Trung Quốc đã tự
trang bị vũ khí cho thương chiến như thế nào?
Zongyuan Zoe Liu
- Foreign
Affairs
Nguyễn
Thị Kim Phụng,
biên dịch
05/05/2025
Cách
tiếp cận rủi ro cao của Bắc Kinh trong cuộc đối đầu kinh tế với Washington.
Làm
thế nào mà hai nền kinh tế lớn nhất thế giới lại lao vào một cuộc thương chiến
mà không bên nào thực sự mong muốn và phần còn lại của thế giới thì không thể
gánh chịu nổi? Sau buổi lễ “Ngày giải phóng” của Tổng thống Mỹ Donald Trump vào
ngày 02/04, trong đó ông công bố các mức thuế khác nhau đối với tất cả các đối
tác thương mại của Washington, Mỹ và Trung Quốc đã phát động một số vòng leo
thang trả đũa, đẩy mức thuế quan giữa hai nước lên mức cao ngất ngưởng. Đến
ngày 11/04, mức thuế đối với hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ đã lên tới
145%, trong khi hàng hóa Mỹ nhập khẩu vào Trung Quốc bị đánh thuế 125%. Trừ phi
hai nước đưa ra các miễn trừ rộng rãi, thì 700 tỷ đô la thương mại song phương
hàng năm giữa họ có thể giảm tới 80% chỉ trong vòng hai năm tới. Các thị trường
đã phản ứng tiêu cực với cuộc thương chiến đang rình rập, trong khi nhiều nhà
kinh tế và nhà phân tích phải chật vật tìm cách giải thích những gì chính quyền
Trump đang cố gắng đạt được.
VIDEO
:
Trung Quốc
đã tự trang bị vũ khí cho thương chiến như thế nào?
https://www.youtube.com/watch?v=r4u9sbQj4zs
Cách
tốt nhất để hiểu được tình cảnh bế tắc hiện tại giữa Mỹ và Trung Quốc là xem nó
như sản phẩm của những giả định sai lầm và những bước đi sai lầm đến từ cả hai
bên. Về phía Trump, những nhân vật và phe phái quyền lực dưới quyền ông đã đánh
giá sai khả năng phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc và cho rằng nhà lãnh đạo
Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ vội vàng thực hiện một thỏa thuận để tránh phản ứng
dữ dội trong nước. Kết quả là, những người theo chủ nghĩa diều hâu chống Trung
Quốc ở Washington đã không lường trước được phản ứng kiên quyết của Bắc Kinh
trước mức thuế quan của Trump.
Trong
khi đó, tại Trung Quốc, việc thiếu đi sự khéo léo trong ngoại giao đã khiến nước
này giỏi thể hiện sự thách thức hơn là định hình kết quả. Bắc Kinh đã không giải
quyết được quan ngại chính đáng của nhiều người ở Mỹ và xa hơn nữa, rằng một
làn sóng hàng xuất khẩu giá rẻ mới sẽ tạo ra một “cú sốc Trung Quốc” thứ hai bằng
cách tiếp tục làm suy yếu cơ sở công nghiệp của các nền kinh tế khác. Và những
lời lẽ hiếu chiến – chẳng hạn như tuyên bố vào tháng 3 của Đại sứ quán Trung Quốc
tại Washington, rằng Trung Quốc “sẵn sàng chiến đấu đến cùng” trong “một cuộc
thương chiến hoặc bất kỳ loại chiến tranh nào khác” – đã không thể thay đổi được
dư luận quốc tế và hoàn toàn không truyền tải được mong muốn lâu dài của giới
lãnh đạo Trung Quốc là tránh xung đột bên ngoài.
Giờ
đây, chính quyền Trump đang cố gắng cứu vãn tình hình hỗn loạn kinh tế toàn cầu
– điều dường như không nằm trong kế hoạch của họ, như nhiều dấu hiệu đã chỉ ra
– bằng cách chuyển từ việc tái cấu trúc toàn bộ hệ thống kinh tế toàn cầu sang
một cuộc tấn công trực diện, có mục tiêu hơn, nhắm vào nền kinh tế Trung Quốc.
Tập và phần còn lại của giới lãnh đạo Trung Quốc không hề ảo tưởng rằng đất nước
họ có thể giành chiến thắng trong cuộc thương chiến với Mỹ. Nhưng họ vẫn sẵn
sàng mạo hiểm trong một cuộc chiến mà Trump có thể thua.
CÔNG
THỨC SAI LẦM
Quan
điểm cho rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đang tuyệt vọng đàm phán một thỏa thuận
thương mại, để tránh nỗi đau kinh tế có thể gây mất ổn định xã hội Trung Quốc
và đe dọa đến độc quyền quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), là quan
điểm phổ biến trong số những nhân vật diều hâu chống Trung Quốc tại Mỹ. Quan điểm
này chỉ đúng một phần, nhưng nó đã khiến nhiều người đưa ra kết luận sai lầm.
Tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc hiện yếu hơn bất kỳ thời điểm nào trong ba thập kỷ
qua. Tuy nhiên, nền kinh tế không yếu đến mức như Bộ trưởng Tài chính Scott
Bessent từng nhiều lần tuyên bố, rằng họ đang ở trong một “cuộc suy thoái
nghiêm trọng, nếu không muốn nói là khủng hoảng.” Tăng trưởng đã chậm lại từ mức
hai con số hàng năm cách đây hai thập kỷ xuống mức gần 10% trong những năm
2010, và hiện tại là khoảng 5% (nhiều người theo dõi Trung Quốc cho rằng con số
thực tế gần với 2%, do ĐCSTQ có xu hướng phóng đại).
Nhưng
sự tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc không tự động mang lại lợi thế cho Mỹ.
Các nền kinh tế tiên tiến đã tăng trưởng trung bình 1,7% vào năm ngoái, với nền
kinh tế Mỹ dẫn đầu ở mức 2,8%. Tuy nhiên, đà tăng trưởng đó đang yếu dần. Công
ty dịch vụ tài chính J.P. Morgan đã dự báo tăng trưởng âm của Mỹ trong nửa cuối
năm 2025, trong khi dự báo tăng trưởng chính thức của Trung Quốc sẽ giảm xuống
còn 4,6%.
Hồi
đầu tháng 3, Bộ trưởng Thương mại Howard Lutnick nói với NBC News rằng, “Donald
Trump đang mang tăng trưởng về nước Mỹ. Tôi sẽ không bao giờ đánh cược vào suy
thoái. Không có cơ hội nào để suy thoái xảy ra cả.” Những lời phóng đại như vậy,
khi được tin tưởng hoàn toàn, đã góp phần khiến chính quyền Trump đánh giá quá
cao khả năng thuế quan sẽ buộc Trung Quốc phải ngồi vào bàn đàm phán. Chiến lược
của họ đã phản tác dụng, làm giảm đáng kể khả năng đàm phán trực tiếp mà trong
đó Trung Quốc có thể sẵn sàng đưa ra những nhượng bộ có ý nghĩa. Bắc Kinh đã thể
hiện khả năng trả đũa mạnh mẽ và sự cởi mở về mặt chiến thuật đối với đàm phán,
nhưng không sẵn lòng cúi đầu.
Chính
quyền Trump dường như tin rằng có thể đạt được một thỏa thuận thương mại toàn
diện thông qua đối thoại trực tiếp giữa Trump và Tập. Nhưng vấn đề là Tập không
trực tiếp đàm phán các thỏa thuận; ông luôn giữ thái độ xa cách như một vị
hoàng đế, chỉ chấp thuận các thỏa thuận do người khác soạn thảo và không can dự
vào công việc quản trị hàng ngày. Ngược lại, Trump tạo dựng vốn chính trị từ việc
thu hút sự chú ý của giới truyền thông; mọi thành tựu phải là của ông một cách
rõ ràng và công khai. Ông đã tự xem mình là “người đàm phán chính,” đích thân
thúc đẩy chương trình nghị sự về thuế quan.
Sự
bất cân xứng trong phong cách lãnh đạo này đặt ra một thách thức hậu cần nghiêm
trọng đối với ngoại giao. Thật khó để tưởng tượng Trump sẽ lựa chọn thái độ kiềm
chế cần thiết để tránh đóng khung cuộc tranh chấp này như một cuộc thi cá nhân
giữa hai nhà lãnh đạo vĩ đại. Tuy nhiên, chính việc đóng khung đó lại là điều tối
kỵ đối với phía Trung Quốc – và có khả năng khiến Bắc Kinh rút lui hoàn toàn. Bắc
Kinh cho rằng một cuộc gặp giữa Tập và Trump khó có thể đảm bảo kết quả thực chất,
và rằng đó là một sự nhượng bộ đối với Washington, đem về lợi ích nhỏ nhưng rủi
ro lại đáng kể. Ngay cả một hội nghị thượng đỉnh được dàn dựng cẩn thận cũng có
thể gây tổn hại đến hình ảnh của Tập và theo đó là vị thế của đảng. Các quan chức
Trung Quốc vẫn nhớ rất rõ cách Trump phát động cuộc thương chiến ngay sau chuyến
thăm cấp nhà nước nồng ấm và hiệu quả tới Bắc Kinh vào năm 2017. Hơn nữa, Bắc
Kinh không muốn mạo hiểm để xảy ra một “vụ nổ” như những gì đã xảy ra khi Tổng
thống Ukraine Volodymyr Zelensky đến thăm Nhà Trắng vào tháng 2.
CUỘC
CHƠI ĐƯỜNG DÀI CỦA TẬP
Sự
nghiệp chính trị của Tập Cận Bình nổi bật với hai điểm chính: chống lại sự ép
buộc của nước ngoài và chế ngự các cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nước. Bản
năng của ông được hình thành trong Cách mạng Văn hóa vào những năm 1960 và
1970, khi gia đình ông mất đi vị thế và bản thân ông bị đưa đi lao động khổ sai
ở vùng nông thôn Thiểm Tây. Thông điệp chính trị cốt lõi của Tập – được thể hiện
trong khái niệm thực khổ, nghĩa đen là “ăn đắng”– kêu gọi công dân
Trung Quốc, đặc biệt là các thanh niên, chịu đựng gian khổ để phục vụ cho mục
tiêu phục hưng dân tộc. Việc ông kêu gọi sứ mệnh lịch sử của ĐCSTQ là vượt qua
“mối nhục trăm năm” của Trung Quốc không chỉ là luận điệu hoa mỹ, mà là nền tảng
cho tính chính danh của ông.
Các
chính sách thương mại đối đầu của Trump, dù được thiết kế để làm suy yếu vị thế
của Bắc Kinh, trớ trêu thay lại củng cố cho câu chuyện của Tập. Mối đe dọa bên
ngoài tạo ra vỏ bọc cho quá trình tái định hướng nền kinh tế đang diễn ra của
ĐCSTQ và biện minh cho việc nhà nước thúc đẩy tự lực cánh sinh. Nó cũng cho
phép Tập chuyển hướng các chỉ trích nhắm vào những sai lầm chính sách trước đây
– đặc biệt là lập trường trừng phạt của chính quyền ông đối với các doanh nghiệp
tư nhân. Sự thay đổi đó đã hiện rõ trong việc khôi phục lại sự ủng hộ một cách
tượng trưng đối với các doanh nhân từng bất hòa với nhà nước, chẳng hạn như tỷ
phú nổi tiếng Jack Ma, người gần như đã biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng
sau khi chỉ trích hệ thống quản lý tài chính của Trung Quốc vào năm 2020, nhưng
đã được phục hồi vị thế về mặt chính trị trong những tháng gần đây.
ĐCSTQ
nắm giữ độc quyền quyền lực trong hệ thống chính trị của Trung Quốc, và Tập
cũng duy trì vị thế gần như độc quyền trong đảng. Sự tập trung quyền lực này
cho phép nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra các quyết định chính sách toàn diện mà
không bị thách thức – và đảo ngược hướng đi cũng nhanh chóng không kém. Và bởi
vì đảng kiểm soát thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến các vấn đề đối
ngoại, nên bất kỳ cuộc chạm trán nào với chính quyền Trump cũng đều có thể được
định hình trong nước là Tập kiên quyết chống lại sự bắt nạt của nước ngoài.
Phản
ứng của Trung Quốc đối với thuế quan của Mỹ không phải là để giữ thể diện, mà
là để thực hiện một chiến lược được cân nhắc kỹ lưỡng. Khác với các đồng minh của
Mỹ, những nước đã bị bất ngờ trước chiến thuật của Trump, Bắc Kinh đã dành nhiều
năm để chuẩn bị cho cuộc đối đầu. Kể từ năm 2018, Trung Quốc đã vượt qua một cuộc
thương chiến cấp thấp, tích lũy kinh nghiệm trong việc quản lý sự cạnh tranh Mỹ-Trung
ngày càng sâu rộng, và học cách đi đường vòng để tránh các hạn chế kinh tế của
Washington.
Để
ứng phó, Bắc Kinh đã kêu gọi các quan chức địa phương và doanh nghiệp nhà nước
tăng cường khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng và phát triển thị trường nước
ngoài. Để giảm bớt tác động đối với các doanh nghiệp nhỏ và ngăn chặn tình trạng
thất nghiệp, họ đã công bố các biện pháp tài khóa và tiền tệ có mục tiêu để hỗ
trợ người dân trong cảnh bất ổn. Tại kỳ họp gần đây nhất của Đại hội Đại biểu
Nhân dân Toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, vào tháng 3, các nhà lãnh đạo đã
nhấn mạnh rằng thúc đẩy nhu cầu trong nước là chìa khóa cho tăng trưởng trong
tương lai, với các chính sách mới nhằm tăng cường chi tiêu của người tiêu dùng
và cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Họ cũng thúc đẩy việc sử dụng
các hệ thống thanh toán bằng đồng nhân dân tệ trên trường quốc tế để giảm thiểu
rủi ro của Trung Quốc trước các lệnh trừng phạt tài chính mang tính cưỡng ép của
Mỹ.
Đồng
thời, Trung Quốc đã ban hành một loạt luật mới – chẳng hạn như Luật Chống Trừng
phạt Nước ngoài, Luật Kiểm soát Xuất khẩu, và các quy định chống gián điệp – tạo
ra cơ sở pháp lý cho các biện pháp trả đũa và đặt các doanh nghiệp quốc tế vào
tình thế khó khăn. Các công ty có thể tuân thủ lệnh trừng phạt của Mỹ và đối mặt
với nguy cơ vi phạm luật pháp Trung Quốc, hoặc ngược lại.
Trên
mặt trận ngoại giao, Trung Quốc đã tìm cách làm giảm chủ nghĩa bảo hộ của
phương Tây bằng cách làm sâu sắc thêm các quan hệ cấp khu vực. Nước này đã đẩy
nhanh các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại tự do với các quốc gia Ả Rập
thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh. Về Liên minh châu Âu, Ngoại trưởng Trung Quốc
Vương Nghị đã mô tả cuộc gặp vào tháng 3 với người đồng cấp Pháp Jean-Noël
Barrot là “mang tính xây dựng,” và Trung Quốc và Pháp hiện đang lên kế hoạch tổ
chức ba cuộc đối thoại cấp cao trong năm nay. Trong những ngày trước khi có
thông báo áp thuế của chính quyền Trump, các bộ trưởng từ Trung Quốc, Nhật Bản,
và Hàn Quốc đã nối lại đối thoại kinh tế và thương mại sau 5 năm gián đoạn, đồng
ý thảo luận về một hiệp định thương mại tự do toàn diện hơn giữa ba nước, hợp
tác cải cách Tổ chức Thương mại Thế giới, và chào đón các thành viên mới tham
gia hiệp định thương mại tự do khu vực của họ, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực (RCEP). Đầu tháng này, Tập cũng đã đến thăm Đông Nam Á lần thứ hai
trong vòng chưa đầy 2 năm, để tăng cường quan hệ với Việt Nam và các nước láng
giềng quan trọng khác, những nơi đã trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa của
Trung Quốc.
Không
nghi ngờ gì, thuế quan cao sẽ làm xói mòn khả năng tiếp cận thị trường Mỹ của
các nhà xuất khẩu Trung Quốc. Nhưng theo quan điểm của Tập, nền kinh tế Trung
Quốc đang ở vị thế tốt hơn bao giờ hết để chịu đựng nỗi đau. So với những cú sốc
từ lệnh phong tỏa COVID-19, thì một sự gián đoạn thương mại với Mỹ sẽ là một sự
gián đoạn có thể chấp nhận được. Các lệnh phong tỏa đã chứng minh rằng ĐCSTQ có
thể đẩy người dân của mình vào tình cảnh khốn khổ đến mức nào mà không làm mất ổn
định quyền kiểm soát xã hội – vốn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Quan trọng
hơn, thước đo của sự phục hưng dân tộc của Tập không phải là GDP; mà là sự phát
triển khoa học và công nghệ. Chương trình nghị sự chính sách “Nước Mỹ trên hết”
của Trump chỉ giúp củng cố thêm cho lập luận của Tập về đổi mới trong nước và tự
lực cánh sinh. Khác với thời chính quyền Trump đầu tiên, giờ đây Trung Quốc đã
sẵn sàng phân tách khỏi Mỹ nếu cần.
KHÔNG
CÓ GÌ CHẮC CHẮN
Bỏ
qua những lo ngại về lạm phát trong ngắn hạn, biến số lớn nhất đang định hình lại
chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay là liệu Mỹ có còn được xem là đối tác kinh tế ổn
định và lâu dài hay không. Sự nghi ngờ giữa các đối tác truyền thống của Mỹ đã
không bị Bắc Kinh bỏ qua, và các quan chức Trung Quốc đã nhanh chóng tận dụng
việc quốc tế không còn chú ý đến việc Tập Cận Bình tập trung quyền lực và đi
ngược lại tầm nhìn “cải cách và mở cửa” của Đặng Tiểu Bình. Vào đầu tháng
4, Nhân dân Nhật báo, tờ báo chính thức của ĐCSTQ, đã mời gọi các
nhà đầu tư nước ngoài “sử dụng sự ổn định ở Trung Quốc để phòng ngừa sự bất ổn ở
Mỹ.”
Tuy
nhiên, sự bất định của Mỹ không tự động biến Trung Quốc thành một lựa chọn thay
thế đáng tin cậy hơn. Bắc Kinh vẫn chưa giải quyết được các vấn đề kinh tế mang
tính cấu trúc của chính mình. Chẳng có gì đảm bảo rằng chiến lược tự lực cánh
sinh và đổi mới do nhà nước Trung Quốc thúc đẩy sẽ mang lại kết quả đủ nhanh để
ngăn nước này khỏi bị nhốt trong bẫy thu nhập trung bình. Khi những trở ngại
tăng trưởng bên trong và bên ngoài gia tăng, Bắc Kinh cũng phải đối mặt với nguồn
ngân sách eo hẹp do tình trạng thiếu vốn: nhiều tiền hơn cho công nghệ có nghĩa
là ít tiền hơn cho các hộ gia đình.
Nhưng
những người sinh vào những năm 1970 trở về sau lại hình dung về một tương lai
không còn nhiều khó khăn, mà là sự thịnh vượng lâu dài. Và thế hệ trẻ có lý do
chính đáng để lo lắng. Họ đã trưởng thành ở một Trung Quốc ngày càng giàu có và
mang lại nhiều cơ hội, và COVID-19 là cuộc khủng hoảng quốc gia lớn đầu tiên mà
nhiều người trong số họ từng trải qua. Giờ đây, khi căng thẳng giữa Mỹ và Trung
Quốc gây nguy hiểm cho việc tiếp cận giáo dục toàn cầu và sự thăng tiến trong
nghề nghiệp, cảm giác an toàn kinh tế của họ đang dần biến mất.
Ở
cả Trung Quốc và Mỹ, việc hoạch định chính sách đều do giới tinh hoa chính trị
già nua thống trị. Và ở cả hai quốc gia, thế hệ trẻ ngày càng nhận thức được rằng
những người nắm quyền đang sẵn sàng thế chấp tương lai của họ. Đối với Trung Quốc,
về lâu dài, lời kêu gọi “ăn đắng” có thể không còn truyền cảm hứng cho một xã hội
đã lớn lên với kỳ vọng về sự ngọt ngào.
VIÊN
THUỐC ĐẮNG CỦA TRUMP
Cách
tiếp cận “Nước Mỹ trên hết” của Trump đối với Trung Quốc không nhất thiết phải
chuyển thành áp lực tối đa. Các chiến thuật mạnh tay sẽ chỉ củng cố thêm sự
nghi ngờ lâu nay của Bắc Kinh, rằng Washington đang tìm cách kiềm chế Trung Quốc
và cuối cùng là lật đổ Đảng Cộng sản. Cách chơi chiến lược tốt hơn là đặt ra
cho Bắc Kinh một tình thế lưỡng nan thay vì một tối hậu thư.
Tình
thế lưỡng nan đó bắt đầu bằng việc chấp nhận một thực tế mang tính cấu trúc: Mỹ
sẽ luôn thâm hụt thương mại với Trung Quốc, bởi vì người Mỹ không muốn giành lại
các công việc sản xuất cấp thấp từ các nhà máy Trung Quốc. Thách thức mà Trump
phải đối mặt là làm thế nào để cấu trúc sự thâm hụt đó theo cách bền vững về mặt
chính trị – để tạo ra sân chơi bình đẳng trong các ngành công nghiệp sẽ định
hình tương lai, chẳng hạn như trí tuệ nhân tạo, máy tính lượng tử, và năng lượng
sạch, và để đảm bảo rằng Trung Quốc tiếp tục tái đầu tư thặng dư thương mại của
mình vào các tài sản bằng đô la Mỹ.
Để
làm được điều này, Mỹ nên tiếp tục xuất khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô và đầu
vào công nghiệp, tạo ra thặng dư củng cố nhằm vị thế là nhà cung cấp thượng nguồn
trong chuỗi sản xuất toàn cầu và đối tác quan trọng trong hệ sinh thái công
nghiệp của Trung Quốc. Đồng thời, Washington nên chấp nhận thâm hụt đáng kể đối
với sản xuất ở quy mô nhỏ, cấp thấp. Dù nhu cầu trong nước đối với những mặt
hàng này vẫn mạnh, nhưng việc đưa lĩnh vực này trở lại Mỹ vừa vô nghĩa về mặt
chính trị, vừa không hấp dẫn về mặt kinh tế. Mặt khác, chính quyền Trump nên hướng
tới mục tiêu duy trì sản xuất chiến lược, cấp cao – trong các lĩnh vực như chất
bán dẫn và robot công nghiệp – gần với mức cân bằng, thông qua thuế quan đối ứng
có công thức rõ ràng. Nhờ các mức thuế quan đó, Washington cũng có thể tạo ra động
lực để Bắc Kinh thu hẹp khoảng cách thương mại, bằng cách áp dụng thuế cao hơn
một chút cho các lĩnh vực công nghệ cao này và giảm dần khi Trung Quốc mua
nguyên liệu thô và hàng công nghiệp đầu vào của Mỹ. Một khuôn khổ như vậy sẽ
cho phép cả hai bên có thể tuyên bố chiến thắng: Trump có thể nói rằng ông đã bảo
vệ các ngành công nghiệp quan trọng của Mỹ, trong khi Tập có thể lập luận rằng
ông đã bảo tồn cơ sở sản xuất của Trung Quốc và thậm chí đạt được việc giảm thuế
nhẹ. Điều quan trọng là nó sẽ chuyển gánh nặng điều chỉnh sang Bắc Kinh, mang lại
cho Trung Quốc sự linh hoạt để cân bằng lại nền kinh tế theo cách riêng của
mình trong khi vẫn phù hợp với lợi ích của Mỹ.
Để
đảm bảo rằng Bắc Kinh sẽ tái đầu tư thặng dư thương mại của mình vào tài sản của
Mỹ và tiếp tục sử dụng hệ thống đô la Mỹ – một đòn bẩy ngầm nhưng rất mạnh khác
của Mỹ – thì cơ hội thiết thực nằm ở việc đảo ngược xu hướng Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc đang dần giảm nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ. Kể từ năm 2016, ngân
hàng này đã giảm lượng trái phiếu Kho bạc Mỹ nắm giữ khoảng 40%, chuyển một phần
dự trữ sang vàng. Việc chuyển hướng dù chỉ một phần số vàng mới mua gần đây trở
lại Kho bạc Mỹ có thể tạo ra khoản đầu tư mới ước tính là 43 tỷ đô la vào Mỹ, từ
đó hỗ trợ mong muốn của chính quyền Trump nhằm giữ lãi suất ở mức thấp và ổn định
thị trường trái phiếu, vốn là các thành phần quan trọng trong kế hoạch tái cấp
vốn cho khoản nợ quốc gia trị giá 36 nghìn tỷ đô la của Mỹ. Một động thái như vậy
cũng sẽ báo hiệu cam kết liên tục của Bắc Kinh đối với hệ thống đô la và làm giảm
bớt sự suy đoán về một loại tiền tệ BRICS mới nổi, hoặc một nỗ lực lớn hơn nhằm
phi đô la hóa.
Tuy
nhiên, nếu không có một chế độ thuế quan phối hợp giữa các đồng minh và đối tác
của Mỹ, thì sẽ không có chiến lược nào là chắc chắn. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc
sẽ không ngồi yên trong lúc Washington đàm phán, đặc biệt là khi xét đến tốc độ
chậm chạp của các cuộc đàm phán trước đây. Ví dụ, phải mất hai năm để hoàn tất
thỏa thuận thương mại Giai đoạn Một mà Mỹ và Trung Quốc đã ký vào tháng 1/2020,
trong khi tuổi thọ trung bình của một doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc –
động lực chính của xuất khẩu của nước này – chỉ là 3,7 năm.
Ngay
cả khi Mỹ áp thuế cao liên tục, điều đó cũng không thể ngăn cản Trung Quốc mở rộng
hoạt động kinh doanh trên toàn cầu. Dư thừa công suất trong nước và cạnh tranh
nội bộ khốc liệt đã thúc đẩy các công ty Trung Quốc hướng ra nước ngoài để tìm
kiếm biên lợi nhuận. Động lực đó đã được củng cố bởi sự hỗ trợ của nhà nước
thông qua các ưu đãi tài chính, tinh giản quy định, giảm thuế, và mở đường tiếp
cận thị trường và chuỗi cung ứng ở nước ngoài.
Phạm
vi của một thỏa thuận giữa Washington và Bắc Kinh – và những nhượng bộ mà Trump
có thể đạt được từ Tập – có lẽ đã thu hẹp trong tháng qua. Nếu Trump muốn đảm bảo
một thỏa thuận, ông có thể phải cùng người dân Trung Quốc “ăn đắng” và chấp nhận
một số thỏa hiệp khó khăn. Nhưng với một chiến lược ngoại giao được hiệu chỉnh
lại, ông vẫn có thể giành được một số chiến thắng nhỏ – và tránh được những tổn
thất tiềm tàng lớn mà Mỹ hiện đang phải đối mặt.
--------------------------
Zongyuan
Zoe Liu là
nghiên cứu viên về Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là tác giả cuốn
sách “Sovereign Funds: How the Communist Party of China Finances Its Global
Ambitions.”
Nguồn: Zongyuan Zoe Liu, “How
China Armed Itself for the Trade War,” Foreign Affairs, 29/04/2024
No comments:
Post a Comment