Feb 09, 2019
Tác giả Nguyễn Thanh Mai hiện đang định cư tại
Praha, Cộng hoà Séc. Bà là thành viên của Văn Lang, một tổ chức phi chính phủ
hoạt động trong cộng đồng người Việt Nam tại châu Âu. Bài gốc tiếng Tiệp được
đăng tại
đây.
------------------------
Mọi diễn biến chính trị cho đến nay đều cho thấy
Liên minh Châu Âu (EU) gần như không
thể thông qua Hiệp định Thương mại Tự do Châu Âu – Việt Nam (EVFTA) trong
năm 2019. Một nguyên nhân quan trọng trong đó là những vi phạm nhân quyền của
Việt Nam.
Các vòng đàm phán hiệp định bắt đầu năm 2012 và kết
thúc tháng 12/2015. Theo dự đoán tại thời điểm đó, hiệp định sẽ có hiệu lực từ
đầu năm 2018.
Để thông báo cho công luận tại Cộng hoà Séc về hiệp
định này, vào tháng 6/2016, trang mạng Bộ Công thương Séc đã đăng tải một
bài viết dài dưới tựa đề “Hiệp định tự do mậu dịch giữa Việt Nam và EU sẽ
mang lại những gì?”, trong đó có viết:
“Hiệp định sẽ dẫn đến tự do hóa thương mại cả hàng
hóa và dịch vụ. Phần lớn các loại thuế sẽ được dỡ bỏ ngay khi hiệp định có hiệu
lực, phần còn lại sẽ được dỡ bỏ dần trong khoảng thời gian chuyển tiếp kéo dài
từ bảy đến 10 năm… Thuế thuốc và các dược phẩm vốn là các mặt hàng được ưa chuộng
của nền xuất khẩu Séc cũng được dỡ bỏ một nửa và phần còn lại sẽ dỡ bỏ tiếp sau
bảy năm.
Hiệp định cũng bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ, việc
bảo vệ và thực thi các quyền này đã được quy định chi tiết hơn.
Trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ, Việt Nam đã nới
lỏng các điều kiện để doanh nhân nước ngoài có thể tham gia vào các lĩnh vực
như kiến trúc, máy tính, tài chính, bảo hiểm, bưu điện, bất động sản và dịch vụ
dọn dẹp.
Các nhà đầu tư của châu Âu sẽ được tiếp cận thị trường
Việt Nam một cách đơn giản hơn, bởi hiệp định tạo điều kiện cho họ kinh doanh
trong ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống, công nghiệp cao su và phân bón.
Việt Nam cũng cam kết bảo vệ các tiêu chuẩn mới, bao gồm hủy bỏ việc phân biệt
đối xử đối với nguồn đầu tư từ EU, và có cách tiếp cận mới đối với cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa chủ đầu tư và chính quyền.
Một khi hiệp định có hiệu lực, các chủ thể tại EU có
thể tham gia đấu thầu các gói thầu của nhà nước ở cả cấp trung ương cũng địa
phương. Trong số các cơ quan phát thầu, ngoài các cơ quan cấp bộ, còn có 34 bệnh
viện, hai cơ quan năng lượng của nhà nước và bốn viện nghiên cứu khoa học. Tiềm
năng mở ra đối với các doanh nghiệp châu Âu là rất lớn, bởi Việt Nam là nước có
phần trăm đầu tư của nhà nước trên mức GDP khá cao so với thế giới“.
Hai nghị sĩ Châu Âu đăng video trên Twitter bày tỏ sự lo ngại về tình
hình nhân quyền Việt Nam. Ảnh: Twiiter nhân vật.
Đã sang 2019 và hiệp định vẫn chưa thấy đâu. Trên
trang mạng của Quốc hội châu Âu có thể đọc thấy lý do của sự chậm trễ này là
tình trạng nhân quyền hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa
được cải thiện và “diễn biến trong lĩnh vực này có thể dẫn đến việc Quốc hội
hoãn hoặc từ chối chấp nhận phê chuẩn“.
Do vậy, có lẽ sẽ đúng lúc đúng chỗ để nhắc tới lá
thư của 32 vị nghị sĩ của Nghị viện Châu Âu đề ngày 17/9/2018 gửi tới bà
Cecilia Malmström, Ủy viên Thương mại và bà Frederick Mogherini, đại diện cấp
cao của EU để lưu ý về tình trạng nhân quyền ngày càng tồi tệ tại Việt Nam.
Ngoài các chi tiết khác, bức thư đã nhắc tới tên của những người đang bị tù
giam, hoặc đang bị quản thúc tại gia bởi họ thực thi quyền công dân cơ bản của
mình. Bức thư cũng đề nghị xem xét lại Luật An ninh mạng của Việt Nam theo hướng
thay đổi để phù hợp với Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị.
Những nghị sĩ tham gia ký tên dưới bức thư đã tuyên
bố, nếu Việt Nam không cố gắng giải quyết những câu hỏi cấp bách liên quan đến
quyền con người này, không có cải thiện cụ thể và không cam kết tôn trọng các
quyền con người trước khi Nghị viện Châu Âu bỏ phiếu, thì họ sẽ rất khó có thể
bỏ phiếu phê chuẩn hiệp định.
EVFTA là thỏa thuận toàn
diện và tham vọng nhất mà EU từng đàm phán với một nước đang phát triển như
Việt Nam. Nó đặt ra các
điều kiện về nhân quyền và yêu cầu đối tác thực thi các công ước nhân quyền
đã tham gia (ví dụ Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị như đã nhắc
ở trên). Nhưng trang mạng của Bộ Công thương của Séc không đề cập đến điều này,
và tại Việt Nam thì đề tài này lại càng là điều cấm kỵ.
Cho rằng, có thể cả người Séc cũng sẽ quan tâm, tại
sao một thỏa thuận thương mại lại hàm chứa yếu tố nhân quyền như là một điều kiện,
người viết liên hệ với Bộ Ngoại giao để tìm hiểu và nhận được câu trả lời sau
qua email: “Các điều khoản về nhân quyền có mặt trong tất cả các hiệp định
thương mại thế hệ mới giữa EU và các nước thứ ba. Sẽ là điều có lợi cho EU, một
khi thương mại với các nước thứ ba được xây dựng trên cơ sở là các giá trị nền
tảng của EU. Chỉ khi đó thì việc hợp tác kinh doanh mới bền vững và mới có thể
được công luận tại EU và cả các nước thứ ba chấp nhận“.
Thực tế là ngay từ đầu Việt Nam đã được biết tới điều
kiện này. Nhưng ngày 29/7/2016, chỉ hơn nửa năm từ ngày kết thúc đàm phán, Quốc
hội đã giao cho Bộ Công an nhiệm vụ soạn
thảo Luật An ninh mạng. Đạo luật này bị Tổ chức Ân xá Quốc tế lên
án là “một đòn chí tử đánh vào tự do ngôn luận“, là một phương tiện cho
phép chính quyền có thể buộc các nhà dịch vụ cung cấp Internet cung cấp một lượng
thông tin rất lớn, kể cả thông tin cá nhân của những người sử dụng Internet.
Qua đó, họ có thể kiểm duyệt các bài viết trên mạng. Điều đi ngược với Đạo luật
Bảo vệ Dữ liệu chung (General Data Protection Regulation – GDPR) của Liên minh
châu Âu.
Một thực tế nữa là trong năm 2017, các tòa án tại Việt
Nam do đảng Cộng sản kiểm soát đã kết
án 15 blogger và các nhà hoạt động. Trong năm 2018 thì con số đó đã tăng gần
ba lần, lên tới 42 người. Nhiều người trong số họ bị án hơn 10 năm tù, chẳng hạn
như ông Lê Đình Lượng, một nhà hoạt động môi trường, đã bị kết án 20 năm tù.
Ông Lê Đình Lượng bị kết án 20 năm tù vào năm 2018. Ảnh: AP.
Có thể nhớ lại rằng vào cuối thập niên 1980, Tiệp Khắc
cộng sản cũng là xứ sở của các nhà bất đồng bị truy tố một cách bất công, các
phiên tòa ngụy tạo và các bản án bỏ túi. Tiệp Khắc đã rất kỳ vọng vào chuyến viếng
thăm của Tổng thống Pháp Francois Mitterrand và trao đổi thương mại với nước
Pháp. Việt Nam ngày nay cũng trông chờ việc phê chuẩn EVFTA hệt như thế.
Vậy thì tại sao cho đến tận bây giờ Việt Nam vẫn
không tỏ ra có thiện chí với những người có chính kiến, cho dù các chính kiến
đó là hoàn toàn bất bạo động? Trong thời đại Internet, khi mà cả thế giới có thể
dễ dàng nhận biết tình hình, liệu lời nói và hành động của họ có thống nhất với
nhau? Không ai biết.
Nhưng có lẽ, ít ra thì 60 ngàn người Việt hiện đang
sinh sống tại Séc có thể biết rằng Cộng hòa Séc không quên các trải nghiệm dưới
thời toàn trị. Trong các
phiên điều trần Kiểm điểm Định kỳ Phổ về nhân quyền Việt Nam vào các năm
2014 và 2019, Cộng hòa Séc là một trong số ít các quốc gia đã khuyến nghị Việt
Nam thiết lập chế độ đa nguyên và cho phép bầu cử tự do, ngoài một số khuyến
nghị khác. Đó là một thái độ mang tính nguyên tắc.
Các khuyến nghị và tinh thần đoàn kết đến từ cộng đồng
quốc tế luôn có giá trị khuyến khích và là nguồn cảm hứng cho các nhà cải cách
trong nước. Thông thường thì yếu tố quyết định đến các tiến trình cải cách luôn
đến từ bên trong, chẳng hạn như là lời
kêu gọi hoãn phê chuẩn hiệp định mà các tổ chức dân sự tại Việt Nam gửi cho
ông Donald Tusk, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu và ông Bernard Langer, Chủ tịch Ủy
ban Thương mại quốc tế của Quốc hội Châu Âu vào ngày 18/01/2019. Thư có đoạn: “việc tạm dừng quá trình phê chuẩn EVFTA cho
đến khi chính phủ Việt Nam ngừng truy đuổi và đàn áp các nhà hoạt động nhân quyền
chính là gửi đi một tín hiệu rõ ràng rằng Liên minh châu Âu coi trọng cam kết của
mình trong việc sử dụng thương mại như là một phương tiện để thúc đẩy nhân quyền,
rằng Liên minh Châu Âu không mong đợi gì hơn ngoài các tín hiệu cụ thể, đích thực
rằng quốc gia này có thiện chí ngừng các cuộc đàn áp, để đàm phán về hiệp định
có thể tiếp tục.“
Có vẻ, EU đã quyết định giữ lời, để bên thứ hai, đến
lượt mình cũng biết tôn trọng các cam kết của chính mình.
No comments:
Post a Comment