(Trích "Những mảnh đời sau song sắt")
Tôi dám chắc với bạn rằng, người ta có thể sẵn sàng
chấp nhận, thậm chí mơ ước được chết nhưng chưa một ai trong thế giới con người
có nhu cầu ở tù, nhất lại là nhà tù cộng sản. Đó là điểm chung tuyệt đối và
bình đẳng của loài người.
Nhưng người ta vẫn muốn biết về nhà tù, về cuộc sống
của những con người trong cái nơi mà bản thân tên gọi của nó vốn tạo nên sự
“rùng rợn” và gợi trí tò mò một cách mãnh liệt.
Nhiều người tin rằng “kẻ phạm tội” đáng bị quăng quật
vào cuộc sống khổ ải trong tù như thế. Tuy nhiên, ít người đủ lý trí, sự công
tâm và lòng trắc ẩn để hiểu rằng yếu tố phạm tội, án tù dành cho một con người
tất nhiên còn phải xét hành vi, việc làm, hậu quả gây ra (nếu có) của người bị
kết án, rồi xét đến hệ thống luật pháp (lạc hậu hay tiến bộ, phục vụ cho ai) với
các yếu tố liên quan khác. Đề tài này không thể bàn trong một bài viết ngắn bởi
một người không có chuyên môn như tôi. Và cũng không phù hợp trong khuôn khổ
câu chuyện tôi sắp kể. Tuy nhiên, cần khẳng định ngay là trong tương lai, hệ thống
pháp lý tại Việt Nam (chứ không riêng phạm vi liên quan đến công tác xét xử hay
án tù) sẽ phải xây dựng lại từ đầu nhằm kiến tạo một nhà nước dân chủ thời hậu
cộng sản.
Nhắc đến hai chữ “nhà tù”, người ta liên tưởng ngay
đến sự trừng phạt và khốn cùng. Cuốn sách nhỏ này, không có tham vọng làm thỏa
mãn mọi hình dung hay đáp ứng những tìm hiểu cần thiết của quý độc giả về nhà
tù cộng sản. Song, hy vọng rằng người đọc sẽ nhìn thấy một góc nho nhỏ trong
nhà tù với những câu chuyện còn chưa kể hết trong khoảng thời gian bốn năm tù của
tôi. Tất nhiên, tùy thuộc vào từng vùng miền cụ thể, hay mỗi giai đoạn lịch sử,
câu chuyện tù của mỗi người mỗi khác. Cho dù như thế, cũng cần thẳng thắn thừa
nhận với nhau rằng nhà tù cộng sản là hiện hữu của mọi khổ đau cùng cực, mọi nỗi
uất hận nghẹn ngào. Là đau thương, rệu rã, mệt mỏi, tăm tối và cả chết chóc. Là
sự tàn bạo và bất lực, là nhẫn tâm, thù oán, là trông đợi, tuyệt vọng, là nỗi
chết. Và là “địa ngục”. Địa ngục của những con người vẫn còn đang hít thở, đi lại
và cười khóc.
Abraham (Harold) Maslow(*) nhà tâm lý học người Mỹ
cho rằng, về căn bản nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu
cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs). Dựa vào sự phân loại của
Maslow, những gì diễn ra hàng ngày với lũ tù chúng tôi không hẳn là “cuộc sống”,
nó chỉ gần giống như thế mà thôi. Chính xác hơn, nó là mộc cuộc “tồn tại”.
Chúng tôi chỉ được “hưởng” một phần ít ỏi các nhu cầu
tự thân, tối căn bản của con người. Nếu không phải là một người tù, hẳn bạn sẽ
không bao giờ biết rằng ngoài cái ăn, nhu cầu được hít thở, ngủ, tắm, đi vệ
sinh… lại quan trọng như thế. Mà đã thuộc về những nhu cầu tự thân thì dù là
ông tổng thống Hoa Kỳ, tổng bí thư đảng cộng sản, ông giáo sư, nhà tu hành, anh
kỹ sư, chị công nhân, cậu bé đánh giày, chị lao công quét rác hay một người tù
-như tôi, đều bình đẳng. Tất nhiên khái niệm “bình đẳng” cần được hiểu theo
nghĩa để duy trì sự tồn tại, sự chuyển động của cái hình hài mang tên Con Người.
Thiếu những thứ ấy, con người không còn tồn tại.
Và đây là những điều tôi muốn kể bạn nghe về tiêu
chuẩn ăn, mặc, ở mà lũ tù chúng tôi được hưởng trong nhà tù trại 5 Thanh Hóa.
Đương nhiên chỉ tính thời gian tôi ở đây, tức là giai đoạn từ tháng 3 năm 2010
đến tháng 9 năm 2012 thôi. Theo lời kể của những người tù lâu án dài, thì điều
kiện giam giữ trước thời gian tôi lên trại, hay nhiều năm trước nữa, khó khăn
và khốn khổ hơn nhiều.
Tiêu
chuẩn về “Ăn”:
Mỗi tù nhân trong một tháng được 17 kg gạo; 07 lạng
thịt lợn; 08 lạng cá; 05 lạng đường; 15 kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; 01 lạng
bột ngọt và 15kg than và củi.
Nhà nước căn cứ vào giá cả thị trường thực tế tại địa
phương để định lượng cho các tiêu chuẩn này.
Quy định còn ghi rõ, các ngày lễ tết được ăn thêm
“nhưng không quá năm lần tiêu chuẩn ngày thường”. Con nhỏ của “Phạm nhân” (chữ
quy định của nhà nước) được hưởng như mẹ, được tặng quà trong ngày lễ thiếu nhi
1/6 và tết Trung thu.
Tiêu
chuẩn về “Mặc”:
Một người tù mỗi năm được phát hai bộ quần áo đồng
phục tù; 01 chiếc chiếu; 01 chiếc nón lá; 01 đôi dép nhựa; 03 lạng xà phòng; 02
bộ đồ lót. Mỗi bốn năm được cấp 01 chiếc màn; 01 chiếc chăn. Phải đủ hoặc hơn bốn
năm mới được, chưa đủ thì… đừng mơ. Người mới lên trại, cũng phải chờ nộp đủ bốn
năm công tù mới được hưởng xuất chăn màn như thế. Ngoài ra mỗi tháng, mỗi người
được phát hai gói giấy vệ sinh, loại vuông mỏng dính, 80 tờ một gói.
Tiêu
chuẩn về “Ở”:
Theo quy định thì tiêu chuẩn chỗ nằm dành cho mỗi
người tù là 2m2, tức phải rộng 5 viên đá hoa 20 cm, dài 10 viên. Trên thực tế,
nhà tù luôn quá tải nên người tù chỉ được 60 cm bề ngang.
Những thứ tôi liệt kê ở trên gần như là tất cả những
gì bạn có. Trong khi bạn vẫn phải lao động khổ sai, phải chấp hành vô số những
quy định ngặt nghèo, vô lý khác của trại giam và của chính cai tù đặt ra. Bạn sẽ
đo lường được khả năng tồn tại và mức độ chịu đựng của mình trong nhà tù cộng sản.
Đấy là về số lượng thôi, chưa bàn đến chất lượng.
Hãy đặt mình vào vị trí của kẻ “không gia đình”, tức là không có người thăm
nuôi, không được tiếp tế, bạn sẽ xoay sở thế nào để tồn tại nếu không có sự cưu
mang của bạn tù? Bạn tù, tức là những người cũng khốn khổ như mình, có điều
hàng tháng hoặc thi thoảng họ được gia đình tiếp tế để không phải ngửa tay đi
xin từng cuộn băng vệ sinh, cái bàn chải đánh răng hay ít dầu gội đầu.
Nhắc đến băng vệ sinh, tôi lại nhớ đến những chuyện
cười khóc, khóc cười trong cái Phân trại chật trội với hơn một ngàn nữ tù nhân
khốn khổ.
Hôm ấy, lần đầu tiên tôi đến tháng kể từ ngày lên trại.
Thì chuyện ấy có gì lạ đâu, người phụ nữ nào chẳng như nhau. À không, không hẳn
thế. Tôi đã lo lắng và hốt hoảng bao nhiêu khi chứng kiến nhiều chị em lúc vào
tù đã không còn cái sự bình thường của người phụ nữ nữa. Gọi ngắn gọn là “mất
kinh”. Có người bị “tịt” đến mấy tháng mới có lại. Có người một vài năm và có
người thì mất hẳn. Khi ra tù, tôi có hỏi một số bác sĩ, được họ giải thích rằng,
do bị thay đổi môi trường sống và vì yếu tố tâm lý nên xảy ra hiện tượng đó.
Tôi may mắn đã không bị rơi vào tình trạng đáng sợ ấy.
Tôi không hiểu vì sao chị Hoa, người bạn tù bên cạnh
cứ liếc sang chỗ tôi, dường như muốn gợi chuyện. Ba mươi ba tuổi, tôi không còn
thấy xấu hổ khi bị bạn tù nhìn trộm lúc đang dán miếng băng vệ sinh vào đáy quần
lót, giống như việc chị ta làm mỗi kỳ kinh nguyệt. Hình như chị ta muốn nói gì
đó, song lại thôi.
Ít hôm sau, đến lượt chị ta làm cái việc giống như
tôi hôm bữa. Nhưng ở đáy quần lót của chị Hoa không phải miếng băng vệ sinh trắng
phau như của tôi, mà là một miếng vải vụn đã cũ. Tôi bần thần, chẳng muốn tin
vào điều mình vừa trông thấy.
Chị Hoa người dân tộc Thái. Khi tôi vào, chị đã ở
nhà tù này gần chục năm rồi. Chị bị án chung thân vì buôn bán ma túy. Chị hiền,
tôi không hiểu vì sao tôi lại gặp nhiều người phụ nữ hiền như thế trong nhà tù.
Những chị Hoa, chị Quế, chị Mùi, chị Huyền, chị Minh ở cùng buồng giam với tôi,
nhẹ nhất cũng mười sáu năm hoặc chung thân. Tôi tưởng đi buôn ma túy là phải
ác, phải dữ dằn, chí ít cũng cần ghê gớm một chút chứ.
Trong túi nội vụ của chị Hoa và của nhiều người tù
“không gia đình”, luôn có những miếng vải vụn như thế. Nó được cắt ra từ những
bộ quần áo cũ, rồi giặt sạch sẽ, khâu lại cẩn thận để dùng thay cho băng vệ
sinh hàng tháng. Không phải chị Hoa không mua nổi cái thứ tối cần thiết ấy, mà
chị muốn để dành tiền đóng khoán. Số tiền ít ỏi chị dành dụm được từ việc múc
nước, giặt quần áo và rửa bát thuê cho những người tù khác. May mà làm thuê cho
tù còn được trả công, không giống như làm cho trại, cho cai tù, vớ vẩn còn bị
phạt, hoặc bị kỷ luật thì hết giảm án.
Ra đến xưởng lao động là chị cặm cụi ngồi, mắt không
rời chiếc khung thêu. Thậm chí, buồn đi tiểu chị cũng nhịn: “Chờ hết giờ làm rồi
về buồng “đái” một thể”. Chị hay nói với tôi như thế. Chị tiếc mấy đường kim
mũi chỉ, thiếu sản phẩm sẽ không được giảm án. Sức tù không đáp ứng nổi mức
khoán “trên trời” nên phải mua sản phẩm từ người tù khác, hoặc nộp tiền cho cai
tù mới đủ chỉ tiêu. Nói thô một tí, thì cái mong muốn thoát khỏi nhà tù cấp thiết
hơn nhu cầu đi đái, đi ỉa, quan trọng hơn cả sĩ diện. Cho dù cái sự cấp bách ấy
có khi bắt người ta phải chờ đợi và gồng mình phấn đấu đến ngót hai mươi năm trời.
Từ hôm ấy, mỗi tháng tôi cho chị Hoa hai cuộn băng vệ
sinh. Nhưng tôi vẫn trông thấy chị dùng các mảnh vải cũ để lót. Hỏi, thì chị
nói dùng vải cũ quen rồi, hai cuộn băng vệ sinh ấy để bán lấy tiền, “tiết kiệm
được chừng nào hay chừng ấy”. Lần nào chị cũng nói như thế. Tôi phát bực, nhưng
vẫn cho. Sau này tôi chuyển buồng, chị Hoa bị mất một khoản thu nhập nho nhỏ là
hai cuộn băng vệ sinh hàng tháng. Không phải tôi không thương chị nữa, nhưng
trong nhà tù chật chội này, đi từ khu nhà giam nọ đến khu nhà giam kia có vài
bước chân thôi, cũng là xa lắm. Vả lại, buồng giam mới cũng có người dùng vải vụn
thay cho băng vệ sinh, tôi lại có người để cho.
Những người tù lâu, thậm chí có người phải trở lại
Trại 5 này đến lần thứ ba, đều coi chuyện không được phát băng vệ sinh là chuyện
bình thường. Họ ngạc nhiên lắm, có chị tái cả mặt khi nghe tôi nói “nhà tù phải
có nghĩa vụ cung cấp băng vệ sinh cho chúng mình”. Người ta rỉ tai nhau câu ấy,
cứ như sắp có cuộc cách mạng đòi băng vệ sinh trong Phân trại đến nơi.
Tôi gặp cai tù hỏi vì sao không phát băng vệ sinh. Hồi
ấy mới lên trại, tôi còn chưa phân biệt được cai tù to với cai tù nhỏ nên gặp
người nào hỏi người ấy.
Người thì nói “quy định của nhà nước bao nhiêu năm vẫn
thế. Chúng tôi chỉ thi hành chứ có làm ra luật đâu”. Lại cai tù khác trả lời
“Thì băng vệ sinh đã được thay bằng giấy vệ sinh còn gì”. Hỏi thêm vài câu nữa
thì được trả lời rằng “có thắc mắc gì chị đi mà gặp Ban giám thị. Chúng tôi
không biết”.
Nhưng Ban giám thị không ai muốn gặp tôi. Có lần tôi
đã thấy thấp thoáng bóng dáng bà Nguyễn Thị Can, phó Giám thị đang lượn ngoài
sân chung, vừa chạy ra bà ta đã biến mất.
Tôi không coi chuyện đòi hỏi để được hưởng xuất băng
vệ sinh hàng tháng là một cuộc tranh đấu gì ghê gớm. Nhưng những bạn tù yêu quý
tôi thì căng thẳng lắm. Họ khuyên tôi mặc kệ mọi sự, lý luận rằng “Không có mày
thì bọn tù vẫn thế, vẫn chịu khổ được, có ai chết đâu. Với lại đòi cũng không
được. Chả bao giờ chúng nó nhượng bộ”. Tôi bảo: “Đã đòi đâu mà nói không được.
Các chị không cần, nhiều người khác cần”.
Nhưng tôi không vội. Tôi cũng không hề nghĩ đến chuyện
phải tuyệt thực để yêu cầu cai tù phát băng vệ sinh cho phụ nữ ở trong tù. Cai
tù sai ăng -ten dò hỏi ý tôi, sẽ làm gì tiếp theo để “đòi băng vệ sinh”. Tôi cứ
nửa đùa nửa thật, thái độ khi bông phèng, khi nghiêm túc. Khiến họ không biết đằng
nào mà lần.
Bẵng đi vài tháng, tôi không đả động gì đến chuyện
đòi băng vệ sinh nữa. Cả tù lẫn cai tù đều tưởng tôi quên, hoặc đã buông, thoái
lui không muốn đòi hỏi hay hoạnh họe gì nữa. Hôm ấy gia đình lên thăm, tôi vui
lắm. Tôi sẽ lại được gặp mẹ và các chị gái của tôi. Những cuộc thăm viếng, tiếp
tế của gia đình khiến cuộc đời tù bớt cơ cực và bớt dài. Trên đường đi bộ từ
Phân trại ra nhà thăm gặp, tôi nói với người cai tù:
- Tôi hỏi thật nhé, nếu bây giờ có một tù nhân tuyệt
thực đến chết chỉ để đòi quyền được cấp phát băng vệ sinh, thì sao nhỉ?
Chị ta bất ngờ, chỉ lặng thinh, không nói một lời.
Tôi cũng không nói thêm một câu nào nữa.
Chiều hôm ấy, tôi đang đi dạo quang sân trại thì có
người tìm. Chị Nga Phúc đang ngồi chờ tôi ở gần khu bệnh xá.
- Này, chúng nó sắp phát băng vệ sinh đấy. Hôm nọ chị
đi họp, thông báo rồi. Nhưng mày cấm được để lộ ra là chị khoe đấy nhé.Không
thì chết tao.
Vẻ mặt chị Nga Phúc lúc ấy khó tả thật. Vừa căng thẳng,
sợ sệt, nhưng vẫn không giấu được vẻ mãn nguyện. Làm như cái sự cai tù phải nhả
băng vệ sinh ra là chiến thắng lớn lao lắm không bằng. Mà cũng lớn lao thật, từ
trước tới nay đã được thế bao giờ.
Thường thì tôi rất ít ra sân chung xếp hàng nghe cai
tù đọc thông báo hay giáo huấn mỗi thứ hai đầu tuần, trừ khi muốn chứng kiến điều
gì đó mà mình quan tâm. Được chị Nga Phúc rỉ tai từ trước, tôi ra xếp hàng chứng
kiến thành quả “cuộc cách mạng đấu tranh đòi băng vệ sinh” của mình. Đấy là câu
từ mà cánh tù mỉa mai, vụng trộm nói với nhau.
Vậy là từ nay trở đi, chị Hoa, chị Quế, chị Mùi và
nhiều chị tù “không gia đình” ở khắp cái Phân trại số 4 này sẽ không phải dùng
vải vụn để lót mỗi chu kỳ kinh nguyệt nữa. Nhưng cơn mừng rỡ của lũ tù nhân nữ
không trọn vẹn. Xuất giấy vệ sinh hàng tháng bị cắt. Nói cho chính xác, nó đã
được thay thế bằng băng vệ sinh, chứ cai tù chẳng mất đi đâu đồng nào. Đa số chị
em đều hài lòng, nhưng các bà già thì thất vọng. Có người chửi thầm ngay trong
lúc cai tù còn chưa nói xong. Tất nhiên là chỉ chửi đủ cho người bạn ngồi sát
bên cạnh nghe thấy.
- Các chị sinh từ năm 1952 trở về sau thì được phát
băng vệ sinh. Những chị sinh từ năm 1952 trở về trước thì được phát giấy.
Người cai tù dõng dạc, như vừa tuyên bố ban phát một
ân huệ trước nay chưa từng có.
- Dở hơi!
Những người tù xung quanh quay sang nhìn tôi, không
ai dám bàn tán. Mấy cai tù đứng gần đấy cũng nghe thấy, nhưng lờ đi.
Tôi buông tiếp một câu nữa, cố tình để những người
xung quanh nghe thấy:
- Sinh năm 1952, tức là năm nay đã 59 tuổi. Má ơi,
59 tuổi vẫn bị ép dùng băng vệ sinh.
Tôi ít khi cười khẩy, nhưng nó thích hợp trong tình
huống này. Nói xong, tôi đứng dậy, bỏ xuống khu căng tin chơi với thằng Bimbo,
chờ giờ xuất trại. Tôi bỏ đi để đỡ phải nghe những điều ngớ ngẩn. Không cai tù
nào cản tôi hoặc yêu cầu tôi trở lại vị trí xếp hàng. Họ quen với việc tôi “một
mình một kiểu” rồi, không muốn can thiệp.
Tôi coi phận sự của mình đến đấy là xong. Còn việc
phân loại tuổi tác, ai mãn kinh, ai còn kinh để chọn lựa giữa băng vệ sinh với
giấy vệ sinh là việc còn lại của tù nhân và cai tù. Tất nhiên, không phải người
tù nào cũng hiểu vì sao bỗng nhiên họ lại được phát băng vệ sinh sau bao nhiêu
năm ở tù dài đằng đẵng. Tôi cũng không nghĩ mình ghê gớm hay tài giỏi gì cho lắm
khi làm được cái việc cỏn con như thế. Với lại, cai tù chẳng bao giờ thừa nhận
vì tôi mà họ phải nhượng bộ. Tất cả đều do sự nhân đạo của đảng mà ra. Nhân đạo
nên mới phát băng vệ sinh phụ nữ cho tù. Chỉ có điều, trước khi tôi vào, họ
chưa kịp thi hành chính sách nhân đạo ấy thôi. Tôi thì chẳng quan trọng, miễn
là chị em không phải nhếch nhác, khổ sở mỗi khi đến tháng. Mọi chuyện khác
không đáng nhắc đến.
Chuyện đọa đày, chuyện ăn, mặc, ở còn dài lắm. Nó là
chuyện hàng ngày của người tù. Mà chuyện hàng ngày, thì kể đến bao giờ mới hết.
Chú thích: Abraham (Harold) Maslow (1/4/1908-
8/6/1970) là một nhà tâm lý học người Mỹ. Ông được thế giới biết đến qua mô
hình nổi tiếng Tháp
nhu cầu và được coi là cha đẻ của tâm
lý học nhân văn.
No comments:
Post a Comment