳ tổng
thống thứ nhất và sẽ tuyên thệ nhận chức tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Ông ta
không thể tuyên thệ trước Quốc hội như hiến pháp Venezuela quy định bởi vì cuộc
bầu cử tổng thống tháng 5/2018 đã bị Quốc hội tuyên bố là vô giá trị và cũng bị
đa số các nước dân chủ đánh giá là gian lận. Ngay cả các đồng minh của Maduro
như Nga, Trung Quốc và Cuba cũng chỉ im lặng chứ không thể nói Maduro đã được bầu
một cách lương thiện. Maduro đã tuyên thệ nhận chức một cách dấm dúi trước tòa
án tối cao gồn toàn những thẩm phán chân tay của ông ta. Điều này có nghĩa là từ
ngày 10/01 Maduro không còn là tổng thống chính đáng và hợp pháp nữa.
Theo hiến pháp Venezuela thì khi không còn tổng thống
chủ tịch quốc hội sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ tổng thống với trách nhiệm tổ
chức cuộc bầu cử một tổng thống mới. Như thế chắc chắn sẽ có một cuộc đụng độ sống
còn giữa Quốc hội và Maduro, trong đó phương tiện duy nhất của Quốc hội là kêu
gọi dân chúng xuống đường vì quân đội và cảnh sát đang ở trong tay Maduro. Juan
Guaido được bầu làm chủ tịch năm ngày trước là để chuẩn bị cho cuộc đụng độ này
vì là một thanh niên dám và biết tổ chức biểu tình. Một lý do khác là đối lập dân
chủ Venezuela cũng cần một khuôn mặt mới bởi vì nhân sự chính trị cũ đã bị gắn
liền với bất tài và tham nhũng.
Những gì xẩy ra sau đó đã xác nhận kịch bản đối đầu
này và còn cho thấy là nó đã được chuẩn bị từ lâu một cách khá chu đáo. Juan
Guaido đã lập tức tổ chức các cuộc xuống đường sau ngày 10/01, Maduro đã phản ứng
dã man như thường lệ làm hơn ba mươi người chết. Ngày 20/01 một đơn vị quân đội
nổi dậy chống Maduro ngay tại thủ đô Caracas. Dù bị dẹp ngay sau đó cuộc nổi loạn
này cũng chứng tỏ rằng đã có cố gắng lôi kéo quân đội bỏ Maduro. Rồi ngày 23/01
Juan Guaido tuyên bố đảm nhận chúc vụ tổng thống lâm thời, đương nhiên đặt
Maduro ra ngoài pháp luật. Ngay lập tức Mỹ tuyên bố nhìn nhận chính quyền lâm
thời của Juan Guaido và sẵn sàng ủng hộ bằng tất cả mọi phương tiện, không loại
trừ can thiệp bằng quân sự. Tiếp theo là Canada và hầu hết các nước Châu Mỹ
La-tinh. Rồi đến hầu hết các nước Châu Âu. Tất cả như diễn ra theo một kịch bản
đã sắp đặt trước.
Kết quả
và hậu quả
Sự đào thải của chính quyền Maduro là điều chắc chắn.
Trước hết là vì chế độ Maduro phải cáo chung để đất
nước Venezuela có thể sống. Nó đã thất bại ngoài tất cả mọi tưởng tượng trên mọi
mặt và kéo nước Venezuela xuống địa ngục.
Sau đó là vì tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Phe Maduro có quân đội và công an với đầy đủ vũ khí
chống biểu tình tối tân mua của Nga và Trung Quốc. Vấn đề là họ khó có thể đàn
áp mà không gặp những phản ứng dữ dội của Mỹ và các nước láng giềng với hậu quả
là thảm bại nhanh chóng và ngay cả tính mạng của những người cầm đầu, kể cả
Maduro, sẽ rất mong manh. Các đồng minh của Maduro đều ở quá xa và không có cả
khả năng lẫn quyết tâm để bảo vệ Maduro. Nga là đồng minh tích cực nhất nhưng
ngay từ ngày 05/12/2018, gần hai tháng trước khi Juan Guaido tự phong tổng thống,
khi tiếp Maduro tại Moscow, tổng thống Nga Vladimir Putin đã công khai yêu cầu
Maduro tìm cách thỏa hiệp với đối lập. Nga đã quá kiệt quệ để có thể giúp
Maduro trong một cuộc đối đầu quân sự với Mỹ. Trung Quốc mạnh hơn Nga nhưng
cũng đang gặp khó khăn kinh tế nghiêm trọng và quá lệ thuộc vào thương mại với
Mỹ và Châu Âu để dám thách thức. Hơn nữa, từ ít nhất 5 năm nay, Venezuela đã trở
thành một gánh nặng cho cả Nga lẫn Trung Quốc. Lý do khiến Maduro đã không ra tay đàn áp là vì ông ta
không được Nga và Trung Quốc bật đèn xanh.
Theo các thăm dò dư luận, Maduro cũng vẫn còn được
khoảng 18% dân chúng ủng hộ, nhưng chính những người này cũng hiểu là không còn
hy vọng gì ở ông. Họ thù ghét cánh hữu hơn là gắn bó với Maduro. Còn quân đội
và công an ? Sự thật giản dị là khi một lực lượng phải đàn áp mà không thể đàn
áp nó sẽ không sớm thì muộn tự tan rã. Hơn nữa, trừ một số sĩ quan cao cấp, đa
số gia đình họ cũng lâm vào cảnh nghèo khổ, cũng là nạn nhân của chính quyền
Maduro.
Phe Guaido trái lại có ưu thế hơn hẳn. Hơn 80% người
Venezuela mong muốn một thay đổi chế độ và ủng hộ Guaida dù trong lòng không ưa
các chính quyền cánh hữu trong quá khứ. Có lẽ tranh thủ nhân tâm đã là một lý
do khiến liên minh cánh hữu chọn Guaido làm biểu tượng vì ông là một thanh niên
35 tuổi không dính líu với các chính quyền trong quá khứ.
Guaido thuộc đảng Ý Chí Nhân Dân (Voluntad Popular),
một đảng nhỏ thuộc khuynh hướng xã hội chỉ có 14/167 ghế trong quốc hội. Quốc hội
Venezuela là định chế duy nhất được bầu ra một cách lương thiện, Guaido thực ra
là một tổng thống lâm thời hợp pháp, được hơn 50 quốc gia nhìn nhận. Yếu tố quyết
định là sự hỗ trợ và bảo vệ tận tình của Mỹ và các nước láng giềng. Chiến lược
của các nước này là giúp Guaido mọi phương tiện để tranh thủ quần chúng và tổ
chức đội ngũ đồng thời phong tỏa Venezuela cho đến khi chính quân đội và công
an cảm thấy không còn lối thoát và quay lưng lại với Maduro. Trong khi chờ đợi
dùng viện trợ nhân đạo để lố bịch hóa và vô hiệu hóa Maduro.
Hai bên đã có cuộc thử sức đầu tiên ngày 12/02 vừa
qua. Cả hai bên đều biểu tình. Theo báo chí, phe Maduro tập trung được khoảng
mười ngàn người ở trung tâm thủ đô Caracas trong khi phe Guaido động viên được
cả trăm ngàn người tại nhiều thành phố lớn. Hậu thuẫn quần chúng của Guaido hơn
hẳn Maduro nhưng chưa đủ. Đáng lẽ trong một tình trạng bi đát như thế phải có
vài triệu người xuống đường. Guaido đã không động viên được quần chúng như ông
và dư luận thế giới chờ đợi. Ông tuyên bố ngày ngày 23/02 sẽ giải tỏa biên giới
để các đoàn xe cứu trợ nhân đạo vào được Venezuela nhưng rồi quân đội vẫn theo
lệnh Maduro ngăn chặn được mà không gặp khó khăn nào đáng kể. Cũng như ngày
12/02, Guaido đã không động viên được quần chúng ở mức độ cần thiết để giải tỏa
tình thế.
Tại sao ? Lý do có một tên gọi : Donald
Trump.
Quần chúng Venezuela vốn đã không mặn mà gì với các
chính quyền cánh hữu trong quá khứ và họ đã ít nhiều đánh đồng Juan Guaido với
phe này. Tuy vậy họ cũng sẽ hưởng ứng lời kêu gọi xuống đường chống Maduro một
cách mạnh mẽ hơn hẳn nếu thấy thế giới ủng hộ một cách nồng nhiệt hơn. Quân đội
Venezuela cũng sẽ bỏ Maduro nếu thấy ông ta bị cả thế giới lên án. Nhưng thực tế
đã không như vậy.
Juan Guaido được hơn 50 nước thừa nhận nhưng không một
nước nào ủng hộ nhiệt tình. Lý do là vì kế hoạch lật đổ Maduro đã do Mỹ cùng chủ
động và Donald Trump đã thành công trong việc làm tê liệt liên minh giữa các nước
dân chủ và khiến cả thế giới dị ứng với Mỹ. Những gì Mỹ làm, ngay cả đúng như
trong trường hợp này, cũng không được hưởng ứng.
Nước Mỹ cô lập như chưa bao giờ thấy. Không chỉ cô lập
mà còn tê liệt vì chia rẽ nghiêm trọng giữa những người ủng hộ và những người
chống Trump. Vả lại chính quyền Trump đã ứng xử một cách quá thô vụng trong vụ
này. Tổng thống Trump, phó
tổng thống Pence, ngoại trưởng Pompeo và cố vấn an ninh Bolton đã chỉ biết đe dọa
Maduro và giải thích lý do can thiệp là vì Châu Mỹ La-tinh thuộc vùng ảnh hưởng
của Mỹ. Không một lời cho nhân dân và đất nước Venezuela. Thế giới và
người Venezuela dù muốn cũng không có lý do để phấn khởi. Kết quả là cuộc khủng
hoảng Venezuela đã không kết thúc nhanh chóng như đáng lẽ nó phải kết thúc. Nước
Mỹ sẽ không bao giờ nhìn thấy hết những tác hại của Donald Trump.
Dầu vậy tình trạng bế tắc dai dẳng này chỉ kéo dài sự
đau khổ của nhân dân Venezuela chứ không thay đổi được tình thế, kết cục vẫn là
sự đào thải của chế độ Maduro. Sau đó có thể dự đoán là Venezuela sẽ nhanh
chóng trở lại tình trạng bình thường, nghĩa là đạt tới một sinh hoạt tương tự
như các nước Nam Mỹ khác, trước khi bắt đầu hàn gắn những vết thương trầm trọng
mà hai mươi năm cầm quyền của Chavez và Maduro để lại. Tương lai của Venezuela
chắc chắn sẽ không đen tối vì những người sắp cầm quyền không thể nào không rút
ra những bài học đau đớn của giai đoạn vừa qua. Tuy vậy Venezuela sẽ chỉ thực sự
phục hồi để tận dụng được tài nguyên thiên nhiên của mình nếu những người lãnh
đạo mới biết thực hiện một chính sách hòa giải dân tộc thành thực và quả quyết.
Hậu quả
đối với thế giới sẽ quan trọng hơn nhiều, rất nhiều
Cả Nga và Trung Quốc, hai cột trụ của một "liên
minh quốc tế chống dân chủ" đều sẽ rất điêu đứng. Cả hai nước đều đã dồn rất
nhiều của cải vào Venezuela trong tham vọng thiết lập một đầu cầu tại Nam Mỹ.
Không ai biết chính xác Venezuela nợ hai nước này
bao nhiêu nhưng vào tháng 11/2017, vào lúc tình hình kinh tế Venezuela chưa đến
nỗi quá bi đát, công ty thẩm định tài chính Standard and Poor's, ước lượng số
tiền mà Trung Quốc đã cho vay là 56 tỷ USD. Nga theo con số chính thức đã cho
vay 8 tỷ USD nhưng con số thực sự chắc chắn phải cao hơn nhiều. Từ đó, trong
năm 2018, Nga và Trung Quốc đã cho Venezuela vay thêm ít nhất 7 tỷ USD.
Nhưng khoản cho vay không quan trọng bằng khoản đầu
tư của hai nước này, nhất là Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư vào tất cả các tài
nguyên thiên nhiên của Venezuela, nhất là dầu và khí, và cũng rất tích trong việc
xây dựng các kết cấu hạ tầng. Đầu tư vào dầu lửa của Venezuela là một cám dỗ lớn.
Việt Nam cũng đã tốn 8 tỷ USD trước khi bỏ cuộc. Trung Quốc chắc chắn phải đổ của
vào gấp vài chục lần, có khi cả trăm lần Việt Nam.
Sự sụp đổ của chế độ Maduro sẽ là bi kịch cho Nga và
Trung Quốc, bởi vì cả hai nước đã ủng hộ tận tình Chavez và Maduro và sẽ bị
chính quyền mới nhìn như đồng phạm của thảm kịch Venezuela. Chính quyền mới sẽ
không cần phủ nhận những cam kết của Chavez và Maduro, nhưng họ sẽ không dành
cho chúng một ưu tiên nào, và như thế là đủ vì thời gian là tất cả đối với hai
chính quyền tại Nga và Trung Quốc, cả hai đều đang sống những năm cuối cùng.
Thiệt hại tài chính của Nga, trên dưới 20 tỷ USD,
tuy tự nó không lớn nhưng quan trọng đối với một nền kinh tế mà GDP chỉ là
1.400 tỷ USD lại đang ôm một khối nợ công tương đương và hơn nữa còn đang bị
phong tỏa vì vi phạm công pháp quốc tế. Vấn đề của Nga không phải là thể chế vì
Nga có một hiến pháp dân chủ mà là Putin. Putin dựa vào những thành tích chinh
phục bên ngoài như sáp nhập bán đảo Crimea, chiếm một phần lãnh thổ của
Ukraine, chiến thắng Syria v.v. để vi phạm hiến pháp và áp đặt một chế độ độc
tài cá nhân. Putin đã đầu tư vào Venezuela trong một cố gắng mở rộng ảnh hưởng
của Nga. Sự sụp đổ của chế độ Venezuela sẽ chấm dứt mọi ảnh hưởng Nga tại Châu
Mỹ và là sẽ một thất bại chiến lược lớn làm sụp đổ thần tượng Putin, nền tảng của
chế độ.
Hậu quả đối với Trung Quốc còn bi thảm hơn. Thiệt hại
tài chính rất nặng vào giữa lúc những khó khăn kinh tế đang dồn dập xuất hiện,
lố bịch hóa những con số tăng trưởng giả tạo của chính quyền Tập Cận Bình. Khủng
hoảng kinh tế đã rất gần và Venezuela sẽ là một thảm bại khiến nó càng gần hơn,
thậm chí khởi động sự sụp đổ kinh tế. Nhưng không phải chỉ có thế. Các lãnh tụ
Trung Quốc đều đồng ý rằng từ khi Đặng Tiểu Bình thi hành chủ trương "kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" sự sống còn của chế độ cộng sản
dựa trên một tăng trưởng kinh tế mạnh. Khủng hoảng kinh tế đồng nghĩa với sự sụp
đổ của chế độ và sau đó sự tan vỡ của chính Trung Quốc vì chủ nghĩa cộng sản
đang là xi măng thay thế Khổng Giáo gắn liền các vùng của Trung Quốc.
Venezuela cũng sẽ không giúp gì được cho Donald
Trump. Ngược lại nó còn phơi bày sự thực là ông đã làm nước Mỹ cô lập và yếu đi
đến nỗi không giải quyết gọn nhẹ được một vấn đề đáng lẽ đã có thể giải quyết dễ
dàng và nhanh chóng. Việc Donald Trump tái cử nhiệm kỳ hai không còn đặt ra nữa.
Ông sẽ thảm bại, trừ khi bị truy tố và bãi chức trước.
Hai nhận
định nền tảng
Hai nhận định lớn có thể, nên và cần được nắm chắc từ
những gì đã, đang và sẽ xẩy ra tại Venezuela.
Một là, làn sóng dân chủ vẫn tiếp tục tràn tới. Từ mấy
năm gần đây dân chủ có vẻ bị đe dọa. Phong trào dân túy trỗi dậy khắp nơi, các
chế độ độc tài lộng hành gần như vô tội vạ, Trung Quốc bành trướng ra khắp thế
giới, Putin sáp nhập Crimea và chiến thắng tại Syria v.v. Nhưng rồi sự sụp đổ của
một chế độ nhỏ, chế độ Maduro, đảo ngược tất cả. Chế độ cộng sản Trung Quốc và
chế độ độc tài Putin tại Nga bắt đầu giai đoạn cáo chung. Làn sóng dân chủ thứ
tư, mà logic cốt lõi là dứt điểm các chế độ độc tài còn lại, sẽ mạnh lên và đạt
tới cao điểm trong tương lai gần. Không phải vì Venezuela quá quan trọng mà vì
một lý do nền tảng hơn nhiều.
Đó là vì loài người đã tiến vào một kỷ nguyên mới
trong cuộc hành trình về tự do. Các xã hội đã trở thành mạnh hơn các chính quyền.
Không còn một chế độ độc tài nào, dù chủ trương toàn trị hung hăng tới đâu, có
thể kiểm soát được toàn bộ và áp đặt được hướng đi của một xã hội và một dân tộc
nữa. Dù có thể bị cản trở, các xã hội sau cùng vẫn tiến tới theo hướng khiến
con người ngày càng tự do hơn và được kính trọng hơn, nghĩa là các quốc gia
ngày càng dân chủ hơn. Chống lại dân chủ chỉ có nghĩa là mù quáng chọn sự đào
thải chắc chắn. Mọi chế độ độc tài xét cho cùng đều là một cuộc nội chiến giữa
một nhóm người cầm quyền và một xã hội. Điều mới trong lịch sử thế giới là từ
nay xã hội mạnh hơn.
Hai là, Venezuela là một nước rất được thiên nhiên
ưu đãi, có khả năng khiến mọi người đều giầu có nhưng đã chỉ quằn quại trong độc
tài, áp bức, bạo loạn, nội chiến và nghèo khổ vì thiếu tinh thần dân tộc và đồng
thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, điều mà chỉ có một tư tưởng
chính trị lành mạnh mới có thể đem đến. Tư tưởng chính trị là thuốc phòng chống
và chữa bệnh điên của xã hội. Một dân tộc không có tư tưởng chính trị chắc chắn
sẽ điên, sẽ chia rẽ và xung đột để đi từ tai họa này đến thảm kịch khác, như một
con tầu không la bàn, không đụng vào đá ngầm thì cũng đâm vào băng đảo. Mỹ đã
hơn hẳn các nước Châu Mỹ La-tinh -dù được thành lập cùng một lúc ở cùng một
trình độ- nhờ đã có hoặc đã biết thu nhận tư tưởng dân chủ của những Locke,
Jefferson, Stuart Mills, De Tocqueville, James v.v.
Từ hai nhận định rất quan trọng đó người Việt Nam chúng
ta có thể rút ra kết luận nào cho đất nước mình ?
Trước hết là niềm tin sắt đá rằng chúng ta nhất định
sẽ có dân chủ trong một tương lai gần. Đảng cộng sản sẽ chỉ có một chọn lựa là
tích cực tham gia vào tiến trình dân chủ hóa để làm tác nhân thay vì nạn nhân của
lịch sử. Sau đó là cần chuẩn bị cho hạn kỳ đó vì dân chủ chỉ là điều kiện cần
chứ không phải là điều kiện đủ để xây dựng một đất nước Việt Nam mà mọi người
Việt Nam có thể yêu và tự hào. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và
những con người mà chúng ta cần có.
Chuẩn bị nền tảng nhất là một tư tưởng chính trị mà
trí thức Việt Nam cần có, nhưng rất đáng tiếc là vẫn chưa có, để đảm nhiệm vai
trò hướng dẫn dân tộc trong cuộc hành trình về tương lai.
Nguyễn
Gia Kiểng
(26/02/2019)
No comments:
Post a Comment