\
Lê Chiều Giang - Diễn Đàn Thế Kỷ
https://diendantheky.net/le-chieu-giang-sai-gon-sai-go/
“…Tôi đi. Không thấy phố
Không
thấy nhà
Chỉ
thấy mưa sa trên màu cờ đỏ…”
Trần
Dần
Khi
vừa đến tuổi mơ màng biết thích thơ văn, tôi đọc bài thơ xưa này, chỉ lan man
hình dung ra những lá cờ đỏ bay bay trong mưa lạnh dịu dàng với gió chiều không
còn thơ mộng nữa của Hà Nội. Hà Nội, thành phố mà tôi biết đến khi đọc và nhớ từng
tên tác giả trong sách của Tự Lực Văn Đoàn. Xa hơn một chút, tôi có thể ngâm
nga thêm khúc “Chinh phụ ngâm” đang được giảng qua giọng đọc trầm ấm, lãng mạn
và đầy chất thi sĩ của vị Giáo sư dạy cổ văn.
“Tiếng
địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng
cờ bay trong bóng phất phơ”
Cho
đến năm 1975, hầu hết tuổi trẻ chúng tôi chưa hiểu chút gì về một chủ nghĩa
kinh hoàng đầy hãi sợ: Cộng Sản.
Sau
những tháng đầu tiên thất điên bát đảo, chới với bàng hoàng với chế độ mới,
chúng tôi vô cùng giận dữ nhận ra, nhìn thấy trùng trùng những điêu tàn cùng khổ
đau đang làm quê hương tôi kiệt quệ, bởi không còn được sống dưới lá cờ tung
bay trong ý nghĩa của một đất nước tự do. Tôi thầm ước, nếu như nền giáo dục của
VNCH thay vì bắt học trò học quá nhiều giờ Công dân giáo dục, nhân nghĩa lễ trí
tín, tam tòng tứ đức, mãi cúi đầu khoanh tay lễ phép chào Cụ, chào Ông…lẽ ra
chúng tôi còn cần phải có những giờ học về một chủ nghĩa vô cùng ác độc từ lâu
rồi đã và đang tàn phá quê hương. Chúng tôi phải được học trong sách của Học giả
Hoàng Văn Chí, phải biết thêm về các diễn biến vô cùng dã man của một chế độ bất
nhân qua cuộc cải cách ruộng đất. Những chi tiết và ý nghĩa tại sao hàng triệu
người miền Bắc năm 1954 đã phải bỏ cửa bỏ nhà, chạy theo tiếng gọi của dân chủ
tự do di cư vô Nam?
Những
sáng trước giờ học, chúng tôi chào cờ. Lá cờ khi phất phới tung bay, lúc im lìm
không gió đã chẳng cho chúng tôi chút khái niệm nào về lòng YÊU NƯỚC. Phải
chăng tuổi trẻ chúng tôi rất cần được cùng yêu nước với Đức Trần Hưng Đạo, với
Vua Quang Trung, với Lý Thường Kiệt …? Bên cạnh những bài lịch sử dài lê thê,
có những con số chính xác về bao nhiêu quân giặc đã tan thây, để trả giá cho sự
xâm lăng của chúng, mà chúng tôi suốt bao năm dài đã phải ê a học thuộc lòng từng
số trăm số ngàn. Thiển nghĩ Bộ giáo dục còn phải cho thêm giờ để dạy chúng tôi
“Lòng yêu nước”. Bởi yêu nước, không thể đến một cách đương nhiên, dù tôi có
đang đọc một tỷ lần về Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Ngoài những bài
lịch sử, chúng tôi còn nghe hàng ngày giọng đọc hùng hồn trên radio về Bình Ngô
Đại Cáo của cụ Nguyễn Trãi với lời lẽ đầy nhân nghĩa, quân tử và khí khái. Vậy
mà sao tôi vẫn cứ mơ mơ hồ hồ về lòng hy sinh, sự cao cả của những tấm gương
oai hùng đó của tiền nhân? Có phải chúng tôi còn cần học thêm về thực tế của
bao người lính kiêu hùng đang quyết tâm gìn giữ từng tấc đất ngoài biên cương,
đã và đang hy sinh ngoài chiến địa? Cuộc chiến bao năm trong dầu sôi lửa bỏng
mà sao chúng tôi chỉ lo mơ mộng, thích Cao Bá Quát ngang tàng ngạo mạn hơn là để
lòng tri ân tới những Tướng lãnh anh hùng đang xả thân để bảo vệ quê
hương.
Chúng
tôi ít quan tâm đến những cuộc biểu tình phản chiến bị Việt Cộng giật giây, từ
các sinh viên học sinh, như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi … có thể vì còn nhỏ,
nhưng anh tôi, người đang học đại học cũng chẳng quan tâm gì đến những phát biểu
của Ngô Công Đức, của Lý Quí Chung, cả những bài viết với tầm ảnh hưởng tệ hại
sâu xa của họ trong giới trẻ… Nếu chúng tôi có biết chút gì về chiến tranh thì
chỉ là phớt phớt, sương sương qua TV và báo chí.
Nhưng
cho đến sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi đi dọc theo đường Hai Bà Trưng,
Hiền Vương đầy náo loạn, nước mắt tôi chan hòa. Tôi bặm môi nhìn rừng cờ sao
vàng, nhìn băng đỏ quấn trên những cánh tay giơ cao của lũ trẻ phản quốc ngu
ngơ, đang hò hét những lời cuồng điên sắt máu… Tôi muốn ngưng thở bởi trái tim
tôi tưởng như sắp trào máu đỏ. Ngay lập tức tôi nhẩm đọc lại bài thơ của thi sĩ
Trần Dần. Tôi khóc.
Khi
nước nhà tan hoang ngay trước mắt, tôi mới hiểu thế nào là tình yêu quê hương.
YÊU NƯỚC. Tôi cứ tưởng là phải học thuộc lòng, phải nhập tâm, phải có đủ mọi thứ
nhận thức cao siêu, hay lý luận xa vời…Thực ra tình yêu nước như không khí,
không khí bàng bạc, chan hòa trong từng tấc đất trên quê hương của mỗi chúng
ta. Hãy cứ thở đi và sẽ nhận ra, cứ thở đi để mà cảm thấy.
“…Tôi
yêu tiếng nước tôi
Từ
khi mới ra đời… “
[Phạm
Duy]
Ngày
30 tháng 4 năm 1975, tôi biết yêu quê hương, yêu đất nước tôi, dù đã quá muộn
màng.
***
Phim
“Xa Lộ Không Đèn”, có từ năm 1972. Dù chưa bao giờ xem, nhưng tối nay, tôi lại
chợt nghĩ đến.
Ánh
đèn của những chiếc xe máy, vòng vèo lướt ngang, vội vã. Chút ánh sáng chớp tắt
lập loè đã không đủ cho chúng tôi nhìn rõ mặt nhau. Nhưng sao tôi lại hình dung
ra cuốn phim ngày trước, với những hình ảnh màu mè, những tấm quảng cáo đã được
dán khắp nơi, ở mọi hè phố của Saigon.
Sau
1975, cả nước sống vật vờ trong nhiều đêm không đèn, nên có lẽ chẳng ai cần phải
ra tận xa lộ, mới thấy được cảnh phim đầy gây cấn, trong “Xa lộ không đèn” của
đạo diễn Hoàng Anh Tuấn.
Tối
nay, anh chị Nguyễn Đình Toàn và chúng tôi, đang đứng ngay chân cầu xa lộ âm u.
Sàigòn của chúng tôi, Sàigòn đã chợt phải sống với nhiều đêm tối tăm không đèn
đóm… Anh Nghiêu Đề quăng tàn thuốc xuống lề đường đọng nước, tiếng nói Anh lúc
nào cũng hiền hòa dù có đang buồn bã đến đâu.
–
Vụ Vũ Hạnh mời mình vô cái Hội Văn Nghệ, Văn Hóa gì gì đó, ông tính sao?
– Sáng nay tôi đã hỏi bọn chúng nó một câu trừ hao rồi: “Hội nào mấy ông mời, tụi
tôi cũng vô hết, nhưng để cho chắc ăn, tôi muốn biết, nếu khi nào cần ra khỏi mấy
cái Hội đó, thì mấy ông có để cho chúng tôi ra hay không?”. Nghĩa là, vô rồi
thì có còn ra được nữa hay không?
Chị
Thu Hồng cười vang với lối nói cà khịa của Nguyễn Đình Toàn. Trước khi đạp xe về
hướng Làng Báo Chí, anh Toàn để lại tiếng thở dài: – Thôi, thân thằng nào thằng
nấy lo…
Lời
dặn vu vơ nhưng rất ngậm ngùi đó đã nhận chìm chúng tôi trong lo lắng, hoang
mang trên đường đạp xe ngược về Cư Xá Thanh Đa.
***
Thời
đó, một số Văn nghệ sĩ từ miền Bắc hay tìm đến chơi với dân Văn nghệ Sài Gòn. Họ
như muốn tìm hiểu thêm về những sinh hoạt, cách suy nghĩ của giới văn nghệ sĩ
miền Nam.
Họa
sĩ Bùi Quang Ngọc, em của nhà văn Bùi Quang Đoài trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, họa
sĩ Lưu Công Nhân, nhà thơ nhà giáo Tuân Nguyễn, nhạc sĩ Trần Tiến hay Dương Thụ…
Tôi nhớ mãi tiếng hát Trần Tiến lúc ngà ngà say, Anh có chút vẻ giang hồ là lạ,
mang mang như cái nắng cái gió của Hà Nội…
Đặc
biệt, trong một buổi trà dư tửu hậu, căn chung cư nhỏ của chúng tôi không phải
chỉ để Nguyễn Đình Toàn, Thuỵ Vũ, Trần Quang Lộc hay Đào Trường Phúc len lén ôm
đàn ngồi hát như thường khi. Tối nay tất cả chúng tôi ngồi quanh một thi sĩ vừa
vào thăm Saigon. Thi sĩ Hoàng Hưng.
Đêm
đó Thanh Đa cúp điện, thơ Apollinaire như lãng mạn thêm với ánh đèn dầu không
sáng, lại cũng chẳng thể tối hơn. Anh Hoàng Hưng đọc những vần thơ bàng bạc u sầu,
trong tiếng gió êm đềm cùng vầng trăng sáng, bên dòng sông nhỏ trước hiên
nhà.
Tiếng
Pháp tôi không hiểu hết, nhưng qua giọng đọc truyền cảm của anh, Thơ như đã dạt
dào thêm, đã miên man lắng đọng hơn cùng với nhiều xúc cảm.
“…J’ai
cueilli ce brin de bruyère
L’automne
est morte souviens-t’en
Nous
ne nous verrons plus sur terre…”
[Apollinaire]
Khó
mà ai có thể tưởng tượng, chỉ mấy năm sau, người Thi sĩ mà chúng tôi rất quí mến
này đã bị giam tại Hỏa Lò tới 3 năm, chỉ vì cầm tập bản thảo “Về Kinh Bắc” của
Hoàng Cầm.
***
Đời
sống càng lúc càng gay gắt, với lối cai trị vô cùng khắc nghiệt của chế độ mới.
Cả nước ai cũng bàn tính chuyện tẩu thoát, ra đi, dù biết rằng rất nhiều phần sẽ
chết, sẽ mất tăm mất tích ngoài biển khơi giá lạnh… Trong khi gia đình tôi đợi
chờ mỏi mòn giấy tờ đi ODP, tôi theo anh chị họa sĩ Cù Nguyễn, mang hết tủ sách
của anh Nghiêu Đề đã nhọc công giấ́u diếm công an ra bày, bán chữ nghĩa ngoài
Chợ Sách trên đường Calmette, Ký Con. Tủ sách mà khi anh tôi hỏi lý do gì tôi lại
cứ khăng khăng muốn lập gia đình với một người mà Cha Mẹ triệt để cấm đoán? Tôi
ngây thơ trả lời: “Tại nhà anh Nghiêu Đề có nhiều sách lắm”, cái lý do để “đi lấy
chồng” rất ngớ ngẩn đó đã làm anh tôi đập bàn, giận dữ: “Vậy thì phải đi mà lấy
cái Ông Khai Trí hay Xuân Thu”. Từ kỷ niệm dễ thương này, chúng tôi đã coi đó
như là “Tủ sách khởi đầu cho một nhân duyên”. Vậy đó mà chỉ vì những nhọc nhằn
cơm áo, tôi đang phải mang đi, bán hết…
Bán
thì ít mà tôi mải mê đọc lại những cuốn sách quí đó thì nhiều. Tôi vui mừng nhận
ra mọi niềm đau, những trớ trêu và mất mát của đất nước tôi với đầy ắp những ai
oán, điêu linh đã như được Solzhenitsyn nói ra gần hết. Những nghiệt ngã tai
ương, với tâm tình đầy u ẩn khi ông phải sống chung cùng nỗi chết dưới thời
Stalin, đã được ông phơi bầy ra ánh sáng cho toàn thế giới… Tôi xót xa, tiếc rẻ
khi phải bán đi sách của Arthur Koestler, Dostoevsky, Hermann Hesse hay
Solzhenitsyn….
Tôi
cảm ơn hết những dịch giả miền Nam đã mang văn chương thế giới trải dài cho nền
văn học Việt, như chiếu thêm trăm ngàn ánh đèn rực rỡ sáng. Đã mang những minh
triết, tinh hoa từ muôn phương, giúp tuổi trẻ chúng tôi được thưởng lãm và học
hỏi qua những quyển sách vô cùng giá trị, để chúng tôi thẩm thấu được phần nào
những đẹp ngời, nhằm tạo thêm sự thăng hoa cho đời sống, kể luôn cả những phần
gay gắt dập vùi, những thảm kịch đầy bi ai của kiếp người…
Bên
cạnh những tác phẩm từ nhiều dịch giả, còn có cả một rừng sách của rất nhiều
Văn nhân thi sĩ miền Nam…Những tác giả đã góp phần rất lớn cho nền văn học
phong phú và đa dạng dưới thời Việt Nam Cộng Hoà. Những tác phẩm đó giờ không
còn được trưng bày trang trọng trong tủ sách của nhiều gia đình, chúng đang được
tôi rải dọc rải ngang, nằm tung nằm toé dưới nền đất như những trang giấy vô
tri. Dưới chút nắng chiều sắp tắt, tôi ngậm ngùi nhìn những cuốn sách nằm đó
chơ vơ, buồn bã như để tang cho một nền Văn học đang bị thảm sát dưới bàn tay sắt
lạnh của một chế độ hung tàn..
Chưa
kể đến rất nhiều nhà văn nhà thơ đang bị giam cầm, một số vị đã chết trong ngục
tù cộng sản, hay đã liều mình bỏ nước ra đi.
Khi
gom góp những cuốn thơ của anh Nguyễn Đức Sơn, tôi bồi hồi nhớ lại một thời của
anh:
“…
Vì sao ta đến đây hò hét
Học
trò bẻ bút, tập mang gươm
Tập
uống máu người thay nước lã
Múa
may theo
Lịch
sử điên cuồng…”
(NguyễnĐứcSơn)
Từ
năm 1979, Nguyễn Đức Sơn mang hết gia đình anh lên Bảo Lộc, Phương Bối. Nơi đây
anh sống hoàn toàn biệt lập, bất hợp tác với xã hội dưới mọi hình thức. Gia
đình anh sống tự túc với đèn dầu tăm tối, ăn uống từ suối nước không trong, và
cả với khoai sắn, nấm và rau trái do mình trồng ra… Một hình thức chống lại chế
độ vô cùng quyết liệt, đầy can đảm và tuyệt đối của anh. Và cho dù có vì thế mà
trong rất nhiều năm, gia đình anh đã phải sống trong vất vả, mất mát, cực khổ
và lam lũ…
Quyết
định bỏ Sàigon lên sống nơi rừng thông Phương Bối, gian nan, thiếu thốn, và rất
khó khăn của Nguyễn Đức Sơn. Phần nào cho tôi nghĩ đến Bá Di, Thúc Tề: Quyết
không theo nhà Chu, không ăn thóc nhà Chu. Bỏ lên núi Thú Dương, và chỉ ăn rau
Vi, cho đến chết.
“Lên
núi Tây chừ hái rau Vi
Lấy
bạo đổi bạo
Chừ
Có
hay chi?
Thần
Nông, Ngu, Hạ…Chìm cả rồi
Ta
Biết
nơi nào đi?
[Bá
Di,Thúc Tề]
***
Sau
50 năm không còn quê hương nữa để yêu thương, tôi vẫn cố vớt vát hết những hình
ảnh đẹp như tranh như tượng, để ấm lòng mỗi khi nghe lại, nhớ về một cố hương u
hoài xa khuất.
“Tôi
yêu bác nông phu
Đội
sương gió trên bờ ruộng xanh
Vài
ngàn năm đứng trên đất nghèo
Mình
đồng da sắt không phai mầu…”
[Phạm
Duy]
Và
có phải ẩn trong tôi vẫn là những ước mong cho một ngày trở lại? Tôi sẽ mơ màng
nằm trên thảm cỏ mướt xanh, nghe trong gió lời nhạc mênh mang bay xa, bay xa
mãi tới tận cuối chân trời.
“…Những
bước chân trong hòa bình
Mang
những lời yêu trong gió xanh
Bước
hiển minh
Đi
nối liền hai cõi tử sinh
Bàn
chân êm trên đường quen
Từ
sông mê
Qua
bụi quên…”
[Phạm
Duy]
Lê
Chiều Giang
No comments:
Post a Comment