Thu,
11/26/2015 - 11:33 — nguyenthituhuy
Nhân
cuộc thảo luận đang diễn ra gần như trên phạm vi toàn xã hội về vị
trí thê thảm của môn lịch sử trong Dự thảo chương trình giáo dục
tổng thể do Bộ Giáo dục ban hành trong khuôn khổ dự án cải cách
giáo dục mà BGD đang thực hiện, tôi xin giới thiệu lại ở đây bài
phỏng vấn một giáo viên Pháp dạy môn lịch sử ở cấp trung học cơ sở,
từng công bố trên tạp chí Tia
sáng. Tựa đề do tôi đặt lại.
Khi
có thời gian tôi sẽ trở lại với dự thảo về cải cách chương trình
môn sử, một cách cụ thể.
Tạm
thời xin nêu ra đây mấy câu hỏi :
1/
Nếu coi việc rút bỏ thời lượng của môn sử và đem nó tích hợp với
hai môn khác là một sự cải cách, thì cải cách này sẽ mang lại kết
quả hay hậu quả nào ? Cải cách này liệu có góp phần giải
quyết các vấn đề hiện tại mà môn lịch sử đang gặp phải hay
không ? Những người thiết kế chương trình có hình dung tới kết
quả hay hậu quả của các đề xuất do mình đưa ra ?
2/
Tên gọi của môn lịch sử, trên thực tế, không tồn tại trong Dự thảo,
nó đã được thay thế bằng một tên mới « Công dân và Tổ
quốc ». Tên gọi này cho thấy, môn lịch sử thậm chí không có được
sự bình đẳng với hai môn mà nó tích hợp : giáo dục công dân và
giáo dục quốc phòng. Điều này, cộng với sự giảm thiểu thời lượng
đến mức thảm hại của môn sử (Theo ông Bùi
Mạnh Hùng cho biết, môn « Công dân và Tổ quốc » có
105 tiết/năm, như vậy, giả sử thời lượng của môn sử bình đẳng với
hai môn còn lại cho dù nó hoàn toàn không có mặt trong tên gọi của
môn học, thì nó cũng chỉ có hơn 30 tiết/năm), đã gây nên nỗi lo âu cho
nhiều bộ phận xã hội trước nguy cơ về sự biến mất của môn lịch sử.
Nguy cơ này có thật hay không ? Khi hình dung về nguy cơ này, nhiều
người nghĩ đến ý kiến của Havel, nguyên tổng thống Tiệp Khắc, về
việc trong chế độ toàn trị không có lịch sử, và đồng thời nghĩ đến
việc lịch sử đã bị viết lại như thế nào và bị xuyên tạc một cách
có hệ thống như thế nào trong các chế độ cộng sản.
3/
Nếu nguy cơ môn lịch sử biến mất là có thật, và nếu BGD và những
người soạn dự thảo chương trình cương quyết không thay đổi quan điểm
của mình, nếu việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo
chương trình giáo dục cũng có cùng bản chất với việc lấy ý kiến
đóng góp cho dự thảo hiến pháp sửa đổi vừa qua : dân đóng góp
ý kiến thì cứ đóng góp, phần quyết định thuộc về những người nắm
quyền lực, và khi quyết định người nắm quyền không thèm đếm xỉa đến
ý kiến của dân, thì trong trường hợp này, xã hội cần phải làm gì
để ký ức lịch sử của toàn dân tộc không bị xóa bỏ ?
4/
Những người bảo vệ xu hướng rút bỏ tối đa thời lượng môn sử và
tích hợp để biến nó thành một bộ phận của môn « Công dân và Tổ
quốc » cho rằng : « không
nên quan niệm giáo dục lịch sử trong nhà trường là phải dạy các kiến thức của
khoa học Lịch sử một cách hệ thống ».
Trong
khi đó quan điểm của giáo viên sử ở Pháp (tôi trích nguyên văn từ bài
phỏng vấn dưới đây) : « Các chương trình cũng phản ánh sự tiến triển
của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi cái gọi là Biên niên sử
(Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi các thành tố chính trị và
văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và xã hội, và các chủ đề
nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ hơn. »
Vì
sao có sự khác nhau trong quan niệm về môn sử ở trường phổ thông,
khác nhau đến mức trái ngược như vậy ?
5/
Cuối cùng : trong nhìn nhận của nhiều người, việc « tích
hợp » môn sử có lẽ cho thấy giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa
một cách sâu sắc như thế nào, và những người soạn chương trình bị
chính trị chi phối một cách đau đớn đến như thế nào.
Tuy
nhiên, nếu quả thật không phải như vậy, nếu quả thật những người
thiết kế chương trình lần này có tự do đề xuất ý tưởng của mình
và không bị cái vòng kim cô của Ban Tuyên giáo siết chặt, thì mong
rằng chúng ta có thể chứng kiến việc những người soạn chương trình
có tự do thay đổi ý tưởng, dựa trên việc phân tích thực tế xã hội
chính trị của Việt Nam hiện thời, dựa trên việc tiếp thu lòng dân và
nỗi niềm của tầng lớp trí thức.
Tự
do thay đổi Dự thảo còn là biểu hiện của lương tâm và trách nhiệm
của những người làm chương trình đối với thế hệ trẻ và đối với
vận mệnh dân tộc.
Paris,
26/11/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
----------------
Môn sử ở trường phổ thông: đa dạng quan điểm và sự
thật lịch sử
Nguyễn Thị Từ Huy : Trước hết, xin cám
ơn ông đã cho tôi dự tiết ông dạy về chủ nghiã Quốc-Xã ở lớp 9. Tôi theo
dõi ông làm việc với một nửa lớp, gồm những học sinh chậm tiến. Nhưng tôi không
cảm thấy là học trò của ông gặp khó khăn, vì ông đã thúc đẩy các em nói ra các
ý kiến của mình, giúp các em hiểu bài, nắm được các khái niệm và những hiện tượng
phức tạp khó nắm bắt, như hệ ý thức Quốc-Xã, như chủ nghĩa bài Do Thái, như
khái niệm chuyên chế ... Tôi nhận thấy ông không nói nhiều, mà đặt nhiều
câu hỏi. Khi học trò không trả lời được ngay, ông đưa ra các gợi ý hoặc ông nêu
câu hổi theo cách khác. Tôi thấy ông tỏ ra rất kiên nhẫn để hướng các học trò tới
các mục tiêu bài học phải đạt được. Tôi có thể hình dung thấy việc ông chuẩn bị
bài giảng chẳng đơn giản chút nào, ông đã đưa ra bốn lược đồ và học sinh phải tự
phân tích dưới sự hướng dẫn của ông. Xin ông làm ơn giải thích chi tiết hơn về
phương pháp làm việc của ông cũng như về mục đích chính xác của bài dạy này?
Dominique Delmas: Một trong những mục
tiêu có tính thách thức trong chương trình Sử học lớp 9 trung học cơ sở là làm
cho học sinh hiểu rõ hai nhà nước toàn trị thế kỷ thứ 20, là nhà nước Đức Quốc-Xã
và nhà nước kiểu Stalin, làm sao chỉ ra cho các em thấy hai nhà nước đó có gì
giống nhau và có gì khác nhau.
Tôi
hoàn toàn tôn trọng phương pháp suy diễn, xuất phát từ các tư liệu lịch sử để
đi tới phát hiện hệ ý thức, các mục tiêu và cách thức hoạt động trong thực tiễn
của các chế độ toàn trị, nên tôi đã nghĩ đến việc sử dụng các hình ảnh thị phạm
trong đó có cả lược đồ và biểu tượng, tôi làm như vậy vì 4 lý do chính sau đây:
-
Bằng cách thêm dần, trong quá trình thày trò cùng làm việc, từng yếu tố một vào
lược đồ mang hình ảnh thị phạm, ta xây dựng được khái niệm trong tâm trí học
sinh theo cung cách tiệm tiến.
-
Bằng cách diễn đạt thị phạm các khái niệm vừa tổng quát vừa trừu tượng đó, ta sẽ
giúp học sinh tiếp nhận các khái niệm một cách dễ dàng thoải mái hơn.
-
Việc dùng các hình ảnh được xây dựng theo cùng một cung cách triển diễn và dùng
cả các ký hiệu chung khiến cho việc so sánh hai hệ thống được dễ dàng hơn.
-
Ta có thể giúp học sinh làm việc bằng cách yêu cầu các em chuyển từ ngôn ngữ
này [thị phạm – ND thêm] qua ngôn ngữ khác [nói và viết – NDthêm]
bằng cách yêu cầu các em tái tạo lại các lược đồ dưới dạng văn bản viết.
Điểm cuối
cùng vừa nói lắm khi cũng rắc rối. Có khi các em quên diễn đạt lại một số yếu tố
trong lược đồ, khi thì các em không tìm được yếu tố ngôn ngữ cần cho cách biểu
đạt khác, và cũng có khi các em không tái tạo lại lược đồ trước theo một lô
gich chặt chẽ nhất quán (trật tự từ hệ ý thức sang các mục tiêu sang hành động
thực tiễn và các dẫn chứng).
Trong
ba hình thức văn bản viết cơ bản mà khoa Sử học yêu cầu: loại chuyện tự sự, bảng
biểu diễn một tình huống, và việc mô tả có suy lý một hiện tượng lịch sử hoặc một
khái niệm rút ra từ hiện tượng đó, thì dạng văn bản cuối cùng này hay gặp rắc rối
hơn cả. Điều đó có nhiều lý do: việc tạo dựng [lại trong tâm lý học sinh –
ND thêm] không tuân thủ một lô gích tuyến tính hoặc một lô gích
theo chủ đề, nên người học cần làm chủ được những thuật ngữ phức tạp đồng thời
cũng cần biết cách đi từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ
thể, nghĩa là đi con đường quy nạp, ngược với con đường diễn dịch, (từ những tư
liệu cụ thể đến tổng quát hóa) được ứng dụng khi học.
Về cách
thức làm việc, chị đã hoàn toàn thấy rõ những gì tôi tìm cách thực hiện. Cách
tôi sắp đặt các bảng nhằm tạo thuận lợi cho cả những trao đổi và việc lắng nghe
lẫn nhau. Việc phát biểu ý kiến và việc đưa ra các giả thuyết đều được khuyến
khích tối đa nhằm củng cố sự tự tin và độ tin cậy lẫn nhau giữa các học trò phần
lớn đều thuộc diện gặp khó khăn[1]. Các buổi làm việc chung theo cách thức đối thoại đan xen nhau
với các buổi khác để trẻ em được làm việc độc lập hoặc theo từng cặp đôi. Khi
đó việc trao đổi với giáo viên mang tính cá thể hơn và thích hợp với từng học
trò riêng rẽ. Cũng có cả hình thức hoạt động học khác là cách viết bài mà không
ít học sinh cho đến lúc này vẫn gặp khá nhiều khó khăn.
Nguyễn Thị Từ Huy : Giá mà được ông cho
biết về sách giáo khoa Sử học trường phổ thông thì hay vô cùng. Ông là tác giả
sách Sử học dùng trong trường này, ông có thể chia sẻ với chúng tôi những gì
liên quan đến cấu tạo sách giáo khoa của ông, về nguyên tắc biên soạn, và cả về
chương trình Sử học bậc trung học cơ sở của nước Pháp?
Dominique Delmas : Sách giáo khoa được
biên soạn bởi những nhóm giáo viên thường là do tổ chức IPR thanh sát (IPR viết
tắt của Inspecteurs Pédagogiques Régionnaux là Thanh tra Sư phạm
Khu vực phụ trách đánh giá các giáo viên trung học). Tại từng trường, các giáo
viên bỏ phiếu chọn một trong số những sách giáo khoa được in ở các nhà xuất bản
khác nhau (có chừng tám nhà xuất bản như thế). Ở trường phổ thông cơ sở
(collège), sách giáo khoa được phát không, nhưng trường trung học phổ thông
(lycée) thì không như vậy.
Các tác
giả sách giáo khoa biên soạn dựa trên những chương trình học chính thức quy định
các nội dung hoặc các chủ đề, đôi khi các nhóm biên soạn có chọn lựa khác,
nhưng đều phải có những thực hành đặc biệt thí dụ như huấn luyện cách học tự sự
hoặc nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật như là chứng nhân của Lịch sử. Ở Pháp, do
thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc cho tới 16 tuổi, học sinh từ lớp 6 tới lớp 9
phải học cho xong những giai đoạn lớn của Lịch sử kể từ thời Cổ đại tới thế giới
đương đại. Chương trình học tập trung vào Pháp và châu Âu. Các không gian lịch
sử được mở rộng dần, từ vùng Địa Trung Hải tới Đại Tây Dương, rồi tuần tự tới
các vùng khác trên thế giới. Cũng có vài chuyên đề riêng nhưng ngắn gọn học ở lớp
6 về triều đại Gupta của Ấn Độ và thời nhà Hán của Trung Hoa, ở lớp 5 có bài về
các vương quốc và đế quốc Tây Phi châu thế kỷ thứ X và XV. Các chương trình
cũng phản ánh sự tiến triển của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi
cái gọi là Biên niên sử (Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi
các thành tố chính trị và văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và
xã hội, và các chủ đề nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ
hơn.
Như chị
đã thấy, các chương sách đều có những trò chơi đan xen với các tư liệu khác
nhau để các giáo viên lấy từ đó ra để tổ chức cho học sinh hoạt động học. Trong
các trò chơi và tư liệu đó nhất thiết phải có một «bài học» dưới một hình thức
trình bày sáng sủa và dễ hiểu, mà người học phải tìm ra được phần căn bản của
chủ đề được đề cập tới. Sách giáo khoa cũng phải chịu những ràng buộc từ phía
nhà xuất bản: maket và cách dàn trang đôi khi rất áp đặt rất hà khắc, yêu cầu về
tính hấp đãn (để ve vãn người mua và người dùng …) đôi khi lại dẫn tới sự đơn
giản hóa quá mức.
Nguyễn Thị Từ Huy : Ông dạy những nội
dung nào về Lịch sử Pháp cho học sinh lớp 9? Liệu những sự kiện coi là nhạy cảm
(như chiến tranh Algérie) có được đem dạy không?
Dominique Delmas : Ở lớp 9, học trò học
lịch sử Pháp thế kỷ XX. Chương trình học ưu tiên cho ba thời điểm nổi trội:
nước Pháp thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiên thế giới, nước Pháp thời Đức Quốc-Xã
chiếm đóng, phe Kháng chiến và phe Hợp tác với Đức, sau cùng là Đệ Ngũ Cộng hòa
từ năm 1958 cho tới thời điểm hiện nay. Cuộc chiến Algérie được học trong
chương về giải trừ chế độ thực dân. Dần dà, với vấn đề này và nhiều vấn đề khác
nữa, như vấn đề về Thời bị Đức chiếm đóng, cùng với những thay đổi thế hệ và những
tiến bộ trong nghiên cứu, thực tại được bóc trần ở mọi kích tấc, kể cả những thứ
khó xử nhất hạng đốí với ký ức quốc gia dân tộc. Trong Thế chiến 2 chẳng hạn,
đó là những vấn đề về vai trò của chính phủ Vichy và vai trò của một số người
Pháp trong các vụ bắt bớ người Do Thái và đàn áp người kháng chiến, hoặc trong
cuộc chiến tranh Algérie thì có những vấn đề về tội ác chiến tranh và tra tấn.
Liên
quan đến Lịch sử nước Pháp đương đại được dạy ở bậc Trung học cơ sở, có bốn yếu
tố chính yếu trong những năm 1970 đã giúp vào việc nghiên cứu những phương diện
đối lập nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định: sự thay đổi các thế hệ,
những công trình của các nhà nghiên cứu đôi khi là các nhà nghiên cứu người nước
ngoài như nhà viết sử người Mỹ, Paxton, tác phẩm của ông về chính quyền Vichy
đã gây sốc tại Pháp[2], sức mạnh phản kháng trước và sau Biến cố tháng Năm 1968, sau
nữa là những đòi hỏi của các thế hệ con cháu muốn được nghe tiếng nói và ký ức
của những người thiểu số (Người Pháp gốc Algérie vẫn gọi là Pieds-Noirs, người
«lính địa phương» Algérie vẫn gọi là người Harkis, những chiến binh
Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algérie -FLN- trên đất Pháp).
Các
sách giáo khoa được viết tự do về những tội ác gắn liền với chế độ thực dân hoặc
vấn đề về những cuộc nổi loạn năm 1917 trong Thế chiến thứ nhất. Với những giai
đoạn lịch sử xa hơn nữa, các quan điểm có khác nhau. Thế nên, ở lớp 8 Trung học
cơ sở, triều đại của Louis XIV không chỉ được nghiên cứu dưới lăng kính hành động
của nhà vua và giới tinh hoa mà cũng còn được xem xét theo các điều kiện của
người dân thời đó. Về nước Pháp thế kỷ 20, có hai vấn đề gai góc nhất, như tôi
đã nói, là giai đoạn Chiếm đóng và giai đoạn giải trừ chế độ thực dân, nhất là
về cuộc chiến tranh Algérie. Về giai đoạn Chiếm đóng, những vấn đề liên quan đến
chính sách Do Thái của chính quyền Vichy và sự tham gia vào chính sách này của
người dân Pháp và một bộ phận chính quyền và tổ chức chính trị cũng được xem
xét thẳng thắn hơn, đây là một dẫn chứng: trong sách giáo khoa có những tư liệu
cho thấy một người Pháp mặc quân phục Đức trên vai có phù hiệu Pháp và cả những
tư liệu khác cho thấy cảnh sát Pháp tham gia càn quét người Do Thái rồi chở họ
đi trên những xe buýt tịch thu của lực lượng du kích kháng chiến RATP. Cũng có
những tài liệu tương tự về thái độ và dư luận công chúng rất đa dạng, có vẻ như
hồi ban đầu tỏ ra đi theo phe đa số của thống chế Pétain và cứ thay đổi tiến bộ
dần trải qua thời kỳ kéo dài bốn năm chiếm đóng. Sau hết, chuyện chiến tranh
Algérie, Sử học dạy ở nhà trường cố gắng cho thấy sự đa dạng trong quan điểm và
cố không che giấu sự tàn bạo của các cuộc đụng độ: phe khủng bố và việc đàn áp
phe khủng bố. Nhưng các cuộc tranh cãi vẫn còn nóng hổi, một khi vị trí quan trọng
vẫn dành cho việc dạy Sử học trong nhà trường Pháp. Mới cách đây vài năm thôi
đã có dự luật trình Quốc Hội cho phép nhà trường thừa nhận phương diện tích cực
của chế độ thực dân.
Phạm
Toàn dịch
từ tiếng Pháp
---
1 Thiếu tự tin dường
như là một đặc tính của học sinh Pháp. Khi tham dự các test quốc tế của tổ chức
Hợp tác và Phát triển châu Âu OCDE, đa số học sinh Pháp chọn cách không-trả lời
thay vì chọn cách có thể sai, các em học sinh Pháp chiếm số đông trong đám ngồi
im thin thít hơn là rơi vào nguy cơ sai lầm.
2 Tác giả chứng minh rằng
đường lối chính trị của chính quyền Vichy không chỉ là hệ quả của những áp lực
và mệnh lệnh của quân chiếm đóng.
No comments:
Post a Comment