01.12.2015
Lâu
nay, để biện hộ cho chính sách nhường nhịn đến nhu nhược trước những hành động
xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc, chính phủ Việt Nam thường nêu lên ba lý do
chính:
Thứ nhất, về địa lý, Việt Nam nằm cạnh Trung
Quốc nên ít nhiều phải chịu đựng Trung Quốc để có được hoà bình; thứ hai, về ý thức hệ, Việt Nam và
Trung Quốc đều theo chủ nghĩa xã hội, và do đó, đều là “đồng chí” của nhau; và thứ ba, về lịch sử, Việt Nam từng chịu
ơn Trung Quốc rất nhiều trong hai cuộc chiến tranh (chống Pháp, 1949-54, và chiến
tranh Nam Bắc, 1954-75) trước đây.
Những sự
biện hộ ấy liệu có sức thuyết phục?
Theo
tôi thì không.
Trước hết, không ai phủ nhận Việt Nam vốn có
hơn 1000 cây số chung biên giới với Trung Quốc, do đó, không thể không chịu ảnh
hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên ở đây có hai điều nên nhớ: Một, ngày xưa, cha
ông chúng ta cũng từng chung biên giới với Trung Quốc nhưng vẫn giữ được độc lập
và chủ quyền của quốc gia. Không kể một ngàn năm Bắc thuộc, chỉ tính từ ngày độc
lập (thế kỷ thứ 10), Trung Quốc từng âm mưu thôn tính Việt Nam gần cả chục lần,
nhưng tất cả đều bị đánh bại. Hai,
không phải nước nào gần Trung Quốc cũng đều cam chịu những sự ngang ngược của
Trung Quốc. Đất rộng, ngoài Việt Nam, Trung Quốc có chung biên giới với 13 quốc
gia khác, trong đó, trừ hai nước lớn là Nga và Ấn Độ, tất cả các nước khác, nhỏ
hơn, vẫn giữ được vị thế độc lập với Trung Quốc. Tấm gương rõ nhất là Miến Điện,
nước có hơn 2000 cây số chung biên giới với Trung Quốc, từng chịu nhiều ảnh hưởng
của Trung Quốc, nhưng mấy năm gần đây, vẫn thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc để
bắt đầu dân chủ hoá. Ngay cả Bắc Hàn, nước có đường biên giới dài nhất với
Trung Quốc, lệ thuộc Trung Quốc rất nhiều về kinh tế, vẫn giữ được ít nhiều sự
độc lập với Trung Quốc về phương diện chính trị. Bởi vậy, sự gần gũi về phương
diện địa lý không hề là yếu tố tất yếu dẫn đến sự lệ thuộc.
Thứ hai, việc hai quốc gia cùng theo chủ nghĩa
xã hội không bảo đảm hoà bình và tôn trọng chủ quyền của nhau. Trước đây, các
quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa, kể cả hai nước đứng đầu là Trung Quốc và
Liên Xô, cũng thường xuyên xung đột, có khi là xung đột vũ trang, với nhau. Hai
cuộc chiến tranh gần đây nhất của Việt Nam cũng là hai cuộc chiến tranh với hai
nước xã hội chủ nghĩa: Campuchia (1978) và Trung Quốc (1979). Trong cuốn Imagined
Communities: Reflections on the Origins and Spread of Nationalism(1983),
Benedict Anderson cho hai cuộc chiến tranh ấy là bằng chứng rõ nhất cho thấy, đối với mọi quốc gia, quyền lợi
dân tộc quan trọng hơn hẳn vấn đề ý thức hệ. Hầu hết các nhà lãnh đạo Việt
Nam hiện nay đều có kinh nghiệm trực tiếp về hai cuộc chiến tranh ấy, họ không
thể không biết điều đó. Hơn nữa, hầu như ai cũng biết, cái gọi là chủ nghĩa xã
hội tại Việt Nam và Trung Quốc hiện nay, thật ra, chỉ là một chiêu bài nhằm nguỵ
trang một chế độ độc tài toàn trị mà thôi. Nó không còn là những niềm tin thực
sự để người ta, vì nó, bỏ qua những mâu thuẫn về quyền lợi với nhau.
Thứ ba, về chuyện ân nghĩa. Quả thật, từ năm
1950 đến 1975, Trung Quốc từng giúp đỡ Bắc Việt rất nhiều. Họ không những cung
cấp vũ khí, quân trang, quân dụng mà còn cung cấp cả thực phẩm cho dân chúng và
bộ đội miền Bắc. Họ đưa phi công sang Việt Nam để huấn luyện các phi công Việt
Nam. Trong vòng mấy năm, từ 1965 đến 1969, họ còn đưa cả mấy trăm ngàn kỹ sư và
công nhân sang để giúp Việt Nam xây dựng cả trăm cây số đường sắt, xây dựng cả
hàng chục chiếc cầu và đường hầm, v.v… Theo thoả ước giữa giới lãnh đạo hai
bên, nếu lính Mỹ chỉ giúp quân đội miền Nam chống lại các cuộc tấn công của miền
Bắc, Trung Quốc chỉ giữ vai trò là hậu phương của miền Bắc, chủ yếu là cung cấp
toàn bộ những gì miền Bắc cần để tiến hành chiến tranh. Nếu Mỹ dùng hải quân và
không quân để tấn công miền Bắc, Trung Quốc cũng sẽ đưa hải quân và không quân
sang Việt Nam. Nếu Mỹ xua quân sang đánh chiếm miền Bắc, Trung Quốc cũng sẽ đưa
bộ binh sang để trực tiếp đối đầu với Mỹ. Nói chung, Trung Quốc xem cuộc chiến
tranh ở Việt Nam như là cuộc chiến tranh của chính họ. Có thể nói, nếu không có
những sự trợ giúp tích cực của Trung Quốc, Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc)
sẽ không có Điện Biên Phủ và ngày 30 tháng Tư 1975. Giới lãnh đạo cộng sản biết
ơn Trung Quốc kể cũng phải.
Tuy
nhiên, quan hệ chính trị giữa hai quốc gia khác quan hệ ân tình giữa các cá
nhân trong đời thường. Trong quan hệ liên cá nhân, người ta giúp đỡ nhau có khi
chỉ vì lòng tốt. Trong quan hệ liên quốc gia, mọi sự giúp đỡ đều xuất phát từ
quyền lợi. Nói cách khác, Trung Quốc giúp miền Bắc chủ yếu là vì chính họ hơn
là vì miền Bắc. Theo Chen Jian, trong
bài “China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69” (đăng trên The China
Quarterly, số 142, 1995), lý do khiến Trung Quốc nhiệt tình giúp miền Bắc có thể
tóm gọn vào ba điểm chính:
Một là, sau sự thất bại của chiến dịch Đại nhảy
vọt vào cuối thập niên 1950, uy tín của Mao Trạch Đông xuống thấp. Để củng cố lại
quyền lực của mình, Mao muốn đóng vai trò một người kiên quyết chống lại chủ
nghĩa đế quốc và người thúc đẩy cuộc cách mạng vô sản đến cùng qua việc ủng hộ
cuộc chiến tranh “chống chủ nghĩa thực dân mới” ở Việt Nam. Qua động thái ấy,
ông cũng đồng thời phê phán một số nhân vật lãnh đạo trong đảng, như Lưu Thiếu
Kỳ và Đặng Tiểu Bình, là theo chủ nghĩa xét lại và muốn hoà hoãn với Mỹ.
Hai là, qua việc giúp đỡ Việt Nam, Trung Quốc muốn
tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô. Tuy là cùng theo chủ nghĩa xã hội, quan hệ
giữa Trung Quốc và Liên Xô từ giữa thập niên 1950, kể từ sau đại hội đảng lần
thứ 20 của đảng Cộng sản Liên Xô, càng ngày càng căng thẳng. Dưới mắt Mao Trạch
Đông, việc phê phán Stalin của Nikita Khrushchev là một hành động “xét lại”, nhằm
tái phục hồi chủ nghĩa tư bản ở Nga. Sang đầu thập niên 1960, hai bên công kích
nhau kịch liệt. Qua việc giúp đỡ miền Bắc, Trung Quốc nhắm đến hai điều: lôi
kéo miền Bắc vào quỹ đạo của Trung Quốc và chứng minh cho Liên Xô và cả thế giới
thấy Trung Quốc mới thực sự là cộng sản với chủ trương cách mạng không ngừng.
Ba là, cũng qua việc giúp đỡ miền Bắc, Trung Quốc
muốn đóng vai người lãnh đạo của khối xã hội chủ nghĩa trong công cuộc chống lại
“đế quốc” Mỹ ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Họ muốn chuyển trục của chủ
nghĩa xã hội từ Moscow sang Bắc Kinh. Họ cũng muốn xuất khẩu học thuyết lấy
nông thôn bao vây thành thị trong sách lược chiến tranh của Mao Trạch Đông sang
Việt Nam, và từ đó, đến các nước khác.
Tôi muốn thêm một lý do này nữa: Trung Quốc bảo vệ
miền Bắc để bảo vệ biên giới phía Nam của Trung Quốc. Điều Trung Quốc sợ nhất
là các chế độ được Mỹ ủng hộ tiến sát đến biên giới nước mình. Đó là lý do tại
sao Trung Quốc tung quân ra bảo vệ Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh kéo
dài ba năm với Nam Triều Tiên vào đầu thập niên 1950. Trung Quốc giúp miền Bắc
tấn công miền Nam Việt Nam cũng cùng một lý do.
Nói một
cách tóm tắt, việc Trung Quốc tận lực giúp miền Bắc trong cuộc chiến chống lại
miền Nam chủ yếu xuất phát từ quyền lợi của chính Trung Quốc. Đó không phải là
một ân nghĩa để khiến Việt Nam bây giờ phải nhường nhịn trước những hành động lấn
chiếm hay gây hấn ngang ngược của Trung Quốc trên biển và đảo của Việt Nam. Hơn
nữa, ngay cả đó là ân nghĩa thật, không ai có quyền đem độc lập và chủ quyền quốc
gia để đền đáp.
-------------------------------
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog
cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng
không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment