Biển
Đông : Từ Gia Long đến chính quyền thuộc địa Pháp, tính liên tục của chủ quyền
Chi
Phương - RFI
Đăng
ngày: 05/05/2025 - 15:32 - Sửa đổi ngày: 05/05/2025 - 15:38
Mặc dù
trong suốt một thời gian dài, Pháp « quên » hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng những chính sách hàng hải của thực dân Pháp đã
để lại di sản pháp lý và chiến lược, cho phép củng cố các tuyên bố chủ quyền của
Việt Nam tại Biển Đông ngày nay. Trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt hồi đầu
tháng Ba 2025, chuyên gia Didier Ortholland làm sáng tỏ phần lịch sử ít được biết
đến này.
HÌNH
:
Ảnh
tư liệu chụp ngày 02/06/2014 : Tảu hải cảnh Trung Quốc (P) phun vòi rồng tấn
công tàu tuần duyên Việt Nam, gần dàn khoan thăm dò dầu lửa của Trung Quốc, tại
một vùng có tranh chấp chủ quyền, ngoài khơi miền Trung Việt Nam. AFP -
VIETNAM NEWS AGENCY
Ông
Didier Ortholland là chuyên gia về luật hàng hải, cố vấn đối ngoại của Pháp, đảm
nhiệm nhiều chức vụ khác nhau tại Cục pháp lý, thuộc bộ Ngoại giao Pháp. Hiện
là phó vụ trưởng Vụ Đông Nam Á. Ông vừa cho ra mắt cuốn sách « Les
Mers de Chine », tạm dịch là « Những vùng biển Trung Quốc ».
Cuốn sách nêu ra những khu vực thể hiện tham vọng của Bắc Kinh, đặc biệt là ở
Biển Đông, biển Hoa Đông. Liên quan đến Biển Đông, qua các tư liệu lịch sử, ông
đã phác thảo lại vai trò của chính quyền thuộc địa tác động như thế nào đến yêu
sách chủ quyền của Việt Nam tại khu vực này.
*
Xin
cảm ơn ông Didier Ortholland đã dành thời gian trả lời RFI Tiếng Việt, trước
tiên, ông có thể cho biết Pháp có chính sách như thế nào đối với Biển Đông khi
đô hộ Đông Dương ?
Didier
Ortholland :
Cho đến đầu thế kỷ 20, các quốc gia chỉ có thể tuyên bố lãnh hải rộng 3 hải lý.
Khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế (ZEE) rộng 200 hải lý vẫn chưa tồn tại. Điều
này có nghĩa là, Pháp giống như các cường quốc khác, không quan tâm đến những
gì nằm ngoài khơi, ngoại trừ việc giám sát các tuyến hàng hải chính. Do đó các
quy định về hàng hải tại khu vực này không hoặc ít được thiết lập bởi chính quyền
thực dân.
Đối
với Việt Nam, vua Gia Long đã chính thức chiếm đảo Hoàng Sa vào năm 1816, nhiều
lần cử tàu đến đó để đánh cá, và xác định các tuyến hàng hải. Người kế vị là
vua Minh Mạng cũng đã quyết định xây chùa, dựng bia để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam (còn được gọi là An Nam). Do đó, chủ quyền của Việt Nam ở khu vực này
đã được chứng thực từ lâu.
Nhưng
dưới thời Pháp đô hộ, Paris lại bỏ quên khu vực này, mà dồn mối quan tâm chính
vào đảo Hải Nam, hòn đảo có diện tích hơn 30 000 km2 ở phía bắc Biển Đông.
Vì hòn đảo này được xem là chiến lược và có thể gây ra nguy hiểm nếu như bị một
nước khác kiểm soát, đặc biệt là trước sự hiện diện của Nhật trong khu vực. Do
đó, có một thỏa thuận được thiết lập giữa Pháp và Trung Quốc, không để Trung Quốc
nhường quyền kiểm soát đảo này cho một nước khác.
*
Pháp
có những hành động gì trước các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ?
Didier
Ortholland :
Vào năm 1909, Pháp đã không có hành động nào khi Trung Quốc chiếm quần đảo
Hoàng Sa, nhưng Paris tiếp tục cử đến đó các phái đoàn thực hiện nghiên cứu
khoa học… Mãi đến năm 1931, Pháp mới lên tiếng phản đối Trung Quốc. Tức là
trong vòng hơn 20 năm, Pháp không có phản ứng nào. Nhưng cũng phải nói rằng
Pháp không hề công nhận quyền chủ quyền của Trung Quốc. Sau năm 1931, hai bên
đã có những trao đổi công hàm, Pháp đề xuất tìm bên trung gian đàm phán, nhưng
Trung Quốc từ chối.
Phản
ứng của Pháp còn chậm hơn đối với đảo Trường Sa. Khu vực này không được nhiều
người biết đến. Hải quân Pháp không muốn mạo hiểm đến đó vì sợ bị mắc cạn trên
rạn san hô. Tuy nhiên, trước sự hiện diện gia tăng của Nhật, đặc biệt là qua
các công ty khai thác khoáng sản, Pháp đã chính thức chiếm giữ đảo năm 1930, chỉ
một đảo thôi, nhưng đến năm 1933 thì Paris quyết định chiếm 5 đảo trong quần đảo
này, trước khi rơi vào tay Nhật. Vào thời điểm đó, có lo ngại được nêu ra, cho
rằng trong trường hợp xảy ra xung đột, Nhật có thể sử dụng khu vực này để hạ
cách thủy phi cơ, hoặc xây dựng căn cứ quân sự (trước khi bị Nhật chiếm vào năm
1939).
*
Liệu
những hành động mà Pháp thực hiện tại khu vực này, có định hình các yêu sách chủ
quyền sau này của Việt Nam và các nước trong khu vực hay không ?
Didier
Ortholland : Khi
nói đến tính hiệu lực trong luật pháp quốc tế, nghĩa là sự hiện của một lực lượng
trên một lãnh thổ, để tuyên bố chủ quyền với lãnh thổ đó. Do đó điều này rất
quan trọng đối với các đảo của Việt Nam trên Biển Đông. Pháp với tư cách là bảo
hộ của đế chế An Nam, đã tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, đặc biệt là
dựa vào việc hoàng đế Gia Long kiểm soát khu vực này vào năm 1816. Việc
Pháp chính thức chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, rất quan trọng, cho phép Việt Nam
có thể tuyên bố rằng đó là di sản để lại từ chế độ thuộc địa.
Ngay
sau khi Pháp rút quân từ năm 1956, chính phủ miền Nam Việt Nam đã chiếm nhiều đảo
ở Trường Sa và khẳng định chủ quyền với các hòn đảo ở đó.
Tính
liên tục trong lịch sử cũng khá hữu ích cho Việt Nam trong luật pháp quốc tế,
cho rằng nhà nước thực dân, không có quyền chia cắt lãnh thổ mà họ kiểm soát.
Điều này có thể cho là theo một cách nào đó, Trường Sa thuộc Đông Dương dưới thời
Pháp thuộc, do đó Việt Nam cũng được thừa hưởng.
*
Ông
có thể giải thích các tranh chấp chủ quyền hiện nay ở Biển Đông, khu vực được
cho là chiến lược và giàu tài nguyên ?
Didier
Ortholland :Các
tuyên bố chủ quyền tại khu vực này chồng lấn nhau. Trung Quốc là nước duy nhất
tuyên bố có quyền lịch sử, và có chủ quyền trên gần như toàn bộ Biển Đông và
không được luật pháp quốc tế công nhận. Các nước khác như Việt Nam,
Philippines, Malaysia và Indonesia thì có những yêu sách thông thường, phù hợp
với luật pháp quốc tế. Tất cả các nước đều cố tìm cách kiểm soát các đảo, hoặc
các khu vực, có thể do lãnh hải và đặc quyền kinh tế từ những điểm đó.
Tại
khu vực chứa khoảng 12 % nguồn thủy sản của thế giới, đóng vai trò quan trọng đối
với an ninh lương thực của người dân ven biển, và là trục giao thông hàng hải
Á-Âu quan trọng. Nhưng ngay cả khi không có dầu khí hay nguồn tài nguyên thủy sản
thì các nước cũng sẽ cố tìm cách kiểm soát vì lý do chủ quyền
*
Trong
cuộc xung đột tranh chấp chủ quyền ở biển Đông hiện nay, có điều gì mà ông thấy
đặc biệt, đáng chú ý nhất ?
Didier
Ortholland :Trung
Quốc sử dụng lực lượng quân sự đánh cá để tấn công, theo tôi, đây là hành động
chỉ có ở trong khu vực này. Hiện Trung Quốc được cho là có 300 thuyền bằng kim
loại, dài 50 mét, được điều đi đánh cá, nhưng thực chất là để chứng tỏ có sự hiện
diện của Trung Quốc ở đó. Khi Trung Quốc muốn đe dọa tàu của Việt Nam hoặc
Philippines thì cử hàng chục tàu dân quân đánh cá đến đó, và được cho là có hiệu
quả. Chiến lược này đã được Trung Quốc triển khai từ năm 2013, và Việt Nam cũng
học theo cách tương tự. Nhưng chính sách của Việt nam đối với lực lượng dân
quân đánh cá lại khá khiêm tốn, vì không phải là tàu sắt, mà chỉ là tàu gỗ, dài
24 mét, số lượng ít hơn nhiều.
*
Liệu
trong cuốn sách của mình, ông có cố gắng tìm ra câu trả lời giải quyết các xung
đột tại khu vực này ?
Didier
Ortholland :
Tôi cho rằng cuốn sách của mình chỉ làm sáng tỏ vấn đề, vì không hề đơn giản để
tìm ra giải pháp. Bởi vì vấn đề ở Biển Đông, liên quan đến các nước lớn như
Trung Quốc, Hoa Kỳ và một số nước trong khu vực. Tôi cho rằng các giải pháp giải
quyết xung đột quốc tế có thể được tìm ra, tôi cũng đã đề xuất một số giải
pháp. Nhưng vấn đề ở đây là các bên phải tìm được đồng thuận, cùng đối thoại để
giải quyết các khác biệt.
------------------------------
Các
nội dung liên quan
MỸ
- PHILIPPINES
Philippines
và Mỹ tập trận với kịch bản "chiến đấu quy mô lớn" tại Biển Đông
PHILIPPINES
- TRUNG QUỐC - BIỂN ĐÔNG
Philippines
nêu quan ngại về Biển Đông trong các đàm phán giữa ASEAN-Trung Quốc về COC
BIỂN
ĐÔNG - TẬP TRẬN
Hải
quân Mỹ, Nhật và Philippines tổ chức tập trận chung ở Biển Đông
No comments:
Post a Comment