11/02/2019
Trong những ngày đầu xuân Kỷ Hợi, tôi mang cuốn sách
‘21 bài học cho Thế kỷ 21’ ra đọc. Cuốn sách hơn 350 trang của cây viết có tiếng
Yuval Noah Harari đưa ra nhiều dự đoán về cuộc cách mạng công nghệ trong thế kỷ
này và ảnh hưởng của nó tới loài người. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin
điểm bảy bài học chính của cuốn sách.
Yuval Noah Harari tại một cuộc phỏng vấn tại Berlin. (Hình: Daniel Naber
/ commons.wikimedia.org/wiki/File:Yuval_Noah_Harari.jpg)
Harari, tác giả cuốn sách đã được dịch sang tiếng Việt
‘Sapiens: Lược sử Loài Người’, mở đầu với tuyên bố điều tưởng như đã là dấu chấm
hết của lịch sử thực ra đã chỉ là dấu ba chấm. Người ta đã ngỡ rằng câu chuyện
dân chủ tự do đã thắng thế sau khi chủ nghĩa cộng sản phá sản và chủ nghĩa phát
xít đã thất bại từ nhiều thập niên về trước.
Harari nói con ‘phượng hoàng tự do’ từng lâm nguy
trong thập niên 1930 và 1940 khi Hitler giành hết thắng lợi này tới thắng lợi
khác. Nó cũng gặp sự canh tranh mạnh mẽ của phe cộng sản cho tới khi Liên Xô sụp
đổ hồi đầu thập niên 1990.
Tác giả cho rằng
một trong những lý do nhiều nước về hùa với Moscow và Bắc Kinh trong nhiều chục
năm chính là tiêu chuẩn kép của phương Tây. Đây là một trong
những ví dụ được đưa ra: “[K]hi Hà Lan trỗi
dậy vào năm 1945 sau năm năm chịu sự chiếm đóng tàn bạo của Phát xít, gần như
điều đầu tiên họ làm là lập quân đội và đưa quân nửa vòng thế giới tới tái chiếm
thuộc địa cũ của họ, Indonesia. Trong khi vào năm 1940 người Hà Lan từ bỏ sự độc
lập của họ chỉ sau hơn bốn ngày giao tranh [với quân của Hitler], họ lại chiến
đấu cay đắng trong hơn bốn năm để trấn áp [mong muốn] độc lập của Indonesia.”
Nhưng trong những năm 1990, mọi chuyện đã thay đổi
và dường như nhân loại chỉ còn một lựa chọn duy nhất đó là “dân chủ, nhân quyền,
thị trường tự do và phúc lợi xã hội do chính phủ [cung cấp]”. Mặc dù vậy lựa chọn
này đã bị ngờ vực sau cuộc khủng hoảng tài chính hồi năm 2008 và chuyện Tổng thống
Trump lên cầm quyền tại Hoa Kỳ cũng làm cho sự ngờ vực này càng lớn thêm. Hoa Kỳ
không còn là thế lực thúc đẩy các giá trị dân chủ, nhân quyền và thị trường tự
do như trước nữa, Liên minh châu Âu EU chưa đủ sức thay thế trong khi các giá
trị của Nga và Trung Quốc không hấp dẫn được ai. Thế giới bỗng quay trở lại thời
chẳng có câu chuyện nào thuyết phục được đông đảo người dân trên hành tinh này
nữa. Harari viết thêm rằng Nga thực ra là một trong những nước bất bình đẳng nhất
thế giới với 87 phần trăm tài sản tập trung trong tay của 10 phần trăm dân giàu
nhất.
“Con người bỏ phiếu bằng chân. Khi đi vòng quanh thế giới tôi gặp rất nhiều
người từ nhiều nước muốn tới Hoa Kỳ, Đức, Canada hay Australia. Tôi gặp vài người
muốn tới Trung Quốc hay Nhật Bản. Nhưng tôi chưa gặp ai mơ di cư tới Nga,” tác giả viết.
Bài học thứ
hai tác giả nói tới là mọi ngành nghề trên thế giới sẽ đều chịu tác động của
trí tuệ nhân tạo và người máy. Máy móc từ chỗ chỉ cạnh tranh
với con người trong những lĩnh vực liên quan tới lao động chân tay giờ đang tiến
tới cạnh tranh với ông chủ của chúng trong cả lĩnh vực lao động trí óc. Harari
nói tự động hoá sẽ gây chấn động đối với hệ thống tư bản nhưng chủ nghĩa cộng sản
cũng sẽ chẳng lợi lộc gì từ cuộc khủng hoảng do trí khôn nhân tạo gây ra.
“Kế hoạch chính trị cộng sản kêu gọi cuộc cách mạng của giai cấp công
nhân. Nhưng học thuyết này liệu còn ý nghĩa gì khi quần chúng mất giá trị kinh
tế và phải chống chọi với sự vô dụng thay vì với sự bóc lột? Làm sao có thể bắt
đầu cuộc cách mạng của giai cấp công nhân khi không có giai cấp công nhân?”
Bài học thứ
ba được nêu ra là cơ hội và hiểm hoạ mà sự lên ngôi của thuật toán mang lại cho
loài người. Cho tới nay con người vẫn được cho là có “ý nguyện
tự do” và điều này được tôn trọng khi tất cả mọi người đều được quyền bỏ phiếu
cho dù trình độ học vấn của mỗi người mỗi khác. Bầu cử hay trưng cầu dân ý được
hiểu là phép thử cảm xúc của dân chúng thay vì đánh giá trình độ của họ. Harari
cho rằng với sự phát triển của thuật toán và sự kết hợp của công nghệ sinh học
và công nghệ thông tin, chẳng mấy chốc máy móc sẽ hiểu con người hơn cả con người
hiểu cảm xúc của chính mình.
“Điều này đã đang diễn ra trong lĩnh vực y khoa. Những quyết định y khoa
quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta không dựa trên cảm giác ốm yếu hay
mạnh khoẻ, hay ngay cả các chẩn đoán của các bác sỹ, mà vào tính toán của máy
tính vốn hiểu cơ thể của chúng ta hơn cả chúng ta. Trong vài thập niên tới, thuật
toán Đại Dữ liệu với sự hỗ trợ của dòng dữ liệu sinh học liên tục có thể theo
dõi sức khoẻ của chúng ta 24/7.”
Đó là một trong những cơ hội. Hiểm hoạ có thể là sự
đột nhập “hệ điều hành con người” của chính phủ và các công ty nhằm tuyên truyền
và quảng cáo. “[N]gay cả trong những xã hội
được cho là tự do, thuật toán vẫn có thể có uy quyền vì qua kinh nghiệm chúng
ta sẽ học cách tin vào chúng trong ngày càng nhiều vấn đề và sẽ dần mất đi khả
năng tự đưa ra quyết định. Hãy nghĩ về cách mà chỉ trong hai thập niên hàng tỷ
người đã đặt niềm tin vào thuật toán tìm kiếm của Google khi [thực hiện] một
trong những việc quan trọng nhất: tìm kiếm thông tin đáng tin cậy và phù hợp.”
Tác giả cũng nêu khả năng các máy tính với trí tuệ
nhân tạo sẽ hợp tác với các nhà độc tài và được sai khiến để theo dõi hay thậm
chí kết liễu tính mạng của con người mà chúng chẳng hề thấy cắn rứt lương tâm,
thứ mà chúng không có.
Bài học thứ
tư là điều mà nhiều người đã dần nhận ra khi sử dụng các dịch vụ của Google,
Facebook hay Baidu – chúng ta không phải là khách hàng mà là sản phẩm. Harari chỉ ra rằng mô hình kinh doanh của các công ty này cho tới giờ
là “buôn sự chú ý” của chúng ta và khách hàng của họ là các công ty quảng cáo.
Nhưng trong tương lai có thể ngành quảng cáo cũng không còn nữa vì chúng ta đâu
còn ra quyết định. Thuật toán sẽ quyết hộ chúng ta mọi thứ. Con người và máy
tính cũng có thể cộng sinh tới mức mà nếu tách khỏi máy tính, con người sẽ
không còn vận hành được nữa. Viết tới đây trong đầu tôi không hiểu sao bỗng nhớ
tới câu hát “nếu phải cách xa em [máy tính] anh chỉ còn bão tố”.
Bài học thứ
năm là sự gắn kết giữa cộng đồng trên mạng và ngoài xã hội. Harari cho rằng mỗi người chúng ta có lẽ khó có khả năng kết thân với
hơn 150 người. “Qua một ngưỡng nhất định,
thời gian và năng lượng quý vị bỏ ra để biết các bạn trực tuyến từ Iran hay
Nigeria sẽ lấy đi khả năng hiểu biết những người hàng xóm cạnh nhà bạn,”
Harari viết. Ông cũng hy vọng Facebook sẽ chú trọng tới việc phát triển các cộng
đồng không chỉ trên mạng xã hội của họ mà cả ngoài đời thực. Điều này sẽ khiến
cho các hoạt động xã hội không bị tê liệt nếu Facebook không may bị các chính
quyền độc tài ngăn chặn. “[Facebook] và
các gã khổng lồ trực tuyến khác thường xem con người như động vật nghe nhìn – một
đôi mắt và một đôi tai kết nối với 10 ngón tay, một màn hình và một thẻ tín dụng.
Bước quan trọng tiến tới đoàn kết nhân loại là ý thức rằng con người có cơ thể
[và cơ thể không chỉ ngồi một chỗ trên không gian ảo mà có thể di chuyển và kết
nối với nhau ngoài đời thực].”
Bài học thứ
sáu là lòng yêu nước xuất phát từ tinh thần dân tộc sẽ mang lại những điều tốt
đẹp nhưng sự kiêu căng xuất phát từ niềm tin ta là nước ưu việt có thể mang đến
hiểm hoạ bạo lực. Harari cũng nhắc con người nhớ rằng loài người từng
tồn tại “hàng trăm ngàn năm” trong những nhóm nhỏ chỉ vài chục người và sự đòi
hỏi lòng trung thành của mỗi người với cả triệu người mà họ không quen biết mới
chỉ tồn tại từ vài ngàn năm trở lại đây.
Sự tụ họp thành những nhóm khổng lồ khiến người ta
có thể làm được những việc vô cùng lớn lao mà cộng đồng nhỏ khó lòng làm được
nhưng nó cũng có thể gây ra những cuộc đại chiến. Bởi vậy sẽ là lý tưởng nếu
nhân loại nhìn nhận mình như thành viên của một nền văn minh duy nhất và cùng
nhau giải quyết các vấn đề phát sinh mà không quan ngại tới ranh giới quốc gia.
Một trong những vấn đề đó là tình trạng thay đổi
khí hậu do việc khai thác và sử dụng thái quá nhiên liệu hoá thạch của con người.
Bài học thứ bảy
là đừng có phát hoảng vì khủng bố. Harari viết rằng
khủng bố có khả năng kiểm soát tinh thần của chúng ta rất tốt dù trên thực tế
chúng giết rất ít người. “Kể từ ngày
11/9/2001, mỗi năm khủng bố giết khoảng 50 người ở Liên minh châu Âu, 10 người ở
Hoa Kỳ, khoảng bảy người ở Trung Quốc, và chừng 25.000 người trên toàn cầu (chủ
yếu ở Iraq, Afghanistan, Pakistan, Nigeria và Syria). Trong khi đó, mỗi năm tai
nạn giao thông làm thiệt mạng 80.000 người châu Âu, 40.000 người Hoa Kỳ,
270.000 người Trung Quốc và 1,25 triệu người [trên toàn thế giới]. Tiểu đường
và mức [tiêu thụ] đường cao làm chết 3,5 triệu người mỗi năm trong khi ô nhiễm
không khí làm bảy triệu người chết.”
Lý do người ta lo sợ khủng bố hơn những thứ gây chết
chóc hơn rất nhiều chính là khả năng reo rắc nỗi sợ của chúng. Khủng bố hầu hết
không gây hư hại gì cho đối thủ của chúng về khả năng quân sự và đó cũng không
phải mục đích của chúng. Khủng bố mong muốn đối thủ phản ứng thái quá và do vậy
gây ra “cơn bão chính trị và bạo lực quân sự” lớn hơn nhiều so với những gì khủng
bố có thể tự chúng gây ra.
Harari nói những kẻ khủng bố không tư duy như các vị
tướng quân đội mà như những nhà “biên đạo kịch”. “Giống như những kẻ khủng bố, những người chống khủng bố cũng phải suy
nghĩ như các biên đạo kịch… Trên hết, nếu chúng ta muốn chống khủng bố một cách
hữu hiệu, chúng ta phải nhận ra rằng không điều gì những kẻ khủng bố làm có thể
đánh bại chúng ta. Chúng ta là những người duy nhất có thể đánh bại chúng ta nếu
chúng ta phản ứng thái quá theo cách không đúng đối với sự khiêu khích của khủng
bố.”
Điều này cũng đúng với sự khủng bố tinh thần của các
chính thể cộng sản. Họ chẳng đánh đập hay bỏ tù quá nhiều người so với hàng chục
triệu hay cả tỷ dân chúng, nhưng cả triệu hay ngàn triệu người dân lại có phản ứng
sợ hãi thái quá và ngoan ngoãn tự biến mình thành những con cừu dễ bảo. Hy vọng
hơn một phần năm nhân loại đang sống dưới các chế độ tự nhận là cộng sản sớm sử
dụng ý nguyện tự do của họ trước khi thuật toán tước đoạt mất ngay cả điều được
coi là thiêng liêng của loài người cho tới ngày hôm nay.
No comments:
Post a Comment