Những lợi thế và hạn
chế của drone trên chiến trường
Michael C. Horowitz, Lauren A. Kahn, và Joshua A. Schwartz - oreign Affairs
Viên
Đăng Huy,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/07/09/nhung-loi-the-va-han-che-cua-drone-tren-chien-truong/
Trong
vòng hai tuần của tháng 6, lực lượng vũ trang Ukraine và Israel đã thực hiện
hai trong số những chiến dịch táo bạo nhất trong lịch sử quân sự gần đây. Vào
ngày 1 tháng 6, Ukraine đã sử dụng hàng trăm máy bay không người lái (drone) được
đưa sâu vào lãnh thổ Nga để gây hư hại đáng kể hoặc phá hủy ít nhất 11 máy bay
ném bom chiến lược của Nga trong khuôn khổ Chiến dịch Mạng Nhện (Operation
Spider’s Web). Sau đó, bắt đầu từ ngày 13 tháng 6, trong Chiến dịch Sư Tử Trỗi
Dậy (Operation Rising Lion), Israel đã sử dụng drone được buôn lậu từng bộ phận
vào Iran để phá hủy hệ thống phòng không của Iran, giúp Israel giành quyền kiểm
soát hoàn toàn không phận Iran. Trong mỗi trường hợp, những chiếc drone có giá
không quá vài nghìn USD mỗi chiếc đã có thể xóa sổ hàng chục hoặc thậm chí hàng
trăm triệu USD giá trị của các hệ thống vũ khí tiên tiến không thể dễ dàng thay
thế.
Hai
thành công chiến thuật đáng kinh ngạc này báo trước một sự thay đổi rộng lớn
hơn trong cách tiến hành chiến tranh. Cả Ukraine và Israel vẫn tiếp tục dựa vào
các hệ thống vũ khí truyền thống, đắt tiền, và đặc biệt là thành công của
Israel ở Iran đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi các máy bay chiến đấu có người lái.
Nhưng đối với các quân đội hiện đại, các hệ thống vũ khí không người lái — ngày
càng được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo — đang trở nên quan trọng để đạt được
thành công trên chiến trường. Điều này không có gì ngạc nhiên: theo các quan chức
Ukraine, drone tấn công một chiều hiện chịu trách nhiệm cho 70% số thương vong
tiền tuyến trong cuộc chiến giữa Nga và Ukraine. Năm 2024, Eric Schmidt, Chủ tịch
Ủy ban An ninh Quốc gia Mỹ về Trí tuệ Nhân tạo và cựu CEO của Google, lập luận
rằng sự gia tăng của drone giá rẻ đã khiến các công nghệ cũ như xe tăng trở nên
“vô dụng” và khuyên Mỹ nên “cho chúng đi” và mua drone thay thế. Trong các bài
đăng trên X vào năm 2024, Elon Musk cho rằng “những kẻ ngốc vẫn đang chế tạo
máy bay chiến đấu có người lái như F-35” và nói rằng “các cuộc chiến tranh
trong tương lai đều là về drone”.
Mặc
dù có sự đồng thuận ngày càng tăng này, Bộ Quốc phòng Mỹ vẫn dành phần lớn ngân
sách của mình cho các hệ thống vũ khí cũ đắt tiền. Chiến dịch Búa Đêm — cuộc tấn
công của Mỹ vào các địa điểm hạt nhân của Iran vào ngày 22 tháng 6 liên quan đến
hơn 125 máy bay của Mỹ, bao gồm 7 máy bay ném bom B-2 — cho thấy các hệ thống
vũ khí đắt tiền, có người lái vẫn có vai trò quan trọng trên chiến trường.
Nhưng khi chiến tranh hiện đại phát triển, quân đội mạnh nhất thế giới cũng phải
thay đổi. Lầu Năm Góc chi hàng chục tỷ USD hàng năm để duy trì và nâng cấp các
tàu sân bay, F-35 và xe tăng. Nhưng họ chỉ đầu tư 500 triệu USD vào drone chi
phí thấp thông qua vòng đầu tiên của Sáng kiến Replicator nổi bật vào năm 2023. Mặc dù Sáng
kiến Replicator là một bước khởi đầu tốt, nhưng khoản đầu tư của Mỹ vào các loại
drone giá rẻ cần thiết cho một cuộc chiến tranh hiện đại, cường độ cao vẫn còn
quá ít, ít nhất là thua kém một bậc so với nhu cầu thực tế.
Chuyển
đổi sang mô hình lực lượng kết hợp “chất lượng – số lượng” – tức là sử dụng số
lượng lớn các trang bị giá rẻ đi đôi với số ít các nền tảng và vũ khí đắt tiền
– sẽ không hề dễ dàng. Sau nhiều thập kỷ tập trung gần như độc quyền vào việc
xây dựng một quân đội gồm một số lượng nhỏ các hệ thống tiên tiến, Mỹ phải bù đắp
thời gian đã mất và đầu tư, phát triển khả năng triển khai số lượng lớn các hệ
thống không người lái rẻ nhưng chính xác, hay còn gọi là khả năng “số lượng
chính xác” (precise mass). Họ cũng phải tích hợp thế hệ khả năng mới này với
các hệ thống cũ hiện có để có thể hoạt động hiệu quả hơn theo những cách sáng tạo.
Nếu Lầu Năm Góc không điều chỉnh theo thực tế mới của chiến tranh, họ sẽ mất khả
năng răn đe hành động gây hấn của đối thủ trước khi nó xảy ra — và có lẽ là khả
năng giành chiến thắng trong các cuộc chiến.
Thích
ứng hoặc chết
Các
chiến dịch của Ukraine và Israel cho thấy các cuộc tấn công số lượng chính xác
có thể có hiệu quả tàn khốc, ngay cả đối với các đối thủ tinh vi. Trong Chiến dịch
Mạng Nhện, Ukraine đã sử dụng một số công nghệ mới nổi. Một là hệ thống lái tự
động mã nguồn mở cho phép drone của họ triển khai chế độ tự hành khi tín hiệu
giữa phi công và drone bị gây nhiễu hoặc yếu. Một cái khác là hệ thống nhắm mục
tiêu được hỗ trợ bởi AI được huấn luyện để xác định máy bay ném bom Nga dựa
trên các bản quét ba chiều của máy bay Nga và Liên Xô được lưu giữ trong các bộ
sưu tập bảo tàng hàng không Ukraine. Thành công của Chiến dịch Mạng Nhện — và
khả năng của Ukraine trong việc tuồn lậu hơn một trăm drone vào hơn 2.000 dặm
lãnh thổ Nga để chuẩn bị cho chiến dịch này — củng cố một xu hướng rõ ràng ngay
từ đầu cuộc xung đột: các nền tảng quân sự đắt tiền dễ bị tấn công hơn bao giờ
hết bởi vũ khí số lượng chính xác, đặc biệt là khi chúng được triển khai ngoài
trời ở sân bay hoặc cảng biển.
Chiến
dịch Sư Tử Trỗi Dậy của Israel chứng tỏ tính dễ bị tổn thương của các hệ thống
đắt tiền khác, chẳng hạn như hệ thống phòng không, trước các khả năng số lượng
chính xác giá rẻ, bất kể chúng ở sâu trong lãnh thổ của một quốc gia đến đâu. Rất
lâu trước khi cuộc tấn công giữa tháng 6 bắt đầu, các đặc vụ Israel đã tuồn lậu
các bộ phận drone vào Iran, sau đó ráp lại để tấn công các hệ thống phòng không
của Iran một cách nhanh chóng và không bị phát hiện.
Bằng
cách sử dụng các hệ thống vũ khí không người lái giá rẻ để thực hiện các cuộc tấn
công của mình, Ukraine và Israel cũng đã gây ra tổn thất rất lớn cho đối thủ của
họ. Mặc dù mức độ đầy đủ của tổn thất của Nga từ Chiến dịch Mạng Nhện vẫn chưa
rõ ràng, nhưng Ukraine tuyên bố đã phá hủy hơn 40 máy bay. 11 máy bay ném bom
Nga mà hình ảnh vệ tinh thương mại đã xác minh bị phá hủy hoặc hư hại nặng nề
đã có giá trị gấp hàng trăm lần so với các drone được sử dụng trong cuộc tấn
công. Ngay cả khi Nga chỉ mất một chiếc thuộc mỗi loại máy bay chiến đấu tiên
tiến mà Ukraine tuyên bố đã phá hủy, họ sẽ phải chịu tổn thất nặng nề. Ví dụ, một
chiếc máy bay cảnh báo sớm và kiểm soát trên không của Nga ước tính có giá 330
triệu USD, và một chiếc máy bay ném bom tầm xa của Nga có giá lên tới 270 triệu
USD. Ngược lại, mỗi chiếc drone bốn cánh của Ukraine có giá từ 600 đến 1.000
USD. Điều này có nghĩa là tổng chi phí cho toàn bộ khí tài được Ukraine sử dụng
trong chiến dịch Mạng Nhện có lẽ không quá 117.000 USD, một phần rất nhỏ so với
chi phí của một quả tên lửa Kh-101 được mang bởi một trong những máy bay ném
bom Nga bị phá hủy, và thậm chí còn thấp hơn giá của một tên lửa chống tăng
Javelin 200.000 USD/quả mà Mỹ đã cung cấp cho Ukraine.
Mặc
dù diễn ra trong các bối cảnh rất khác nhau, Chiến dịch Mạng Nhện và Sư Tử Trỗi
Dậy nhấn mạnh một động lực mới nổi trong chiến tranh hiện đại: quân đội quá phụ
thuộc vào các hệ thống cũ đắt tiền có thể gặp khó khăn trong các cuộc chiến
tranh tiêu hao kéo dài, và nếu các quốc gia giàu có không thích ứng, họ sẽ chỉ
có thể đủ khả năng mất một số lượng hữu hạn các hệ thống này trước khi chi phí
trở nên không bền vững về mặt tài chính hoặc chính trị.
Vũ
khí số lượng chính xác không chỉ rẻ hơn các vũ khí truyền thống, giúp ngay cả
các quân đội thiếu nguồn lực cũng có thể cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn.
Chúng cũng có thể được sản xuất nhanh hơn nhiều. Ukraine hiện đang sản xuất
hàng triệu drone mỗi năm, trong khi Nga sẽ mất nhiều năm để xây dựng lại lực lượng
máy bay ném bom đã bị suy yếu của mình. Khoảng cách về thời gian thay thế như vậy
có thể giúp cân bằng cuộc chơi hoặc thậm chí quyết định kết quả của một cuộc
xung đột kéo dài giữa một quốc gia đầu tư quá mức vào các hệ thống vũ khí cũ đắt
tiền, khó thay thế và một quốc gia có thể nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất
các hệ thống số lượng chính xác.
Ukraine
và Israel không phải là những quốc gia duy nhất đang khai thác những lợi thế
này. Đối thủ của họ cũng vậy. Moscow đã trả đũa Chiến dịch Mạng Nhện bằng một số
cuộc tấn công bằng drone lớn nhất trong cuộc chiến, gần như áp đảo hệ thống
phòng không vốn đã quá tải của Kyiv. Iran đã đáp trả các cuộc tấn công ban đầu
của Israel bằng cách phóng các đợt drone và tên lửa tương đối rẻ của riêng mình
chống lại các mục tiêu của Israel. Mặc dù hệ thống phòng không của Israel đã
đánh chặn hầu hết các cuộc tấn công này, nhưng phản ứng của Iran đủ hiệu quả để
gây lo ngại từ các quan chức Israel và Mỹ rằng Lực lượng Phòng vệ Israel có thể
hết tên lửa đánh chặn. Cuộc phản công cũng buộc Israel phải sử dụng máy bay chiến
đấu của mình để tiếp tục nhắm mục tiêu vào các địa điểm phóng của Iran trong suốt
cuộc chiến kéo dài 12 ngày khiến Israel tiêu tốn hàng trăm triệu USD mỗi ngày.
Triển
khai các vũ khí lớn
Ngay
cả khi drone chi phí thấp ngày càng trở nên quan trọng trên chiến trường, các
khả năng truyền thống, chẳng hạn như tàu ngầm tàng hình và máy bay chiến đấu và
máy bay ném bom, vẫn hữu ích, đặc biệt khi kết hợp với các hệ thống giá rẻ. Ví
dụ, Israel đã sử dụng drone tự sát vào ngày 13 tháng 6 để phá hủy hệ thống
phòng không của Iran, mở đường cho các máy bay chiến đấu tiên tiến của Israel
(và sau đó là của Mỹ) dễ dàng tiến vào không phận Iran, ném bom các cơ sở hạt
nhân nhạy cảm nhất và các mục tiêu chiến lược khác mà gần như không gặp phải sự
cản trở nào. Đáng chú ý, Iran đã không bắn một tên lửa đất đối không nào vào bất
kỳ máy bay nào của Mỹ, và chính phủ Israel tuyên bố rằng không có máy bay có
người lái nào của họ bị bắn hạ.
Việc
Israel sử dụng sớm các hệ thống vũ khí không người lái để làm suy yếu hệ thống
phòng không của Iran đã giảm thiểu rủi ro về tiền bạc và con người trong trường
hợp cuộc tấn công ban đầu thất bại và drone bị bắn hạ. Sau đó, khi bầu trời đã
được dọn sạch, Israel đã sử dụng máy bay có người lái của mình để tấn công các
mục tiêu như cơ sở hạt nhân Natanz với độ chính xác và khả năng tải bom vượt xa
khả năng của drone. Nga cũng đã kết hợp các hệ thống giá rẻ như drone
Shahed-136 với tên lửa tiên tiến để làm kiệt sức hoặc phá hủy hệ thống phòng
không và sau đó tấn công các mục tiêu giá trị cao.
Các
hệ thống vũ khí tàng hình truyền thống rất đắt tiền và mất nhiều thời gian để sản
xuất. Nhưng chúng có thể cực kỳ hiệu quả. Để làm suy giảm thành công các cơ sở
làm giàu uranium Fordow và Natanz được chôn sâu, Mỹ không chỉ phải sử dụng 14
quả bom xuyên phá khối lượng lớn 13,600 kg mà chỉ có họ mới sở hữu; họ còn phải
điều động bảy máy bay ném bom B-2 tàng hình trị giá 2 tỷ USD, chiếc máy bay duy
nhất trên thế giới được trang bị để mang và thả những quả bom như vậy. Với tất
cả những lợi thế của chúng, drone tấn công một chiều đơn giản là không thể mang
hơn 400.000 pound hỏa lực.
Đầu
tư độc quyền vào các hệ thống số lượng chính xác sẽ hạn chế các mục tiêu mà một
quân đội có khả năng phá hủy. Trên thực tế, quân đội Iran là minh chứng cho những
cạm bẫy của việc quá phụ thuộc vào các hệ thống vũ khí chi phí thấp như vậy.
Tehran có một trong những chương trình drone rộng lớn nhất thế giới, nhưng vì
thiếu một lực lượng không quân hiện đại, họ không thể tấn công thành công các mục
tiêu quân sự và dân sự được bảo vệ tốt của Israel và buộc Israel phải xem xét lại
kế hoạch chiến tranh của mình.
Chất
lượng và số lượng
Chiến
thắng của quân Đồng minh vào Ngày D-Day năm 1944 đòi hỏi sự kết hợp của hỏa lực
không quân, hải quân và pháo binh để làm suy yếu hệ thống phòng thủ của Đức Quốc
xã và dọn đường cho lực lượng mặt đất chiếm giữ và giữ vững lãnh thổ ở
Normandy. Chiến thắng đó đòi hỏi phải nắm vững công nghệ tiên tiến nhất của chiến
tranh liên hợp vũ khí vào thời điểm đó. Ngày nay, tác chiến với sự kết hợp giữa
các hệ thống chi phí thấp và cao cấp là chiến tranh liên hợp vũ khí mới.
Tổng
hợp lại, Chiến dịch Mạng Nhện, Sư Tử Trỗi Dậy và Búa Đêm cho thấy các quân đội
có nguồn lực tốt cần đầu tư vào cả hai loại khả năng để tăng cường khả năng răn
đe của họ. Khi Trung Quốc nhanh chóng hiện đại hóa quân đội của mình trên mọi
lĩnh vực, bao gồm cả số lượng chính xác, Mỹ đã đầu tư quá ít vào các hệ thống
“cấp thấp” có thể dễ dàng mua được với số lượng lớn và cập nhật khi cần thiết.
Khoản chi ban đầu 500 triệu USD của Sáng kiến Replicator chỉ chiếm 0,05% ngân sách quốc
phòng của Mỹ trong năm tài chính 2024.
Mỹ
có thể thoải mái chi gấp mười lần cho các khả năng số lượng chính xác — bao gồm
drone tự sát và nền tảng giám sát — so với số tiền họ đang chi bằng cách tái
phân bổ tiền đầu tư ở những nơi khác trong ngân sách khổng lồ của Lầu Năm Góc.
Lầu Năm Góc cũng có thể dễ dàng hiện thực hóa tầm nhìn về việc máy bay có người
lái và không người lái cùng tác chiến song song và họ cũng có thể mua số lượng
lớn các phương tiện hải quân mặt nước không người lái, tự hành, giá cả phải
chăng để tăng cường hỏa lực và khả năng giám sát trên biển. Nhưng ngay cả trong
kỷ nguyên mới của số lượng chính xác này, Lầu Năm Góc vẫn nên tiếp tục đầu tư
vào máy bay ném bom và tàu ngầm tàng hình khó tìm và phá hủy.
Trong
lịch sử, các quốc gia không thể thích ứng hiệu quả với những thay đổi trong bản
chất của chiến tranh ít có khả năng răn đe đối thủ của họ hơn và có nhiều khả
năng thua các cuộc chiến tranh trong tương lai. Lực lượng không quân Nhật Bản
đã phá hủy các tàu tuần dương Anh được cho là bất khả xâm phạm ở Thái Bình
Dương ngay từ đầu Thế chiến II. Trong Chiến tranh Trăm năm, Anh đã sử dụng trường
cung để kết thúc kỷ nguyên của hiệp sĩ cưỡi ngựa bằng cách đánh bại Pháp tại Trận
Crécy. Nếu Mỹ tiếp tục đầu tư không đủ vào số lượng chính xác để bổ sung cho
các khoản đầu tư truyền thống của mình, có lẽ họ sẽ không phải đối mặt với một
tình thế quá thảm khốc. Nhưng khả năng răn đe của họ có thể suy yếu dưới tay
các đối thủ tin rằng họ có thể làm suy yếu quyết tâm của Mỹ. Tuy nhiên, đồng thời,
Washington không nên bỏ qua các nền tảng và vũ khí tàng hình, cao cấp là nền tảng
của sức mạnh quân sự Mỹ và chỉ theo đuổi những công nghệ mới nhất, sáng bóng nhất
với hy vọng rằng chúng đại diện cho một viên đạn ma thuật. Chuẩn bị cho tương
lai chiến tranh chưa bao giờ có nghĩa là từ bỏ quá khứ. Nhưng nó đòi hỏi sự
linh hoạt mà Mỹ vẫn chưa thể hiện.
------------------------------
MICHAEL
C. HOROWITZ hiện
là Nghiên cứu viên cao cấp về Công nghệ và Đổi mới tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Ông từng là Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách Phát triển Lực lượng
và Năng lực Mới nổi.
LAUREN
A. KAHN là
Chuyên viên Phân tích Nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm An ninh và Công nghệ Mới
nổi thuộc Đại học Georgetown.
JOSHUA
A. SCHWARTZ là
Trợ lý Giáo sư về Quan hệ Quốc tế và Công nghệ Mới nổi tại Viện Chiến lược và
Công nghệ Carnegie Mellon.
Nguồn: Michael C. Horowitz, Lauren A. Kahn,
và Joshua A. Schwartz, “What Drones Can—and Cannot—Do on the
Battlefield”, Foreign
Affairs, 04/07/2025
No comments:
Post a Comment