Phồn
vinh giả tạo
Ngày mai lễ
trọng, nhà cháu đăng lại bài này để lớp trẻ biết thế nào là sự "phồn vinh
giả tạo" của miền Nam trước 30.4.1975.
Hôm
rồi, dư luận ồn ào quanh chuyện một nhóm nhà sử học viết bộ sử mới đã không
dùng những từ “ngụy, ngụy quân, ngụy quyền, chính quyền ngụy” để gọi chính thể
Việt Nam cộng hòa như lâu nay nhà cầm quyền vẫn kết án. Có người bảo đó là cuộc
cách mạng về tư tưởng, tư duy, báo hiệu sự thay đổi căn bản. Có người khác bảo
họ chỉ làm màu thế chứ thực tâm chả thay đổi gì đâu. Lại có người nói rằng sự
thay đổi chỉ cốt lợi dụng tên gọi chính quyền cũ để sử dụng hợp pháp những tài
liệu văn bản của Sài Gòn trước năm 1975 về các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
thôi, nhằm mục đích đấu tranh đòi biển đảo thôi. Lại có ông tướng về hưu hung
hăng đòi truy tố mấy nhà viết sử bởi theo ông thì "ngụy" muôn đời vẫn
là ngụy… Mỗi vị một phách, chả biết thế nào. Cứ sư nói sư phải, vãi nói vãi
hay, dân đen ngoảnh qua ngoảnh lại theo ý các ông các bà ấy chắc gãy mẹ nó cổ.
Tôi
định không có ý kiến gì, nhưng đọc thử một vài trang, thấy nhóm biên soạn có
“tư duy mới” khi viết về quốc hội của chính thể Việt Nam cộng hòa vẫn lặp đi lặp
lại cụm từ “quốc hội bù nhìn”, thì lòng thầm nghĩ họ chả thay đổi gì đâu. Ngấm
vào máu rồi, dễ chi thay đổi được. Phải mất vài thế hệ nữa may ra mới có thể
“xóa vết thương nội chiến, nồi da xáo thịt”, xóa cụm từ "giải phóng miền
Nam".
Nhân
vụ sử nói trên, lại nhớ hồi viết về cụm từ “bơ thừa sữa cặn” mà tôi tạm gọi là
“thành ngữ mới”, một ông bạn chơi với nhau từ hồi cởi trần đánh dậm liền nhắn bảo
còn nhiều từ ấn tượng ghê gớm lắm, mày viết nữa đi. Tôi ậm ừ nhưng chưa viết bởi
bây giờ tuy không bận đi đánh dậm nữa nhưng còn mải nhặt bạc cắc sống qua ngày.
Bữa ni hơi rảnh liền thực hiện lời hứa, nói dăm ba điều về “phồn vinh giả tạo”.
Trước
hết cần sơ sơ về từ vựng. Trong tiếng Việt, “phồn vinh” là tính từ, chỉ sự giàu
có, sung túc, thịnh vượng, no đủ, đầy đủ về vật chất. Theo nghĩa Hán Việt, “phồn”
là nhiều, “vinh” là vinh hoa, giàu sang, thịnh vượng. “Phồn vinh” là đầy đủ
giàu sang. Ta thường nói cuộc sống phồn vinh, đất nước phồn vinh, xã hội phồn
vinh. Bầu ngực đàn bà đẹp đầy sức sống và ham muốn được gọi là phồn thực... Còn
“giả tạo” cũng rất dễ hiểu, xuất phát từ chữ “giả” có nghĩa không thật, giả tạo
là cố ý làm ra cái không có thật. "Phồn vinh giả tạo" là nhìn bề
ngoài có vẻ giàu có, no đủ, sung túc nhưng thực chất là thiếu thốn, nghèo đói,
đau khổ; chỉ có màu mè bên ngoài thế thôi, chứ bên trong rỗng tuếch, chả có gì.
Đương
nhiên từ “phồn”, từ “vinh” hoặc từ “giả tạo” đều đã có từ rất lâu trong buổi sơ
khai tiếng Việt, nhưng cụm từ “phồn vinh giả tạo” giống như một thứ thành ngữ mới
thì chỉ mãi về sau này mới có. Người giữ bản quyền cụm từ ấy không phải ai
khác, chính là mấy vị cộng sản cầm quyền ở miền Bắc thời những năm 1960-1970.
Đám chúng tôi hồi đó còn bé nhưng thường được nghe cán bộ bảo rằng miền Nam dưới
ách áp bức rên xiết tàn bạo của Mỹ ngụy dân chúng cực khổ lắm, không những phải
chịu chiến tranh, bom đạn do chúng reo rắc, còn chịu cuộc sống ô nhục nô lệ, bơ
thừa sữa cặn. Những nhà cửa, xe cộ, lúa gạo vải vóc, hàng hóa… đầy tràn chỉ là
vẻ ngoài phồn vinh giả tạo thôi. Vì vậy phải giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, cứu 14 triệu đồng bào ruột thịt thoát ra khỏi cuộc sống phồn vinh giả tạo.
Miền
Nam phồn vinh giả tạo, vậy miền Bắc thì sao? Những ai sống ở miền Bắc những năm
từ nửa cuối thập niên 50 đến nửa cuối thập niên 70 chắc còn nhớ những gì đã xảy
ra trong đời sống quanh mình. Nhiều thứ khó quên bởi dường như nó bám chặt vào
óc mất rồi.
Suốt
mấy chục năm, do hoàn cảnh chiến tranh bom đạn, đất nước bị chia cắt, thông tin
đã nghèo nàn lại còn bị cấm đoán triệt để nên lứa chúng tôi chỉ biết cuộc sống
diễn ra theo sự tuyên truyền của nhà nước. Đại loại là miền Bắc đã được giải
phóng, cuộc sống tự do hạnh phúc, đang ngày càng cơm no áo ấm, “đường lên hạnh
phúc rộng thênh thênh”. Tố Hữu ca ngợi "Miền Bắc thiên đường của các con
tôi". Ngày ấy thường được nghe cụm từ “thay da đổi thịt”, một năm là cả bốn
mùa xuân. Báo chí, đài phát thanh (hồi đó chưa có truyền hình) viết về, nói về
không khí náo nức tươi vui, phấn khởi, về “đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi”, “gương mặt
người ai cũng sáng long lanh”… Cứ như cứ những gì chúng tôi được nghe thì thiên
đường đã tới thật rồi. Chỉ có điều, bởi nghèo đói là cái thực đang hiện diện
khó giấu, nên cán bộ sau khi say sưa ca ngợi bao giờ cũng khuyên bà con ráng chịu
đựng khó khăn gian khổ thiếu thốn, khi nào chủ nghĩa xã hội thành công tha hồ
mà sung sướng.
Để
tăng thêm sức nặng tuyên truyền, cán bộ luôn vẽ lên bức tranh u ám về miền Nam
đang rên xiết dưới chế độ Mỹ ngụy. Đó là cảnh chiến tranh chết chóc, là luật
10/59 tàn bạo, đồng bào bị kìm kẹp ngạt thở, sản xuất bị đình đốn chỉ thoi thóp
nhờ cậy vào viện trợ của bọn đế quốc Mỹ. Ấp chiến lược dây thép gai dựng khắp
nơi, đô thị đèn màu ăn chơi trụy lạc, công nghiệp nghèo nàn chủ yếu phục vụ cho
chiến tranh xâm lược, nông dân tha phương cầu thực bỏ cả quê hương bản quán,
công nhân đình công đòi tăng lương giảm giờ làm, hầu như không ngày nào không xảy
ra học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi thị, phật tử xuống đường đòi tự do… Đó là
một bức tranh cực kỳ u ám chết chóc, bên bờ vực thẳm.
Cán
bộ bảo, những tuyên truyền của bộ máy “nhà nước bù nhìn” về sự tự do, sung túc,
ổn định, phát triển, giàu có, về phố xá, xe cộ, tivi, tủ lạnh, về no đủ, ăn
ngon mặc đẹp, hàng hóa dư thừa…, tất cả chỉ là giả dối, là thứ phồn vinh giả tạo
thôi, bà con ạ. Cuối buổi nói chuyện, cán bộ chốt lại rằng, dù chúng ta có còn
chút nghèo đói, thiếu thốn nhưng cũng còn sướng hơn gấp nghìn lần thứ phồn vinh
giả tạo của miền Nam, thứ phồn vinh chỉ có bọn quan chức, tướng tá và địa chủ,
tư sản được hưởng, chứ 14 triệu đồng bào thân yêu chả được chút gì. Cái thứ phồn
vinh phải trả bằng máu và ô nhục ấy chúng ta không cần, phải không các bạn. Thế
là cả sân hợp tác vỗ tay rầm rầm, hô "không cần, không cần". Tôi còn
nhớ chính tôi hồi đó cũng hăng lắm, tự hào về cuộc sống nghèo đói của mình lắm.
Thương đồng bào miền Nam vô cùng.
Phải
nói sự tuyên truyền của những người cầm quyền ở miền Bắc thật hiệu quả. Họ áp dụng
rất thành công phương pháp của trùm Goebel (Đức quốc xã) là những gì giả dối cứ
nói đi nói lại mãi cũng sẽ có người tin. Cán bộ miền Bắc giỏi hơn Goebel nhiều,
bởi dân chúng phần đông đều tin điều họ nó. Chỉ đến khi có điều kiện thực tế kiểm
chứng thì mới tá hỏa bấy lâu mình bị lừa.
Đầu
năm 1977 tôi vào Sài Gòn theo sự phân công của nhà nước. Mắt thấy tai nghe, tôi
dần hiểu thực chất của cái gọi là “phồn vinh giả tạo”. Nhìn những chuyến tàu lửa,
xe ô tô chở ùn ùn hàng hóa ra Bắc, ngay bản thân mỗi lần về phép đã nhặt nhạnh
từng tí đem ra, hiểu rằng sự phồn vinh ấy chẳng giả tạo tí nào (số hàng này chủ
yếu là hàng còn tồn đọng sau “giải phóng” chứ hầu hết nhà máy đang sống dở chết
dở dưới chế độ mới, nhất là sau cuộc cải tạo công thương nghiệp do ông phó thủ
tướng Đỗ Mười cầm đầu). Nếu bảo sự giàu có do bọn Mỹ mỗi năm rót cả tỉ đô la viện
trợ thì sau 1972 Mỹ nó cút về rồi, phải nghèo khổ trở lại chứ.
Miền
Nam có một nền công nghiệp cực kỳ phát triển, hầu như không thiếu mặt hàng sinh
hoạt thiết yếu nào. Nếu miền Bắc chỉ có vài nhà máy dệt như Nam Định, 8 tháng
3, Cự Doanh không đủ vải cho dân may tấm áo manh quần, cả năm chỉ được tiêu chuẩn
3,6 mét/người, thì miền Nam có cả rừng nhà máy dệt, đủ loại vải vóc, chưa bao
giờ phải phân phối. Tôi từng đến nhà máy dệt Tái Thành ở quận Tân Bình, nhìn
dàn máy tự động của nó mà khiếp, so với nhà máy dệt Nam Định mà tôi từng về thực
tập sưu tầm văn học dân gian thì thấy một trời một vực (sau này Tái Thành bị quốc
hữu hóa, đổi tên là Thành Công). Nhà máy sản xuất đường, sữa, mì ăn liền, xà
phòng, bột giặt, quạt máy, xe đạp, máy khâu, máy nông nghiệp, giấy, sành sứ,
xay xát gạo… của các nhà tư sản trong nước cùng ngành nghề cạnh tranh nhau hầu
như đáp ứng dư thừa cho đời sống vật chất sinh hoạt nhân dân.
Trước
30.4, miền Nam không có cảnh dân chúng xếp hàng mua từng mét vải, từng chục ký
gạo, vài hộp sữa, mấy cân đường… bởi hàng hóa không bao giờ thiếu. Không có những
cái bát ăn cơm đến tay người tiêu dùng vẫn còn nguyên mảnh mẻ dính chặt vào mà
vẫn phải mua phải dùng, không có cục xà phòng cứng như đá… bởi nếu làm ra thứ
hàng như thế sẽ chả bán được cho ai. Anh vợ tôi kể nông dân đi làm đồng cũng chạy
xe đạp ra bỏ ở đầu bờ. Chiếc xuồng bé tí cũng gắn máy Kohler nổ phành phạch
băng băng trên rạch. Không có sự ao ước thèm đường thèm sữa.
Một
đồng nghiệp, thầy Nguyễn Hữu Pha dạy môn hóa cùng trường với tôi kể rằng anh chỉ
dạy 2 tháng là tiết kiệm mua được chiếc xe máy Honda Dame 50 của Nhật mới cứng.
Thầy khác, thầy Võ Thanh Long (lý) nói thêm thời thầy còn sinh viên trường đại
học Khoa học, chỉ dạy kèm học trò mà thầy đưa được cả mấy đứa em từ Quảng Ngãi
vô Sài Gòn ăn học. Anh vợ tôi kể nhà ở dưới quê nên chả bao giờ quan tâm đến gạo,
còn cá lóc, cá rô trong khạp lúc nào cũng đầy, muốn ăn thò tay vào bắt vài con,
bởi cá tôm quá rẻ, lại dễ kiếm, rộng sẵn vào khạp để đỡ phải ra chợ. Xe đò của
hàng chục hãng đi lại như mắc cửi, giá vé rẻ rề, chủ xe chiều khách như chiều
vong…
Tất
cả sự “phồn vinh giả tạo” ấy bị chấm dứt kể từ tháng 4.1975. Những điều nói
trên tôi chỉ được nghe kể, còn cái nghèo đói thực thì chính mắt tôi chứng kiến.
Tôi từng đi trên những chuyến tàu hỏa hành trình bắc - nam mất 72 tiếng đồng hồ,
trên đó chất đầy xe đạp, khung xe đạp, vải vóc, đường sữa, gạo, giấy, cục pin,
cuộn băng vệ sinh, gói mì ăn liền… chuyển từ nam ra bắc. Những chuyến hàng thực
chứ hoàn toàn không giả tạo chút nào đổ về nơi từng được coi là hạnh phúc. Nhiều
người vỡ lẽ, lắc đầu ngao ngán. Thời ấy người ta truyền tai nhau câu văn vần
“Hoan hô Hồ Chí Minh, mua cái đinh cũng phải giấy. Đả đảo Thiệu Kỳ, muốn cái gì
cũng có”. Sự thất vọng ê chề. Nhưng buộc phải chấp nhận, không còn cách nào
khác.
Những
năm từ 1976 đến đầu những năm 80, trường DBĐH TP.HCM mà tôi dạy có mời nhiều thầy
cô từ Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội vào dạy một số học phần do thiếu giảng viên.
Tôi còn nhớ môn văn có mời các thầy Nguyễn Lộc, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức
Dân (đều là giáo sư) vào dạy. Các thầy ở cư xá Thanh Quan trên đường Võ Thị Sáu
(Hiền Vương cũ), mỗi chuyến về Bắc đều lụ khụ hành lý tinh những xà phòng cây
(loại xà phòng gia công khối vuông dài hơn gang tay, rẻ tiền), vải vóc, quần áo
thun… bởi ngoài Bắc những thứ ấy bấy giờ rất thiếu. Càng nhớ đến những sự ấy
càng thương các thầy. Các thầy đều còn sống, ai không tin cứ hỏi.
Đều
dễ nhận ra là không phải mọi gia đình, mọi con người ở miền Nam trước năm 1975
đều đầy đủ, sung túc. Nhưng nếu tính theo tỷ lệ về sự nghèo đói của chính người
dân thì có lẽ nơi đây (miền Nam) chỉ bằng một phần nhỏ của miền Bắc nghèo đói đại
trà, kéo dài. Cái gọi là “phồn vinh giả tạo” có lẽ phải đặt lại, ngược chiều
thì mới đúng. Chả cần hỏi ai đâu xa, những người đã sống ở miền Nam trước và
sau 1975 sẽ có nhận xét trung thực nhất về "phồn inh giả tạo". Còn
tôi, chỉ dám nói về cái nghèo đói thực mà chính mình và bạn bè cùng lứa trải
qua thôi.
Nguyễn
Thông
No comments:
Post a Comment